- 6 - 13 - Vụ trộm kho bánh Trung Thu-Jack Christone--
“Hinters, tới trụ sở liền được không? Walejade nói qua điện thoại. “Tôi biết đang là tối thứ bảy và ông thích ở với vợ con. Nhưng tôi đang gặp một chuyện nát óc mà chắc giỏi suy luận như ông cũng chưa chắc giải nổi”. Ông thanh tra rên rỉ.
“Được rồi, nếu chuyện không quan trọng thì ông đâu có kêu. Tôi tới liền. Nếu hên thì mình sẽ giải quyết xong kịp giờ cho tôi về với món rô-ti của bà xã trong lò”. Tay bác sĩ đáp.
Walejade đón Hinters ngay cổng đồn cảnh sát và dẫn ông ta vào phòng thẩm vấn, nơi Henry Watchman đang ngồi bồn chồn bẻ đốt ngón tay. “Ông có nghe vụ trộm kho bánh Trung thu tối qua không?” Walejade hỏi. “Có đứa đột nhập và chở đi toàn bộ kho trứng để làm nhân bánh. Ông Watchman đây là bảo vệ nhà kho, giữ ca trực đêm qua. Tôi vừa lấy lời khai của ông ta xong”.
“Như ông thanh tra vừa nói”, Watchman lên tiếng. “Nhà kho bị đột nhập ngay ca trực của tôi tối qua. Tôi không hay biết gì vì lúc đó tôi bỏ đi uống càphê, nhưng khi từ quán cà-phê trở về, tôi thấy một trong những tay đã làm vụ này. Đó là John O’Henry, thằng đó vừa bị đuổi việc mấy bữa trước. Tôi thấy nó đang chuồn đi với mấy cái thùng. Trăng tròn nên tôi thấy rõ lắm. Nó còn có một đồng bọn nữa, nhưng thằng đó quay lưng về phía ánh trăng nên tôi không nhìn rõ mặt. Tôi nghi thằng O’Henry muốn trả thù vì bị đuổi việc. Cũng may, Trung thu là Chủ nhật vừa rồi, nếu không là có biết bao nhiêu tiệm bánh khiếu nại vì không có bánh bán”.
“Chuyện rắc rối là ở chỗ”, Walejade nói sau khi ông bảo vệ được cho về, “cái gã O’Henry đó lại có bằng chứng ngoại phạm. Chiều nay tôi mới thẩm vấn nó.
Nó khai cả buổi tối ở nhà với vợ coi phim Titanic. Con vợ làm chứng cho nó. Thằng cha chủ tiệm cho thuê băng đĩa cũng xác nhận có cho nó thuê đĩa phim đó.
Ông suy ra được cái gì không?”
“Tôi suy ra là tôi thừa sức về nhà để kịp ăn món rô-ti với vợ tôi”. Hinters nói. “Ông khỏi phải ưu tư về tay O’Henry nữa. Cứ hỏi lại cha Watchman xem cha làm gì lúc bỏ vị trí nhiệm sở đi uống cà phê”.
* Câu hỏi: Tại sao Hinters nghi ngờ tay bảo vệ?
7
Đánh nhanh rút lẹ
Gary Sensenig
Câu chuyện giữa buổi sáng ở Câu lạc bộ Thể hình thường đơn điệu. Ngày nào cũng vậy, Brett Mosher theo một lịch trình cố định: thứ hai tập chân; thứ ba tập ngực và tay; thứ tư vai và lưng; rồi lặp lại thứ tự đó, Chủ nhật nghỉ.
Norma Dolle, một thành viên thường xuyên luôn nói về chế độ ăn của mình - buổi sáng chỉ ăn trái cây, từ trưa tới 5:00 ăn một bữa phối hợp đa dạng, uống nước có đạm. Sau 8:00 không ăn gì cả và không bao giờ dùng sản phẩm sữa.
Marge, phụ trách quầy nước trái cây, lúc nào cũng than vãn khách hàng (Nó bảo tôi pha ly này đừng cho đường hay mật ong, rồi lại kêu rêu là lạt quá).
Và Doug, đồng chủ nhân phòng tập, luôn chê bai vóc dáng người khác. (Coi thằng Danny ngồi xuống là mông bụng gì tràn hết ra ngoài kìa. Thế nào nó cũng bị hư cột sống, tôi đã nói với nó cả triệu lần rồi).
Nhưng sáng thứ sáu này thì khác. Họ có một án mạng trong phòng tập.
“Tôi tin là thế nào cũng có người nhìn thấy”.
Norma nói khi làm vài động tác co giãn bắp tay.
Brett ngồi cạnh bàn trong khi Marge và Doug nhấm nháp chút nước pha đạm.
“Sáng nào cũng vậy thôi. Chỉ có hai đứa tụi tôi với ba bạn là khách tập thường xuyên”, Doug nuốt nước miếng khó khăn. Bây giờ chỉ còn hai. Tội nghiệp Danny”.
Sáng hôm qua, khoảng 11:30, người ta phát hiện xác Danny Bernstein trong phòng tập trên lầu, ngồi trên máy tập cơ chân, gáy bị đập vỡ bằng một đĩa tạ 12 ký.
