← Quay lại trang sách

Phần I: Những vụ án đơn giản 1-5 Khoản lương cuối cùng-Jay Matthews-

1 Văn phòng Công ty Carson nằm phía trên một ngân hàng trong một tòa nhà nhỏ ở đường Hawthorne.

Một phụ nữ béo lùn đón tôi ở hành lang.

“Tôi là thư ký của ông Carson”, bà ta nói, chìa ra bàn tay múp míp.

“Tôi là thanh tra Nancy Marshall”, tôi nói, bắt lấy bàn tay đó.

Bà ta dẫn tôi đến phòng họp và giới thiệu tôi với Brad Carson.

“Chào thanh tra”, Carson nói, “Hy vọng cô sẽ tìm ra kẻ giết bà vợ tội nghiệp của tôi”.

“Đó là việc của tôi mà”, tôi nói và bắt đầu đọc bản báo cáo. “Sáng thứ bảy, bà Carson, giám đốc công ty, ở trong văn phòng một mình. Vào lúc 10 giờ 30, ông Carson đến và thấy một nhân viên cũ rời khỏi tòa nhà”.

“Eddie Morton”, Bà béo nói.

“Eddie Morton”, Carson lặp lại. “Tôi sa thải Morton tuần trước”.

Tôi tiếp tục. “Ông Carson tới văn phòng và thấy bà Carson đã chết. Cửa văn phòng đã bị tông vào”.

Tôi nghĩ rằng không cần phải đọc tiếp rằng bà Carson tội nghiệp cũng đã bị đập vỡ đầu.

Tôi tiếp tục. “Phòng điện thoại ở tầng hầm đã bị phá hỏng. Mọi điện thoại trong tòa nhà đều bị ngắt liên lạc”.

“Tôi biết tại sao rồi”, Carson hớn hở. “Hắn làm vậy để ngắt hệ thống báo động. Nếu có cánh cửa bị phá là hệ thống báo động sẽ kích hoạt và gọi cho cảnh sát”. Ông ta nhìn tôi tự mãn. “Mà Morton đã từng làm bảo trì cho công ty điện thoại mà”.

“Ông Carson, ông đến văn phòng vào thứ bảy để làm gì?” Tôi hỏi tiếp.

“À, tôi biết vợ tôi sẽ ở đây xem xét các báo cáo...”

“Báo cáo gì vậy?”

“Báo cáo kiểm kê hàng. Có thất thoát trong kho hàng vừa bị phát hiện. Tôi nghĩ Morton giết vợ tôi vì sợ bị vạch mặt”. Ông ta nhìn bà béo lùn, và bà ta gật đầu. “Tôi đã gọi điện cho bà ấy, nhưng điện thoại bị treo. Tôi biết là có chuyện không ổn”.

“Vậy là ông vào văn phòng, thấy xác vợ mình và gọi 911”.

“Đúng vậy, nhưng tôi qua cây xăng bên kia đường. Điện thoại bị treo mà, nhớ không?”

Tôi nhớ. Tôi muốn chắc rằng ông ta cũng nhớ.

“Tôi là người cuối cùng thấy bà ta còn sống”, bà béo lùn lên tiếng.

Tôi nhướng mày chờ đợi.

“Tôi đang soạn mấy hồ sơ thì bà giám đốc đến.

Chúng tôi nói chuyện vài phút rồi tôi đi. Trên đường đi ra tôi thấy Eddie Morton lái xe vô. Lúc đó khoảng 10:20, hay 10:25 gì đó”.

Không tìm biết được gì thêm, nên tôi quay trở lại Sở Cảnh sát.

“Vụ Carson ra sao rồi?” Phụ tá Emerson hỏi.

“Carson cho rằng một nhân viên cũ, Eddie Morton, đã làm vụ này, để tránh không bị vạch mặt ăn cắp. Carson thấy Morton rời tòa nhà ngay trước khi phát hiện xác chết”.

Emerson thấy ngay là tôi chưa tin chắc.

“Nhưng...”

“Bà thư ký cũng ở hiện trường trong khoảng thời gian xảy ra vụ án”.

“Bà ta có đủ mạnh để phá cửa không?”

“Cánh cửa đó là đồ dỏm. Một thằng nhóc cũng đạp tung ra được”.

“Tôi không giết bà Carson”, Eddie Morton nói vào chiều hôm đó khi tôi tới căn hộ của ông ta.

“Ông đến văn phòng vào thứ bảy để làm gì?”

