KHOA TRƯỜNG
Hiêu Du vừa lên ngôi thì liền cho những người trong hoàng tộc đến trấn nhậm ở các trấn. Ở triều, đặt thêm chức tể hầu, coi như phó vương. Nghe giao Đam Chuyết giữ chức quan này, ông Bồ Đài đến gặp riêng vua:
-Việc nước là việc chung.Vừa qua đã đưa người trong hoàng tộc giữ các trấn. Nay lại giao chức tể hầu cho cha đẻ của hoàng hậu, không khéo muôn dân nghĩ hoàng thượng có óc hẹp hòi.
Vua nói:
-Nước cường thịnh là nhờ kẻ cầm cân nảy mực. Nay ta phân định lại các quan trấn, chấn chỉnh quan triều, chỉ vì lẽ đó.
-Nhưng có phải chỉ hoàng thân quốc thích mới là kẻ thực tài?
-Nếu không thế sao gọi là để cầm cân nảy mực?
-Ý thần hỏi, ngoài hoàng thân quốc thích, có còn ai là kẻ có tài không?
Nhà vua giận dữ đáp:
-Còn hay không, kệ chúng. Ta nay đủ sức làm vua một nước. Quốc sư hãy lui về an phận tuổi già.
Chuyết đọc nhiều, hiểu rộng. Khi được chức tể hầu thì rất muốn thao túng triều chính. Song, lại rất nể sợ ông vua rể. “Cha con là đạo trong nhà.Vua tôi là việc ở triều. Khanh hãy luôn nhớ điều đó” Du đã dằn mặt ông cha vợ, ngay từ buổi Chuyết mới nhậm chức. Ngồi ghế tể hầu hơn năm, Chuyết được vua sai soạn đạo lý của nước. Xem xong, vua bảo “Chẳng có chi hơn các triều trước” Rồi lệnh Chuyết sang các nước láng giềng để học hỏi. Đi suốt bốn năm, về, Chuyết trình lên vua cách thức chăn dân của các nước ấy. Hiêu Du chê Tây Miêu là man di. Cách trị nước của Di Vang và Đông Mân thì không hợp với Chang Lang. Vân Muôi từng là nước thù địch, nên chẳng thể làm theo họ bất cứ điều gì. Nhà vua chọn lấy đạo vua tôi của nước Bắc Mân làm gốc cho cách trị nước của mình.. Chuyết lại mất một năm để viết thành sách vở. Xem xong, vua bảo được. Rồi lệnh đem dạy cho các quan triều..
Nghe chuyện, thái hậu Tương Linh đến hỏi vua:
-Ta nghe nay đem đạo lý của nước người về dạy ở nước mình, phải không?
Vua đáp:
-Đạo lý là của chung thiên hạ, sao thái hậu còn phân biệt của người với của ta.?
Bà Tương Linh nén giận, nói:
-Chỗ chung nhất nghe qua thì đựoc. Song, ta muốn biết đạo lý ấy cho thật tỏ tường.
Nhà vua liền đáp:
-Thưa, đấy là đạo vua tôi. Vua yêu thần dân như yêu cha mẹ. Nên thần dân cũng phải yêu vua như cha mẹ yêu con.
Bà Tương Linh không nhịn được cười. Rồi liền nghiêm mặt, hỏi
-Ta còn nghe các quan triều bàn tán, nay vua thay thần Cốc trị nước, phải không? Nhà vua đáp phải. Thái hậu Tương Linh tuôn trào nước mắt.
-Giá ta được chết ngay bây giờ để khỏi nhìn thấy cảnh đảo lộn đạo lý của tổ tiên.
Thị nữ phải dìu, bà thái hậu mới bước nổi. Không trở về tư dinh, mà đến chỗ ông Bồ Đài. Quốc sư đã rõ mọi chuyện từ trước. Con đại bàng già với con chim câu góa bụa chỉ còn biết im lặng nhìn nhau.
Nhà vua lại lệnh tể hầu Đam Chuyết đem đạo lý mới truyền xuống các thủ trấn, các thủ trấn truyền xuống các thủ dinh, các thủ dinh truyền xuống các hương trưởng. Hơn trăm năm qua, người Chang Lang vốn quen với lề thói cũ. Nay bỗng có chuyện thế, nên các quan triều xôn xao bàn luận. Thật ra, từ đám triều thần đến các quan chức địa phương, chưa mấy ai thấu tỏ những điều mới mẻ kia. Ở Xuyên Lâm, hương trưởng Vu Xia đi rao đạo lý mới của vua. Nhưng vì chưa hiểu hết nên lời rao thừa trước hụt sau. Bấy giờ Khưu Chiêu đang dạy Luân việc nông tang. Bao nhiêu người đến nhờ ông giảng giải cho nghe những lời rao của hương trưởng Xuyên Lâm. Quan văn hầu thật lòng bảo: “ Thằng Vu Xia nó sắp điên cũng nên “.