“Danny mê gái lắm”, Norma thừa nhận. “Lúc nào nó cũng tán tỉnh một cô nào đó”.
“Phải, nhiều cô cũng thích nó”, Doug nói. “Tôi nghe đồn nó chuyên môn cưa đổ cô này, chừng một tuần sau thì bỏ rồi chạy theo cô khác”.
“Chắc nhờ nó đẹp trai”. Marge ngáp. “Nó hơi bị làm phách. Lúc nào cũng khoe qua mặt được người khác trong các vụ làm ăn. Danny cũng đầu tư nhiều chỗ phải không?”
“Phải”, Doug và Brett cùng đáp, gần như đồng thanh, nhưng không ai nhìn ai.
“Tôi nghe nó cãi cọ với ai đó trước khi bị đập”.
“Tôi cũng nghe”, Doug nói. Anh ta uống cạn cốc nước rồi ném chính xác vào giỏ rác ở góc phòng. Trong bóng rổ thì hắn đã được ba điểm.
“Anh nghe tiếng nó trên lầu hả?” Marge nhíu mày hỏi.
“Cô biết là thằng đó to mồm mà. Lúc đó tôi ở sau quầy”. Doug chỉ vào quầy tiếp tân ngay chân cầu thang dẫn lên phòng tập chân trên lầu. “Nhưng tôi không nghe được nó cãi với ai”.
“Không phân biệt được giọng nam hay nữ luôn?”
Norma hỏi.
“Không. Nhưng tôi nghe tiếng đập mạnh. Rồi im lặng hoàn toàn. Tôi chơi xong ván bài trên máy vi tính rồi mới lên lầu coi”.
“Thế thì anh là người phát hiện cái xác. Lúc đó không còn ai ở đây sao?”
“Không. Chỉ còn mình nó trên đó. Thủ phạm chắc theo cầu thang phụ xuống phòng thay đồ. Từ đó hắn muốn ra ngoài hay vào trong này đều được. Mấy cửa thoát hiểm đâu có khóa hay chuông báo động”.
“Vậy là thủ phạm đến rồi đi mà mình đều không thấy”, Brett nói.
“Tôi chẳng thấy ai cả”, Norma nói. “Tôi đang ở trong phòng giải lao coi TV. Tôi chẳng nghe thấy gì cho tới lúc có chuông báo động”.
“Tôi đang ngồi ở máy tập vai”, Brett nói. “Doug phóng từ trên lầu xuống, kêu tôi gọi 911 liền”. Anh ta nuốt nước bọt. “Lúc đó, tôi còn chưa xong bài tập khởi động”.
“Còn tôi chẳng biết gì cả”, Marge nói. “Lúc đó tôi đang lui cui trong phòng kho sau quầy nước giải khát.
Công việc ở đây lu bu lắm, hết kiểm kho rồi chuẩn bị hàng để bán. Khách nào cũng muốn mình được phục vụ thiệt lẹ”.
Và rồi tất cả lại im lặng. Một sáng thứ hai sau đó, đề tài câu chuyện của họ lại thay đổi. Họ tạm gác đề tài quen thuộc lại để bàn chuyện đã có người trong bọn họ bị bắt - vì tội sát nhân.
* Câu hỏi: Ai đã bị bắt? Chi tiết nào chỉ ra thủ phạm?
8
Tang vật biến mất
Gary Sensenig
Vụ đột kích vậy là thắng lợi, Thanh tra Phil Weaver hài lòng. Ông xách va-li đầy tiền mặt và mấy túi heroin bỏ vào cốp xe rồi khóa lại. Ông nhìn ánh mắt thèm thuồng của hai thuộc viên mặc thường phục.
“Chuyến này nhiều tiền đây. Mọi khi mình chỉ bắt được vài trăm đô là cùng”. Rồi ông giúp Rodrigo còng tay và lùa mấy tội phạm vào xe.
“Mình kiếm cả năm cũng chưa được cỡ đó”. Rodrigo ca cẩm.
“Tao biết”. Ông cũng thấy thèm thuồng, nhưng rồi thở dài và lắc đầu. “Nhưng phải mang về đồn thôi.
Lên xe”.
Ba chiếc xe không huy hiệu của họ từ một nhà kho bỏ hoang phóng ra đường và tiến về đồn cảnh sát cách đó chừng ba dặm.
Ernie, nhân viên bãi đậu xe, kéo cổng rào dây thép gai ra và vẫy tay cho họ chạy vào. Khi Ernie kéo rào và khóa cổng lại. Weaver, Murphy và Rodrigo áp tải đám tội phạm theo cửa sau vào phòng lập hồ sơ.
Smithy, trung sĩ trực tiếp dân, đi theo họ, lắng nghe họ kể chiến tích của mình và phụ giúp lập hồ sơ tạm giam.
“Ê”, Rodrigo nói, anh ta chúa ghét chuyện làm hồ sơ giấy tờ. “Mình phải có người ra mang tang vật vào chứ”.
“Đâu có được”. Murphy cười khùng khục. “Mày đâu có kiếm cớ chuồn đi như vậy được. Mày là thằng gõ bàn phím nhanh nhất trong bọn mà”.