Ông ta thở dài. “Khi Brad sa thải tôi vào thứ sáu, tôi đòi tiền lương. Brad nói sẽ chuyển cho tôi. Tôi không chịu, và bà Carson nói thứ bảy sẽ ký chi phiếu cho tôi, vì bà ta sẽ tới văn phòng hôm đó”.

“Chuyện gì xảy ra khi ông đến đó?”

“Cửa khóa, nên tôi nhấn chuông. Bà Carson mở cửa, ký chi phiếu cho tôi, chúc tôi may mắn, và khóa cửa sau khi tôi đi. Tôi xuống máy ATM ở tầng dưới, gởi tiền từ tờ séc rồi về nhà. Còn hóa đơn nè”. Ông ta lục trong ví ra một hóa đơn gởi tiền qua ATM. Tôi kiểm tra thời điểm. “10:28 sáng”.

Không còn gì để hỏi, nên tôi về nhà, pha một ly rượu và suy nghĩ về vụ này.

Nửa tiếng sau tôi gọi cho Emerson. “Tôi đã có lời giải”.

* Câu hỏi: Thám tử Nancy nghi ai?

-

2

Đứa nào đánh đổ đống dưa?

Thomas Stanwick

Stamps vừa bước vào cửa hàng tạp hóa Krechman định mua ít trà và thuốc lá thì Otto Kreckman, ông chủ, vội vàng bước tới.

“Ông Stamps, gặp ông tôi mừng quá”, ông ta nói.

“Ông lại đây xem chuyện gì này”.

Krechman dẫn Stamps tới một gian hàng nhỏ. Ở đó một đống dưa bày trên bàn đã bị xô đổ, bể tung tóe trên sàn. Bốn cậu bé độ mươi tuổi đang đứng bồn chồn quanh đó.

“Mấy đứa này loanh quanh ở đây nãy giờ”, ông chủ nói bực bội, “và một trong chúng nó đã đánh đổ đống dưa. Vậy mà không đứa nào chịu nhận tội”.

“Thiệt hại thì cũng không là bao”, ông ta nói nhỏ với Stamps, “nhưng tôi muốn đứa nào có lỗi thì phải biết nhận lỗi”.

Stamps trầm ngâm nhìn từng đứa một. Tất cả đều sống ở khu phố này và ông biết tên chúng.

“Richard”, bất thình lình ông hỏi, “đứa nào đánh đổ đống dưa?”

“Thằng Harry với thằng Frank đó”, Richard đáp.

Harry và Frank sừng cồ lên ngay.

“Tao không có đánh đổ à nghe!” Frank nói tức tối.

Stamps quay sang cậu bé tóc đỏ. “Còn cháu có ý kiến gì, Tommy?”

Tommy ngọ ngoạy với vẻ khó chịu. “Chỉ có một đứa đánh đổ thôi”.

“Còn cháu muốn nói gì, Harry?”

“Thằng Tommy với thằng Frank nói thật đó”.

Harry đáp cáu kỉnh.

Krechman kéo Stamps ra xa.

“Hồi nãy tôi hỏi bọn chúng cũng chỉ nói thế”, ông ta nói. “Mấy thằng này tôi rành quá mà. Tommy là đứa thật thà, tôi tin nó chẳng bao giờ nói láo, nhưng nó lại thương bạn bè nên không tố cáo đứa nào đâu.

Còn thằng Harry thì ngược lại. Nó nói dối như cuội mỗi khi bị nghi ngờ. Còn hai thằng kia thì tôi không biết tin đứa nào, và cũng không cách chi suy ra ai là thủ phạm”.

“Nếu thế”, Stamps mỉm cười tinh quái. “Tôi giúp ông được rồi. Tôi sẽ suy ra trúng phóc thủ phạm”.

* Câu hỏi: Đứa nào là thủ phạm?

3

Kẻ sát nhân vô hình

Thomas Stanwick

Thanh tra Matthew Walker thấy dễ chịu với làn gió biển khi bước vào nhà hàng Sea Maiden. Bên trong, hai sĩ quan đang ghi tên họ và địa chỉ những người có mặt ở đó khi phát hiện xác chết. Việc phát hiện xảy ra lúc 3:30 chiều, chưa đầy một giờ trước khi ông tới đây, và hiện diện ở đó chỉ có sáu khách - một cặp vợ chồng và một gia đình bốn người - Ngoài ra còn có một thu ngân, hai bồi bàn, một cậu dọn bàn, hai nữ tiếp viên, và chủ nhà hàng.

Walker tự giới thiệu với chủ nhà hàng, Steven Evans, ông này vẫn còn bối rối, rồi họ đi qua thực phòng chính, có tới 17 bàn, để vào thực phòng phụ ở mé phải.