Mỗi ngày một bận, các quan triều vẫn đến chầu vua. Một lời vua phán, trăm quan răm rắp mà nghe. Xét ra, việc triều chính cũng chẳng có chi khác với khi chưa ban đạo lý mới. Lúc nghĩ đến chuyện này, đám triều thần lại ngơ ngác, hỏi nhau “ Thế này là sao?”. Chỉ có Chuyết là im lặng, chúi đầu vào công việc của mình. Quan tể hầu muốn tỏ cho vua biết, ông là người sinh ra vương phi Đam Mỵ, giờ lại đẻ ra bao nhiêu quốc sách giúp vua trị nước. Phải. Chuyết muốn lần khảo thí ấy phải khác với các lần khảo thí thời Hiêu Lịch. Ông dành nửa năm để soạn trường qui. Vua xem xong, nói:
-Ta thấy còn chỗ thiếu.
Chuyết dập đầu, lạy:
-Xin hoàng thượng truyền dạy.
Theo trường qui Chuyết soạn thảo, vua là chủ khảo kỳ thi. Quan tể hầu làm phụ khảo. Quan khảo bên trường văn có văn hầu Hiêu Dật, ngoại điện Nhữ Bột, lễ nhạc Bào Tu. Bên trường võ có vũ hầu Vưu Trấp, thống binh Viên Cưu. Ý vua phải có quan cơ chính Hiêu Thâm đứng vào phụ khảo. Cơ chính là chức mật yếu ở triều, có nhiều việc vua chỉ bàn riêng với quan ấy. Chỗ này Chuyết cũng có ý riêng. Là nếu để Thâm vào phụ khảo sẽ lấn cấn cho mình. Giờ nghe vua phán, Chuyết sợ hãi trong lòng.
-Thần còn dốt nát, chưa thấu hết mọi lẽ. Mong hoàng thượng gia ân.
Vua cười, truyền Chuyết đứng lên, rồi bảo ban thêm:
-Phụ khảo chỉ để giúp vua. Việc cho đỗ hay không là ở ta. Chắc khanh đã rõ.
Đã đến ngày mở khoa thi. Thí sinh ở Nam Biên có Khưu Luân, kinh thành Xương Quơn có Nhữ Đạo, con quan ngoại điện Nhữ Bột. Một số khác đến từ các trấn ở gần kinh thành. Cộng hết thảy là mười bảy người xin ứng thí.
Vua hỏi Chuyết:
-Khanh cho ban bố lệnh mở khoa kỳ từ bao giờ?
Quan tể hầu đáp:
-Thưa hoàng thượng, vừa đúng một năm.
Vẻ tư lự hiện ra trên nét mặt vua.
-Dân Chang Lang ta hơn ba mươi vạn. Khanh thấy ứng thí mười bảy người là nhiều hay ít?
Chuyết cúi đầu, im lặng. Các quan khảo cũng im lặng.
Vua lệnh cho các sĩ tử vào trường văn. Ở trường này, các quan khảo trường võ chỉ làm công việc chứng minh. Chuyết vốn ngầm ghét Khưu Chiêu, nên lần khảo thí ấy cố tìm cách đánh hỏng Khưu Luân. Con trai quan văn hầu được Chuyết gọi vào trước nhất. Các lời vấn ở trường văn là do Chuyết soạn.
Lễ nhạc Bào Tu hỏi:
-Phải phận thần dân đó không?
Luân cố nhịn cười, đáp phải. Vì nếu chẳng phải dân Chang Lang làm sao Luân được về kinh ứng thí. Quan tể hầu lật đật đứng lên, trừng mắt nhìn ông quan rể. Lời vấn, Tu học thuộc từ lâu. Song, do bối rối, nên đã lộn trước ra sau.
Quan lễ nhạc cố nhớ, rồi hỏi lại:
-Phận thần dân thì phải thế nào?
Đạo vua tôi của nước Bắc Mân ư? Luân chợt nhớ lời than thở của thầy lúc nghe hương trưởng Xuyên Khê rao truyền đạo lý mới của vua, nên liều mình đáp:
-Phải yêu vua như cha mẹ yêu con, thưa quan khảo.
Chuyết giật mình. Còn vua bảo được. Rồi lệnh cho Luân sang lời vấn của quan ngoại điện.
Bột hỏi:
-Được ngôi vua thì phải làm sao?
Luân liền đáp:
-Thưa, dân yêu vua như cha mẹ yêu con, nên vua phải yêu dân như con yêu cha mẹ.
Chuyết lại giật mình.. Vua lệnh bỏ qua lời vấn của văn hầu Hiêu Dật. Luân tưởng thế là quay về Xuyên Lâm vui cùng cày cuốc. Nhưng nào phải.
-Năm này khanh bao nhiêu tuổi?.
Du chợt hỏi.
Luân vái chào vua, rồi đáp:
-Tâu hoàng thượng, vừa tròn mười tám.
Năm ấy Luân mới mười tám tuổi, nhưng cao to, vạm vỡ chẳng khác anh con trai hăm lăm hăm bảy. Đến lúc này quan vũ hầu Vưu Trấp mới nhận ra Luân. Ông đưa mắt nhìn con trai người bạn đồng liêu chí thiết, không dấu được niềm vui.