Nửa giờ sau, Ernie hớt hải chạy vào. Ông ta không thấy ai trong tiền sảnh hay hành lang. Ernie chạy tuốt vào tòa nhà chính của đồn cảnh sát và thấy Smithy đang nhâm nhi cà-phê ở bàn trực tiếp dân.
“Có người cạy thùng xe rồi”. Ernie hổn hển la lên.
“Thùng xe nào?” Smithy hỏi.
“Thì ba cái xe mới về đó, của Rodrigo, Weaver với Murphy”.
Smithy phóng ra bãi giữ xe phía sau và xem hiện trường. Ba chiếc xe không phù hiệu đậu lẫn với cả chục xe tuần tiễu khác. Cả ba thùng xe đều bị nạy tung. Và thùng nào cũng trống trơn.
Lúc đó chưa tới 6:00 sáng, nhưng sự cố này đã lan khắp đồn cảnh sát như lửa cháy vậy. Smithy chưa thẩm vấn Ernie xong thì Weaver, Murphy và Rodrigo chạy vào đồn theo cửa sau.
“Có phải ba ông đã lấy tang vật rồi, phải không?”
Smithy kêu lên. “Phải vậy không?”
Ba nhân viên điều tra nhìn nhau kinh hoàng.
“Tôi có nhắc chuyện ra lấy tang vật”, Rodrigo nói.
“Nhưng Murphy cản tôi lại. Rồi tụi tôi lu bu làm hồ sơ. Rồi đám báo chí gọi điện thoại lại. Tôi phải trả lời. Sếp Weaver thấy tôi nói chuyện điện thoại mà”.
Weaver gật đầu. “Phải. Tôi với Murphy áp tải lũ kia uống khu tạm giam. Rồi tôi ghé phòng vệ sinh, bụng tôi có vấn đề mấy bữa nay. Trên đường trở lên phòng hồ sơ thì tôi nhìn ra cửa sổ thấy Smithy với Ernie chỉ trỏ gì ở bãi xe. Tôi biết ngay là có chuyện rồi”.
“Lẽ ra sếp phải mang tang vật vào”, Murphy nói. “Chúng nằm trong xe của ổng. Ổng giữ chìa khóa. Sau khi tống tụi nó vào phòng tạm giam. Một đứa trong bọn gọi tôi lại đòi cho gặp luật sư. Hai thằng kia cũng hùa theo. Tôi phải áp tải lần lượt từng đứa ra gọi điện thoại. Mấy ông cứ hỏi lại tụi nó”.
Smithy gạt bỏ đề nghị đó và quay sang Ernie.
“Anh không gác ở bãi đậu xe sao?”
“Lúc 5:30 là giờ nghỉ giải lao của tôi”, Ernie rên.
“Mấy ông đều biết mà. Tôi sang quán Ethel ngay bên kia đường chứ đâu. Có xe nào muốn ra vô, cứ bấm còi là tôi qua liền”.
“Ông có thấy ai không?” Weaver hỏi.
“Không”, Ernie đáp. “Tôi khóa cổng rồi mới đi, và nó còn khóa nguyên xi khi tôi trở lại. Lối duy nhất thoát ra khỏi đồn là qua tòa nhà chính”.
“Biết rồi”, Rodrigo quay lại nhìn cả bọn. “Có vẻ thủ phạm là người trong bọn mình rồi”.
Mọi người quay nhìn những thùng xe bị nạy tung.
“Ai làm vụ này thiệt liều mạng”, Ernie nói, “Tôi có thể từ bên quán nhìn qua, và lúc nào cũng có thể có người ra vào”.
“Nhưng chẳng ai thấy”, Smithy nói. “Bây giờ mình mất cả tiền lẫn ma túy tang vật. Thế thì lấy gì kết tội bọn kia trước tòa?”
“Đó là chưa kể còn vụ phạm pháp này”, Weaver nói. “Ngay trước mũi tụi mình”.
* Câu hỏi: Ai ăn cắp tang vật?
9
Lá thư của Lincoln
Stan Smith
Thanh tra Kracnow và cảnh sát Agnes Greens ngồi ở bàn trong khi Donald Herbert Davis, giáo sư sử học Dartmouth, rót cà phê rồi ngồi xuống.
“Giáo sư, chắc ông phải kể lại sự vụ”. Kracnow nói.
“Thì như tôi đã kể đó”, Davis nhíu mày đáp, “lá thư là của tổng thống Lincoln viết năm 1863 gửi cho John Hacker, học giả chuyên về Shakespeare. Nội dung thư đã được in lại trong nhiều sách báo. Như ông thấy, tầng hầm nhà tôi rất chắc chắn. Cho đến tuần rồi, lá thư ấy vẫn còn được lộng kiếng treo trên tường, ngay ngoài cửa phòng tắm dưới đó. Sáng thứ sáu rồi tôi xuống thì thấy ai đó đã lấy lá thư và tráo vào đó bản sao một diễn văn viết tay khác của Lincoln”.
“Ông có được lá thư đó từ hồi nào?” Kracnow hỏi.
“Chín năm rồi. Tôi vừa quyết định tặng nó cho thư viện Dartmouth vào cuối tháng này. Tôi cũng chưa từng nghĩ tới chuyện mua bảo hiểm cho nó”.
Kracnow liếc Greens, anh này gật gù hiểu ý.