Các nhân viên cảnh sát đang chụp hình và lấy dấu tay các loại. Phòng này chỉ có một cửa thông với thực phòng chính. Một trong năm cái bàn ở đây vẫn còn ngổn ngang mấy đĩa thức ăn dang dở và muỗng nĩa. Nằm gục trên cái bàn này là nạn nhân, Gerald Hottleman, với một lưỡi dao cắm trên lưng.

“Đây là dao ăn bíttếch của nhà hàng, không có dấu tay”, một nhân viên nói. “Đã bị chùi sạch”.

Walker nhìn quanh phòng, mấy cửa sổ nhỏ gần trần nhà không đủ sức làm giảm không khí ngột ngạt và nóng bức ở đây. Trong phòng còn đầy mùi cá nướng.

“Xác chết được phát hiện ra sao?” Walker hỏi ông chủ.

“Độ một tiếng trước, Kris, tiếp viên phụ trách phòng này, định vào để xem khách còn cần gì không”, ông chủ kể lại. “Cô thấy ông ta thế này ngay khi mở cửa và đứng ở đó gào lên”.

“Lúc đó không có ai khác trong phòng sao?”

Walker hỏi.

“Chỉ có mình ông ta thôi. Một cặp vợ chồng già ăn xong đã ra về khoảng hai mươi phút trước khi chúng tôi phát hiện nạn nhân”.

“Có ai thấy Hottleman còn sống sau khi họ ra về không?” Walker hỏi.

“Có chứ. Khi hai ông bà già ra tới quầy, ông Hottleman chạy ra đưa bà già chiếc kính mát bà ta bỏ quên trên bàn”.

“Rồi ông ta trở vào ăn tiếp?”

“Phải”.

“Từ lúc ông ta trở vào tới lúc phát hiện xác chết có ai ra vào phòng đó nữa không?”

“Đâu có ai. Mọi khách khác đều ăn bên phòng lớn, còn Kris được tạm nghỉ”.

“Làm sao ông dám chắc không có ai lẻn vào phòng đó?” Walker nhìn ông chủ soi mói.

“Tôi ngồi ngay cái bàn cạnh quầy thu ngân để cộng hóa đơn”, Evans đáp, “có ai ra vào thì tôi phải thấy chứ”.

Walker nhìn quanh ngẫm nghĩ. Chỉ có một cửa từ thực phòng chính vào căn phòng nhỏ đó. Cửa sổ phòng đó thì nhỏ, khó ai chui lọt, và cũng quá cao để không thể từ ngoài phóng dao vào. Vả lại góc cắm của con dao trên lưng nạn nhân đã loại bỏ giả thuyết này.

Ông quay sang hỏi mấy viên cảnh sát.

“Matt, ông ta có mất gì không?”

“Chắc Hottleman mất cái ví”.

“Làm sao biết ông ta là Hottleman?”

“Chủ nhà hàng với nhân viên đều biết ông ta. Khách quen mà”.

“Ăn trưa giờ này thì hơi trễ he”. Walker lẩm bẩm.

“Vậy mà chẳng ai nghĩ thế”. Anh cảnh sát đáp.

Các nhân viên khám nghiệm và bác sĩ pháp y đã xong việc. Họ mang xác đi. Cậu dọn bàn đẩy cái xe nhỏ vào phòng để dọn bàn ăn của nạn nhân. Walker bước ra cửa.

“Ai ra vào phòng ông chủ cũng thấy. Không ai vào phòng sau khi cặp vợ chồng già kia ra về. Ông ta rời phòng, rồi trở vô, và không có ai vào phòng cho đến lúc phát hiện xác chết. Kẻ sát nhân này vô hình sao? Nhưng tao biết vì sao mày trở nên vô hình rồi”.

* Câu hỏi: Ai đã giết Hottleman?

4

Oan gia giũa đường

Hy Conrad

Hans Groaner bước lên sân ga và đưa mắt nhìn con tàu. Con tàu Orient địa phương này chẳng đời nào bảnh bằng tàu Orient Tốc Hành. Ngày nay nó chỉ còn là một khối rệu rã được gắn kết lại bằng vô số đinh ốc và đai kẽm. Từ Paris tới Istanbul, ga nào nó cũng dừng lại và chỉ dành cho những khách cực kỳ kiên nhẫn và cực kỳ túng thiếu. Hans có cả hai điểm đó. Là một nhân viên Interpol hết thời, ông chẳng còn đi được tới đâu và cũng chẳng vội vàng đi đâu cả.