Nhà vua lại hỏi:
-Khanh vẫn ăn học với quan văn hầu Khưu Chiêu, phải không?
Luân đáp:
-Thưa, học cày cuốc với cha. Còn học văn võ với thầy Đa Trà ở Xuyên Khê.
Vua chợt cau mày:
-Khi được làm quan, khanh sẽ nói với ta điều chi trước nhất?
Luân liền đáp:
-Tâu hoàng thượng, dẫu làm quan cũng phận thần dân. Nên thần sẽ nói, thần yêu vua như cha mẹ yêu con.
Hết thảy các quan khảo đều cúi đầu, im lặng. Vẻ giận dữ chợt hiện ra trên nét mặt Du. Song, vua liền lấy lại bình thường.
-Được. Còn điều thứ hai là điều chi?
-Thưa, điều thứ hai do điều thứ nhất mà ra. Là mong hoàng thượng nghĩ sao hãy làm vậy.
-Hãy nói luôn điều thứ ba cho ta nghe?
-Có hai điều trước, tất phải có điều sau. Là xin hoàng thượng hãy giữ trọn đạo làm con đối với muôn dân.
Vua lệnh cho Luân ra nghỉ, để chờ vào trường võ.
Mười lăm sĩ tử vào sau đều bị loại khỏi trường văn, vì không đáp nổi lời vấn đầu tiên của quan lễ nhạc. Người cuối cùng vào thi là Nhữ Đạo. Tất nhiên, con quan ngoại điện đã thuộc lòng các lời đáp từ trước. Vua cũng bảo được, chờ vào trường võ. Việc khảo hạch ở trường văn chỉ một ngày là xong. Nên ngay hôm sau đã mở tiếp trường võ. Nhữ Đạo vốn chẳng học hành, nên chẳng thể bắn cung, múa kiếm. Luân chạy ngựa chiến, vượt khỏi chín mươi chín hào thành. Chuyển qua bắn cung trăm mũi, Luân bắn trúng cả trăm. Cuối cùng là bài thi côn kiếm.
-Tuyệt.
Nhà vua chợt đứng lên, nói, lúc Luân chấm dứt thế Tô Lư u khốc
Đến giờ các quan khảo luận định số phận của sĩ tử.
Vua bảo:
-Quan phụ khảo hãy nói trước đi.
Chuyết đứng lên thưa.
-Chiếu theo trường qui đã được hoàng thượng chuẩn y, thần xin bày tỏ ý nghĩ của mình. Ở trường văn, Khưu Luân đã có những lời bất kinh đối với vua, nên không thể cho đỗ. Nhữ Đạo qua hết các lời vấn của các quan khảo ở trường văn, tất được sung vào chức văn khanh. Ở trường võ, Khưu Luân đã qua đủ các bài khảo hạch. Song, chẳng bài nào trọn vẹn. Ngựa chiến suýt sẩy chân ở hào thành chín mươi chín. Bắn trúng trăm mũi, nhưng quá chậm. Kiếm thuật lại yếu mềm. Xét ra, chẳng thể sung chức vũ khanh.
-Làm quan mà xem vua như con, là tội rơi đầu. Lễ nhạc Bào Tu tiếp lời quan nhạc phụ.
Vũ hầu Vưu Trấp chợt đứng lên.
-Luận định cuối cùng tất do hoàng thượng. Chỉ có mỗi điều chưa ổn, là chỗ hoàng thượng khen hay, thì quan phụ khảo lại chê.
Chuyết vội dập đầu, lạy:
-Thần đâu dám thế, mong hoàng thượng gia ân.
Nhà vua vỗ bàn, nói:
-Quan tể hầu hãy đứng lên đi. Chỗ khoa trường, các quan khảo tranh luận, là lẽ thường.Ta nay là chủ khoa trường, luận định như sau. Quan ngoại điện có con ứng thí, mà không xin rút khỏi quan khảo là có ý không ngay thẳng. Nhữ Đạo tuy có qua đủ các lời vấn ở trường văn, song chẳng thể cho đỗ. Khưu Luân thấu đạt đạo lý vua ban, đường côn kiếm coi như có một không hai, ta truyền sung chức văn vũ khanh ở triều.
Nhữ Bột lo sợ bỏ ngủ bỏ ăn, lén sang dinh quan tể hầu cầu cứu. Nhưng Chuyết đã ngãbệnh ngay sau khi rời khỏi trường thi. Thấy Bột đến, quan tể hầu gượng dậy, hỏi:
-Ông ngoại điện đã biết thế nào là vua chưa?
Bột chẳng hiểu thế là sao, nên vội thưa:
-Xin quan tể hầu dạy bảo.
Chuyết rán mở miệng, cười:
- Ông vua rể của ta biết tỏng thằng Luân là đứa giống cha. Có tài, song cứng đầu cứng cổ. Để xem vua có cỡi nổi con ngựa bất kham ấy không?