“Có ba người bước xuống tầng hầm này tuần rồi, thưa giáo sư”. Greens báo cáo. “John Healy của công ty bảo trì hệ thống sưởi đến vào chiều thứ ba. Anh này mới vào công ty được năm tháng. Ken Cantwell, nhân viên công ty cấp nước, đến ghi số đồng hồ nước vào chiều thứ tư. Anh này làm ở đây khá lâu năm và cứ bốn tháng lại tới ghi đồng hồ một lần. Đến sáng thứ năm, bồn nước nhà vệ sinh bị nghẹt và vợ ông gọi điện cho Russell McNutt, một thợ ống nước ở khu này”.
“Đúng rồi. Cả ngày thứ năm tôi đi họp”.
“Hồi sáu năm trước McNutt từng bị truy tố vì ăn cắp, nhưng được tha bổng”, Kracnow nói. “Anh có tìm thấy dấu tay nào trên khung kiếng không?”
“Không. Và trong giang hồ cũng chưa nghe nói có ai muốn bán lá thư đó”.
“Làm sao bán được!” Davis kêu. “Nó nổi tiếng quá mà. Ở Dartmouth này ai mà không biết tôi sắp tặng nó cho thư viện”.
“Được rồi”. Kracnow nói. “Thế là không có dấu vết cạy cửa. Nhà luôn được khóa kỹ, và hai ông bà chẳng có khách khứa gì cả tuần rồi, phải không?”
“Đúng thế”. Davis đáp rầu rĩ.
“Có chuyện gì khiến ông phải kêu người bảo trì hệ thống sưởi vậy?”
“Cứ hai ba năm thì tôi cho bảo trì một lần, lúc nào nhớ thì làm. Có tám hay chín công ty chuyên về vụ này ở đây. Tôi không nhớ lần trước mình gọi công ty nào, cứ mở danh bạ rồi chọn ngẫu nhiên thôi. Cách đây hai hôm, họ hẹn ngày tới làm”.
“Thưa giáo sư”, Greens nói. “Theo tôi biết thì không có ai giám sát khi họ làm việc cả, phải không?”
“Phải. Vợ chồng tôi chỉ chỗ cho họ làm rồi thôi.
Tôi chẳng có việc gì xuống tầng hầm từ sáng thứ ba đến thứ sáu”.
Kracnow mỉm cười, “Greens, có tay nào trong đó trước đây từng quan tâm tới cổ vật hay tài liệu lịch sử không?”
“Không hề, thưa sếp”. Greens cũng cười theo.
“Hay lắm”, Kracnow xô ghế đứng dậy. “Xin cám ơn giáo sư. Tôi biết phải đi thẩm vấn tay nào để phá vụ án này rồi”.
* Câu hỏi: Kracnow nghi ai dính vào vụ trộm?
10
Nhà an toàn chết người
Gary Sensenig
Dù trời lạnh, cảnh sát Martin vẫn toát mồ hôi khi đứng trong căn nhà an toàn bên hồ, chờ cấp trên đến tiếp quản vụ án với cái xác bị xiết cổ chết trên sàn. Anh được giao nhiệm vụ bảo vệ người này, bởi thế nên mới toát mồ hôi.
Hai hôm nay, anh và một đồng nghiệp được giao việc bảo vệ Jake Fishel, một kế toán tình cờ chứng kiến một vụ thanh toán băng đảng. Cảnh sát hứa bảo vệ anh khỏi tay trùm Popov nếu anh chịu đứng ra làm chứng.
Martin đã ở cạnh Fishel, mỗi ca 12 tiếng, và bắt đầu thấy thích anh kế toán rụt rè này. Vậy mà bây giờ...
Chuông cửa reo và anh ra mở cửa. Đại úy Huxley ào vào trong bộ vest bèo nhèo phất phơ trong gió lạnh. Huxley nhìn cái xác.
“Tại sao anh ta chỉ có một mình?” ông ta hỏi.
“Tôi nhận được cú điện từ văn phòng đại úy”, Martin lúng búng, móc máy bộ đàm ra như để chứng minh điều gì. “Và được lệnh quay về sở. Văn phòng nói sẽ có người thay ca. Nửa tiếng sau tôi mới hiểu ra và quay lại thì thấy thế này”.
“Thấy cú điện ở đúng tần số cảnh sát nên anh không hỏi lại chứ gì? Nhà Popov quen biết cả đống cảnh sát, anh ngu thật”. Đại úy thở dài. “Những ai có chìa khóa vào đây?”
“Tôi giữ cái chìa duy nhất. Tôi đã bảo Fishel không mở cửa cho bất cứ ai. Khi tôi đóng cửa là chốt tự động khóa lại. Tôi còn nghe anh ta cài móc cửa nữa. Tôi biết anh ta rất cẩn thận, thưa Đại uý”.
Huxley quì xuống bên xác chết. “Xiết cổ từ đàng sau. Chắc bằng dây thép. Fishel mở cửa cho ai nhỉ? Ai biết anh ta ở đây? Mình phải tìm cho ra câu trả lời”.
Đại úy lấy áo khoác trên móc và ra khỏi cửa. Martin cũng chộp áo khoác của mình và chạy theo ra xe.