“Chào Groaner”.

Hans ngước lên và thấy gương mặt quen quen của tay soát vé đang săm soi tấm vé của ông. “Không nhận ra tôi hả?” Người đó nở một nụ cười đáng ngại.

“Tôi là Bella Barstol. Hai năm trước tôi là chủ một công ty xuất khẩu cho đến khi ông moi được tài liệu khiến giấy phép kinh doanh của tôi bị thu hồi”.

“À, phải, Barstol”. Goaner nhớ mơ màng. “Thấy ông có việc làm là vui rồi. Không bực bội chứ?”

“Dĩ nhiên”, Bella ầm ừ và hướng dẫn ông lên toa.

Groaner đi dọc hành lang chật hẹp để tìm khoang của mình. Một phụ nữ xinh đẹp đang khệ nệ đưa va-ly vào một khoang nọ. Bà ta trông giống y hệt... Ôi trời! Không lẽ...

“Chào Hans!”

Vera McClurg có thời rất thân thiết với Hans, dù không muốn. Họ đụng nhau nhiều năm trước khi Hans đang thu thập bằng chứng về gian lận ngân hàng.

Vera đã năn nỉ ông đừng đưa tên bà ta vào báo cáo, và họ đã du hí với nhau nhiều dịp cuối tuần ở Paris.

Rồi mọi chuyện chấm dứt năm năm trước khi Hans thấy không thể tiếp tục bao che cho bà ta được nữa.

“Hết hạn tù rồi hả?” Hans hỏi.

“Nhờ hạnh kiểm tốt”. Vera đáp lạnh lùng và bước vào trong khoang.

Hans chưa đến được khoang của mình thì lại đụng một gương mặt quen thuộc nữa. Morris Darling đang đứng ở cửa khoang, tự hỏi có mùi gì khó chịu thế, khói ở đầu máy hay nệm vải của ghế ngồi. “Ô, Groaner đó phải không?” ông ta kêu lên khi nhìn thấy Hans.

Morris có tên trong hồ sơ Interpol cả mấy thập niên, và một trong những chiến công hiếm hoi của Hans là tìm đủ chứng cớ để bắt giữ và kết án Morris.

“Ra sớm nhờ hạnh kiểm tốt hả?” Hans hỏi yếu xìu.

“Nhờ vượt ngục”. Hans không hiểu hắn ta nói thiệt hay nói chơi.

Vụ ám sát được một nhân viên soát vé khác phát hiện tại một ga lẻ loi ở phía tây Venice. Thanh tra Testarosa tới hiện trường và thu thập dữ liệu có liên quan.

“Chúng ta đã xác định gần đúng thời điểm xảy ra án mạng”, ông ta nói khi liếc mắt qua những ghi chép trong sổ tay. “Có một đoạn đường rất xấu. Nửa giờ liền qua đoạn đường xe lửa xấu nhất thế giới. Có lẽ chính trong đoạn này mà Hans Groaner bị tấn công bằng cái kìm bấm vé sắc cạnh khủng khiếp này”.

“Đó là kềm bấm vé của tôi”. Barstol thừa nhận.

“Tôi treo áo ngoài hành lang. Ai cũng có thể dễ dàng lấy nó ra khỏi túi áo”. Ông ta thấy mọi người cứ nhìn một vết xước ở cổ tay phải của ông. “Lúc nãy tôi có vào phòng vệ sinh, uống một chút rượu, rồi bị té và trầy tay”. Viên thanh tra vào phòng vệ sinh và tìm thấy vết máu quanh bồn rửa tay.

“Tôi ở trong khoang viết thư”, Morris Darling nói khi chìa ra một xấp năm trang thư viết ngay ngắn, “cho mẹ tôi”. Đọc sơ lá thư thì quả là Morris viết thư cho mẹ - một công nhân ở Hoboken.

“Tôi cũng ở trong khoang của mình suốt thời gian đó”, Vera khai. “Để sơn móng tay”. Rồi bà ta bối rối thọc tay vào túi áo, viên thanh tra nhận thấy có một vết ướt ở váy của bà ta. Giữa vết ướt là một bệt màu đỏ không chịu phai sau khi được xả nước sơ sài.

Thanh tra Testarosa lập tức nhận thấy rằng một trong ba bằng chứng ngoại phạm này là không đáng tin cậy.

* Câu hỏi: Testarosa đã nghi ngờ ai?

5 Tấm bảng mất tích

Hy Conrad

Nina đang ăn trưa với bánh pizza lạnh ở nhà Max một ngày tháng 6 nóng nực thì bà Decker bước vào với vẻ mệt mỏi.