Kiểm tra các cú điện thoại từ nhà an toàn thì thấy: đêm hôm trước Fishel đã lén gọi cho Luther Dross, em rể anh ta, một thợ khóa. “Vợ tôi đang cấp cứu”, Luther khai với Martin và Huxley khi họ đến hỏi thăm hắn sau đó. “Anh Jake rất thương vợ tôi, nên anh ấy muốn biết bệnh tình cô ấy. Chúng tôi nói chuyện chừng năm phút. Anh ấy biết làm thế là vi phạm qui định nên không hề nói cho tôi biết anh ấy đang ở đâu”.
Đại úy móc sổ trong túi áo khoác ra. “Khoảng hai giờ chiều nay anh ở đâu?”
“Anh ấy chết giờ đó sao?” Luther hỏi yếu ớt. “Tôi đang lắp khóa cho một căn hộ mới trên đường Prospect.
Nhiều công nhân khác có thể làm chứng. Rồi tôi trở về đây dọn dẹp trước khi vào nhà thương”.
Martin truy theo đầu mối thứ hai. Bốn tháng trước anh cũng dùng nhà an toàn này để bảo vệ Buddy Banks, một tay điểm chỉ. Khi cảnh sát thuyết phục được Fishel ra làm chứng, Martin đã dẫn Buddy tới để trấn an Fishel và chứng tỏ nhà an toàn này rất ngon lành. “Buddy biết địa chỉ này, lại từng có liên hệ với băng đảng.
Fishel cũng biết mặt y nên có thể đã mở cửa cho y”.
Buddy đã tới một thị trấn khác và đổi tên họ.
Huxley và Martin truy ra hiện y đang làm nhân viên tổng đài cho một hãng điện thoại. Huxley giơ thẻ cảnh sát ra và nói chuyện với y.
“Trời đất”, Buddy nói với vẻ muốn ói. “Kinh khủng quá. Phải chi tôi đừng thuyết phục anh ta ra làm chứng thì chắc anh ta còn sống”.
“Fishel có liên lạc với mày không?” Huxley hỏi.
“Không. Tôi thề đó. Tôi chỉ gặp anh ta lần đó ở sở cảnh sát. Tôi làm sao biết các ông sẽ đưa anh ta tới cái nhà an toàn đó được?”
“Nhưng mày có thể điều tra ra”.
“Sếp coi nè, tôi đã không còn liên lạc gì với thế giới ngầm nữa. Tôi làm việc từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều, bây giờ tôi hiền như cục bột”.
Huxley và Martin lái xe trở về, cả hai cùng ngẫm nghĩ. “Hung thủ bao giờ cũng có sai lầm”. Viên đại uý lầm bầm.
“Đúng thế”. Martin đồng ý.
Rồi họ im lặng suốt quãng đường về tới sở cảnh sát.
* Câu hỏi: Sai lầm của hung thủ là gì?
11Nhà văn khó ưa
Stan Smith
Cái máy đánh chữ và khắp mặt bàn giấy đều vung vãi vết máu. Dưới sàn cạnh chân bàn là xác của nhà văn Paul Katz, khuôn mặt nát bấy vì một viên đạn từ khẩu súng trường nằm cạnh xác ông ta.
Nữ Thanh tra Claire Keegan nhìn quanh căn phòng nhỏ, hầu như chẳng có đồ đạc gì. Một cái giường nhỏ, quần áo nhét lòng thòng trong các ngăn kéo và vất dưới sàn. Sách vở chất trên cái bàn ăn, một cái TV, một cái bàn nhỏ cạnh giường ngủ, chỉ có vậy.
Thư từ, của nhà xuất bản và độc giả, chất trên cái ghế bành duy nhất trong phòng và nhét đầy các ngăn kéo, cùng các phong bì, bút chì và giấy ghi chú chi tiết tiểu thuyết. Cạnh máy đánh chữ là chương 19 của tiểu thuyết ông ta đang viết dở.
Ngoài cái tủ lạnh và giỏ giấy vụn, cả hai đều hầu như trống trơn, thì trong phòng chẳng còn đồ đạc gì khác. Căn phòng này không có phòng tắm hay nhà vệ sinh kèm theo. Katz phải sử dụng một nhà vệ sinh cách đó chục thước, muốn tắm rửa thì dùng cái giếnggần đó. Căn phòng chỉ có một cửa chính và một cửa sổ nhỏ, cả hai đều ở mặt tiền.
Chuyên gia dấu tay John Rumore báo cáo:
“Có dấu ngón trỏ tay phải của nạn nhân trên cò súng”.
“Chữ viết cũng cho thấy ông ta thuận tay phải”, Claire đáp và lúc lắc đầu. “À, Walter đâu rồi?”
“Đi thẩm vấn Ed Welenck, người cắt cỏ ở đây mỗi thứ hai. Có thể ông ta thấy được cái gì đó”.
Claire đi ra ngoài, dọc bãi cỏ được cắt xén gọn ghẽ, để nói chuyện với Mary Cashman, bà chủ cho thuê căn phòng này, và John Ball, một hàng xóm.
“Ông Ball”, Claire hỏi, “ông phát hiện xác chết vào buổi trưa hả?”
“Phải”, Ball bồn chồn vuốt hàm râu. “Tôi ghé đây để hỏi Paul có muốn mua vé số từ thiện của Hội sử học Cedarville không. Chúng tôi tổ chức xổ số để giúp bệnh nhân ung thư. Tôi nghe tiếng súng nổ bên trong nên sựng lại một lúc. Rồi thấy yên lặng tôi mới mở cửa nhìn vào - cửa không khóa - thấy Paul nằm đó.
Tôi mới chạy về nhà gọi điện cho quý vị”.
“Có ai khác trong phòng không?”
Ball lắc đầu.
“Bà Cashman”, Claire hỏi tiếp, “bà cho ông Katz thuê phòng này bao lâu rồi?”
“Ông ta thuê đến nay là bảy mùa hè rồi. Ông ấy thích về đây để viết. Ông ta chẳng rời phòng bao giờ, trừ lúc vệ sinh tắm rửa, mà cũng chẳng giao du với ai. Ông ta còn thuê tôi kiểm tra hộp thư của ông ta ở bưu điện, gửi thư hay mua thực phẩm giùm ông ta nữa. Nhiều người ở quanh đây yêu văn chương, thậm chí thích viết văn nữa, như ông Ball đây. Nên chúng tôi rất vui khi có hàng xóm là nhà văn. Chẳng ai quấy rầy ông ấy bao giờ”.
“Bà có chuyện gì với ông ta không?”
Bà Cashman bồn chồn hắng giọng. “Ồ, tôi có đề nghị tăng tiền thuê, lần đầu tiên trong ba năm nay. Ông ta có càu nhàu nhưng vẫn đều đặn trả trước hai tuần. Ông ta hơi keo kiệt nhưng cũng đàng hoàng về tiền bạc. Không hiểu sao ông ấy lại tự sát cơ chứ”.
“Ông Ball”, Claire hỏi tiếp, “ông thân với ông Katz không?”
“Không thân lắm. Tôi mới gặp ông ta mùa hè rồi ở cửa hàng bách hóa tại Cedarville, và cũng chưa vào phòng ông ta bao giờ”.
Nhân viên Walter Hinkel tới gần Claire, hai người bước ra xa để trao đổi.
“Tôi vừa thẩm vấn Ed Welenck xong”. Anh ta báo cáo. “Hắn xác định là có cắt cỏ ở đây sáng nay. Hắn đang định đi thăm đứa em ở Iowa. Tôi yêu cầu hắn ở lại cho đến khi kết thúc vụ án”.
“Hắn ta có gặp Katz không?”
“Không. Hắn nói hai tuần trước hắn cãi lộn với ông ta về thù lao xén cỏ nên không muốn gặp.
Nhưng hắn nói lúc tới đây hắn có nghe tiếng máy đánh chữ, một giờ sau lúc ra về hắn vẫn còn nghe đánh máy”.
“Vụ này ly kỳ đây”, Claire nói. “Tiền bạc trong tủ và trong ví nạn nhân vẫn còn nguyên. Như thế trông có vẻ một vụ tự sát lắm. Nhưng Walter à, đây là một vụ sát nhân”.
* Câu hỏi: Chi tiết nào giúp Claire xác định đây là một vụ sát nhân?
12
Thám tử tư hết đời
Guy Belleranti
Căn phòng được bài trí đẹp với những tác phẩm nghệ thuật đắt tiền trên tường, bàn làm việc lớn bằng gỗ sồi sang trọng. Nhưng nó chẳng còn đẹp nữa với cái xác của Harry Clifford gục trên vũng máu ở chân bàn kê ngay dưới cửa sổ. Nắng mùa hè chiếu qua cửa sổ duy nhất ấy. Nắng thì ấm nhưng căn phòng lại lạnh lẽo vì xác chết.
Harry làm cảnh sát, rồi xin nghỉ và mở văn phòng thám tử tư. Thanh tra Grove Molroy nhận định.
“Có vẻ như bị đập vào đầu từ phía sau”.
“Đúng”, cảnh sát Dawson Knights đáp. “Cái búa dính máu kia chắc chắn là hung khí”.
“Chắc cái búa này cũng gõ vào đầu cảnh sát Molly. Ra hỏi xem ông ta có biết gì hơn không”.
Cảnh sát tuần tra Molly Duncan đang chườm một túi nước đá vào cục u ở mé sau đầu ông ta. “Tôi ghé lại uống cốc cà-phê bên kia đường. Lúc ra khỏi quán tôi nghe có tiếng rú bên này nên chạy qua, thấy cửa không khóa tôi vô luôn. Cửa vào văn phòng trong này cũng không đóng, tôi bước vào thì thấy liền cái xác... như mấy ông cũng thấy đó”.
“Rồi có chuyện gì nữa?” Grove hỏi tiếp.
Molly nhăn nhó vì đau. “Lúc đó tôi ngu thiệt. Không kịp suy nghĩ tôi tiến tới, khom xuống nhìn cái xác. Có bóng người từ sau đổ xuống chỗ tôi ngồi, tôi chưa kịp quay lại...” Ông ta nhắc túi nước đá ra khỏi cục u, nhăn nhó, rồi nhúc nhích thân hình đồ sộ trên ghế.
“Vậy là không kịp nhìn thấy hung thủ?” Dawson hỏi.