“Bực quá đi”, bà ấy nói. “Cháu còn nhớ cái nhà cũ xì trên đường Norton không? Sáng nay bác cắm một tấm biển ‘Nhà Bán’ ngay trước sân. Hồi nãy bác chạy xe ngang qua thì tấm biển biến đâu mất rồi. Vậy là tháng này bác đã mất ba tấm biển như thế”.

“Ai mà lại đi lấy trộm một tấm biển như thế nhỉ?” Nina hỏi. “Mà người ta lấy để làm gì?”

“Ai biết?” bà Decker rót một ly nước chanh.

“Hay chỉ là mấy thằng bé rắn mắt. Tụi nó lấy bảng để làm nhà chòi không chừng”.

Max huých cùi chỏ vào Nina. “Đạp xe qua đó coi thử nghe?”

“Có gì đâu mà coi”. Bà Decker, mẹ Max, nói. Cả đoạn đường đó chỉ có hai căn nhà. Bà Sterns sống ở căn gần bên ngôi nhà mẹ đang rao bán”.

“Biết đâu bà ấy có trông thấy cái gì đó”, Nina nói. “Đi coi thử”.

Khi hai đứa đang đạp xe đến cuối đường Norton, chúng thấy một chiếc xe tải đậu ngay trước ngôi nhà rao bán. Một người đàn ông đứng trên lề đường nhìn quanh quất.

“Mấy cháu biết khu này không?” ông ta hỏi. “Tôi ở ngoại ô, có đứa cháu, tên là Paul, mách cho biết có cái nhà đang rao bán trên đường này, nên nó cho tôi mượn xe chạy vào đây. Mà tôi có thấy bảng ‘Nhà Bán’ nào đâu”.

“Nhà này đang rao bán đó”. Max đáp. “Mẹ cháu là môi giới địa ốc mà”.

“Hay quá! Thế mẹ cháu tên gì? Văn phòng của bà ấy ở đâu? Tôi muốn hỏi thêm chi tiết. Thằng cháu tôi nói nhà ở khu này bán lẹ lắm. Hy vọng chưa có ai mua. Tôi bận quá đâu có giờ đi dò hỏi”.

Khi Max trả lời xong, ông ta lên xe đi ngay. Nina nhìn theo. “Ai mà biết được? Cháu ông ấy có thể lấy tấm bảng đi vì không muốn có người khác mua mất căn nhà trước khi ông chú xem qua. Cái thùng xe đó giấu được cả đống thứ”.

Max gật đầu. “Thử hỏi bà Sterns xem có thấy gì lạ sáng nay không”.

Bà Sterns xuất hiện ngay khi hai đứa gõ cửa. Tuy tóc đã muối tiêu nhưng trông bà ta còn khoẻ mạnh.

“À, bác đoán ra ai lấy tấm bảng rồi”, bà ta nói. “Freddie Swanson chứ ai. Nó sống cách đây một dãy phố, nhưng mà chuyên môn phá phách”.

Bà ta để cửa mở trong khi nói chuyện và Nina nhìn vào trong. Phòng khách coi bảnh dữ. Cái trường kỷ và mấy ghế nệm bọc nhung rõ ràng là đồ cổ. Cái bàn phủ khăn thêu ren sang trọng. Một bức tranh lớn treo trên bệ lò sưởi chạm trổ tinh xảo, trong lò, một ngọn lửa đang nhảy nhót vui mắt.

“Cháu biết thằng Freddie đó rồi”, Max nói. “Để cháu đi tìm nó coi”.

Freddie đang chạy máy cắt cỏ khi hai đứa tới. Nó nhíu mày khi nghe Max hỏi. “Tao lấy tấm bảng đó làm cái quái gì?” nó nói. “Mà suốt sáng tới giờ tao ở đây cắt cỏ còn chưa xong, còn đi đâu được nữa”.

Nina nhìn vô nhà xe. Ở nhà, ba má nó dễ gì đưa xe vào nhà xe được vì trong đó chất đủ thứ đồ lẩm cẩm. Còn nhà xe Freddie thì trống trơn. Rồi nó thấy một căn chòi gỗ trên cây giữa sân. Vách gỗ xám xịt và bạc màu vì mưa gió. Nó với Max trao đổi ý kiến khi đạp xe về. Bà Decker đang rửa chén sau bữa trưa khi chúng về tới.

“Cháu đoán ra ai lấy trộm tấm bảng rồi”. Nina nói với bà Decker.

* Câu hỏi: Nina nghi ngờ ai?