“Sao nhìn được. Bị giáng một cú tôi ngất đi mấy phút, kế đó tỉnh lại vì tiếng gào la của cô thư ký của Harry”.
Grove liếc Dawson, “Phải đi thẩm vấn cô thư ký thôi. Còn Molly, không chừng ông phải vô bệnh viện khám cái đầu coi”.
Marie Falcone lau nước mắt bằng khăn tay, “Harry vừa hỏi cưới tôi. Mới hôm qua thôi. Vậy mà bây giờ...”
“Harry thường tới văn phòng trước cô hả?” Grove hỏi nhẹ nhàng.
Cô ta gật đầu. “Anh ấy thích tới sớm - ngay cả khi không bận rộn lắm”.
“Việc làm ăn hồi này hơi yếu phải không?”
“Phải. Đâu có vụ điều tra gì có thể dẫn tới chuyện này”. Cô ta lại sụt sịt.
“Có thể là do những vụ trước đây”. Dawson nói.
“Nghề này dễ gây thù chuốc oán lắm”.
“Chắc vậy, Harry chẳng bao giờ cho tôi biết rõ về các vụ ảnh đang điều tra. Ảnh nói tôi biết càng ít càng an toàn”.
“Khi tới đây cô thấy có gì lạ không?” Grove hỏi.
“Chắc tôi tới sau anh Harry một lát. Lúc tôi đậu xe thì thấy cửa sổ còn chưa mở”.
“Chưa mở sao?” Grove nhìn qua ô cửa sổ nhỏ hẹp sang cửa hàng nhiếp ảnh nằm bên kia bãi đậu xe.
“Sáng nay cô vào đây bằng cửa nào?”
“Chỉ có một cửa duy nhất - ở mé bên kia tòa nhà”.
“Cám ơn. À... còn hung khí...”
“Cái búa đó hả? Không phải của Harry. Nhưng tôi thấy Jim Lacey xài một cái búa giống vậy ở trước cửa hiệu hôm qua”.
“Jim Lacey nào?”
“Anh chủ hiệu ảnh bên kia kìa. Hắn với anh Harry không ưa nhau lắm”.
Grove và Dawson đi sang gặp Lacey.
“Tôi biết gì đâu mà khai?” Lacey cằn nhằn.
“Nghe nói hôm qua anh sửa chữa gì đó với một cây búa”.
“Phải. Tôi đóng thêm tấm bảng quảng cáo kia kìa. Có chuyện gì vậy?”
“Cái búa đó đâu?”
“Không biết. Hôm qua tôi quên mang vô. Nãy giờ tôi đang tìm nó đây, mà... Ê! Đừng có nói nó là hung khí đã giết...”
“Rất tiếc chuyện là thế”.
“Vậy không phải tôi à nghe. Tuy tôi không ưa gì ông Harry đó. Tôi có lần rửa cho ông ta mấy tấm ảnh điều tra. Hình chụp bất nhơn lắm. Tôi có nói ông đi chỗ khác mà rửa ảnh. Thằng chả chuyên môn theo dõi rồi thọc vào chuyện đời tư người khác... Tệ hết sức”.
Khi quay trở lại hiện trường, Dawson nói, “Ai cũng có thể làm vụ này. Chôm cái búa để quên ngoài cửa hiệu rồi nện Harry một phát”. Anh ta chỉ cái cửa sổ mở. “Nếu cửa sổ còn đóng như cô thư ký nói, thì chắc khi cô đậu xe hung thủ vẫn còn trong này, rồi y thoát qua cửa đó”.
Grove gật đầu, nhíu mày. Khi cúi xuống bên xác chết xem xét lần nữa, anh ta chợt quay lại nói với Dawson. “Vậy mà mình nhìn không ra. Dawson, tôi biết thủ phạm là ai rồi”.
* Câu hỏi: Grove nhìn thấy cái gì, và nghi thủ phạm là ai?
13
Người bạn học nhẫn tâm
Ben Goheen
Thám tử Dolan đang rầu rĩ. Anh tham gia tổ chức họp mặt bạn thời trung học. Nhưng rồi mọi chuyện rối tung. Những chỗ đặt trước bị thay đổi, phòng tiếp tân quá nhỏ, thực đơn bị đổi món, con đường vào khu du lịch đang được trải nhựa lại khiến khách phải đi bộ một đoạn xa, nguồn nước lại bị cắt để sửa chữa ngay chiều hôm đó.
Lại còn một án mạng nữa chứ!
Chuyện xảy ra vào 7:15 tối. Dolan đang ở ngoài cổng nói chuyện với một bạn cũ thì Maddy Rich tông cửa chạy ra, miệng gào la chói lói. “Rolly chết rồi!” và cô ta gục xuống.
Dolan dặn bạn chăm sóc Maddy rồi chạy vào trong.
Khu giếng trời ở giữa tòa nhà trồng nhiều hoa kiểng, có vòi nước phun và suối giả róc rách, chung quanh lắp cửa kính dày. Anh theo lối đi lót đá tới chỗ Rolly nằm. Đầu anh ta gục trên một luống phong lữ thảo. Nhìn sơ là biết anh ta bị đập vào gáy. Nằm gần đó là một tảng sa thạch to cỡ trái banh bóng chuyền, loang lổ máu.
Dolan cẩn thận nhấc tảng đá lên xem rồi bỏ xuống. Anh rút khăn ra lau cát bám trên tay rồi nhìn quanh. Anh thấy những vết tròn màu đen dọc lối đi lát đá. Chúng có đường kính khoảng ba phân, nằm rải rác cách nhau khoảng hai bước chân.
“Khổ tôi quá”, ông chủ khu resort nói khi biết chuyện.
“Vầy thì còn ai dám đến đây nghỉ nữa”.
“Muốn vào đây phải dùng thẻ phòng trọ để mở cửa phải không? Ông cho tôi danh sách những người vào đây trong nửa giờ qua được không?”
“Được. Khu giếng trời này đóng cửa để sửa hệ thống nước. Nó vừa được mở lại chừng 15 phút”. Ông quản lý gõ vài phím trên máy vi tính và ghi lại được ba số phòng, trong đó có phòng của nạn nhân.
Billy Craig lập tức cự nự khi Dolan thẩm vấn. “Dĩ nhiên là tôi có vào đó”, anh ta nói. “Nhưng tại sao anh lại nhắm vào tôi?”
“Đâu có”.
“Ai cũng nhắm vào tôi hết. Còn nhớ hồi còn đi học không? Mấy đứa con gái cứ cười vì móng tay tôi dính dầu mỡ do tôi phải đi rửa xe kiếm tiền”.
“Rolly cư xử với ông thế nào?”
“Thằng đó lúc nào cũng vậy. Bây giờ giàu có nó còn tệ hơn”.
“Ông vô khu giếng trời làm gì?”
“Tôi thấy lạc lõng giữa những người có bộ đồ cả ngàn đô. Tôi muốn ở một mình, nên vô đây ngồi cạnh vòi phun nhâm nhi cốc rượu, rầu tới độ muốn bỏ về”.
“Ông có nghe hay thấy cái gì không?”
“Không. Tiếng nước phun ồn lắm”.
Dolan đề nghị cho xem đế giày và Billy đồng ý.
Đế giày anh ta gần như vuông, không có vết gì màu đen cả. Họ bắt tay nhau và Dolan đi.
Số phòng thứ nhì là của Jack Briggs, cựu ngôi sao bóng bầu dục. Dolan thấy anh ta ở một cái bàn gần đó và bước lại. “Khỏe không, Jack?” Dolan hỏi khi họ bắt tay nhau.
“Tàm tạm”, Jack đáp. “Chỉ khổ với cái đầu gối.
Chấn thương từ hồi học đại học mà mỗi năm mỗi tệ. Đi đâu cũng phải có cây gậy chống này, mà cũng không đi xa được”.
Dolan chùi tay vào quần và nhận ra hành vi này có thể khiến anh trông hơi bồn chồn. “Jack này, ông làm gì trong khu giếng trời vậy?”
“Ông hỏi vậy là sao?”
“Ông có mặt ở đó khi án mạng xảy ra. Theo tôi nhớ thì ông với Maddy Rich có hẹn hò hồi còn đi học”.
“Ừ, cho tới khi Rolly chen vào. Tụi tôi tính làm đám cưới khi tôi xong đại học. Ông nhớ tôi được học bổng nhờ chơi bóng không?”
“Nhớ chứ”. Dolan đáp.
“Xong chưa?” Jack nói. “Tôi phải đi dời cái xe đây. Quản lý không chịu cho tôi đậu gần cổng vào, cho dù tôi bị tật chân”.
“Nè, cho xem cây gậy của ông được không?”
Jack nhún vai và đưa gậy cho Dolan. Đầu cây gậy gỗ phẳng trơn, không có vết đen.
“Cám ơn”, Dolan nói và nhìn anh cựu vận động viên khập khiễng bước đi.
Sau cùng, anh trở lại chỗ Maddy Rich ngồi nghỉ và nhẹ nhàng cầm tay cô.
“Maddy. Kể lại cho tôi nghe mọi chuyện đi”.
Dolan nói.
Cô lau nước mắt. “Gần đây tôi với Rolly cứ cãi nhau hoài. Tối nay tụi tôi dàn hòa và đi dạo trong khu giếng trời. Được một lát thì Rolly thông báo sẽ tiến hành thủ tục ly dị khi tụi tôi trở về nhà”.
“Sao vậy? Anh ấy có bồ hả?”
“Ảnh không nói”.
“Rồi cô làm sao?”
“Tôi tát anh ấy một cái rồi bỏ đi. Tới một góc xa tôi đứng lại khóc. Rồi tôi nghe tiếng động lạ, như có cái gì rơi xuống. Chạy trở lại thì thấy ảnh nằm đó”.
“Cho tôi coi đế giày của cô đi?”
Dolan xem xét hai đế gót tròn. Chúng bằng cỡ vết đen trên lối đi, nhưng không bám chất gì màu đen cả. Anh cám ơn cô ta và ra một góc xem lại những ghi chép của mình. Người bạn cũ tới bên anh.
“Không lẽ một bạn học của mình lại là kẻ sát nhân sao?”
Dolan lắc đầu. “Tôi e rằng thế. Và tôi biết đó là ai rồi”.
* Câu hỏi: Dolan nghi ai?