← Quay lại trang sách

Phần III: Kết quả phá án * Những vụ án đơn giản

1. Khoản lương cuối cùng

Nancy nghi Brad Carson. Vì Morton là dân bảo trì điện và điện thoại, nên ông ta thừa sức biết cách ngắt hệ thống báo động nếu cần. Nếu ông ta phá hệ thống điện thoại của tòa nhà, thì cả ngân hàng ở tầng dưới cũng sẽ không hoạt động được, vì máy ATM cũng như các máy tính khác nối với nhau theo đường điện thoại.

Morton vẫn gửi tiền được sau khi rời văn phòng của bà Carson. Bà thư ký béo lùn thì đã ra khỏi toà nhà khi Morton lái xe vào. Như thế chỉ còn lại Brad Carson, ông này nói láo khi bảo hệ thống điện thoại bị treo. Chính hắn đã phá hệ thống điện thoại khi tới nơi, và có lẽ chính hắn là người đã ăn cắp kho hàng.

2. Đứa nào đánh đổ đống dưa?

Frank đánh đổ đống dưa. Stamps suy luận như sau: vì Tommy luôn nói thật, nên chỉ có một đứa (trong hai đứa Frank và Harry) là thủ phạm. Harry chuyên nói dối, nghĩa là Tommy và Frank đều không nói hết sự thật. Có thể loại Tommy ra vì câu nói của cậu ta không nêu ra thủ phạm. Như thế Frank nói dối. Vậy chỉ một mình Frank đã đánh đổ đống dưa.

3. Kẻ sát nhân vô hình

Kẻ sát nhân đã vào phòng sau khi Hottleman trả cặp kiếng cho bà già và trở lại bàn. Walker thấy rằng chỉ có bàn của nạn nhân là còn bày đồ chưa ăn hết. Các bàn khác, kể cả bàn của vợ chồng già, đều đã dọn sạch. Vậy là bàn được dọn sau khi cặp vợ chồng đó ra về nhưng trước khi phát hiện xác chết. Chỉ có một người có thể làm chuyện đó mà không bị ai để ý cho dù họ có nhìn thấy. Đó là cậu dọn bàn. Cậu giết Hottleman để lấy chiếc ví.

4. Oan gia giữa đường

Không ai có thể viết ngay ngắn năm trang thư trên một đoạn đường dằn xóc. Morris rõ ràng đã viết sẵn lá thư để làm bằng chứng ngoại phạm.

Bằng chứng của Vera thì chấp nhận được. Nếu bà ta lo làm móng tay thì nước sơn có thể đổ xuống vạt váy vì xe lửa dằn xóc, và móng tay của bà có thể bị sơn be bét đến độ bà ta xấu hổ phải giấu bàn tay đi.

Vết thương ở cổ tay Bella cũng hợp lý do ông ta có thể ngã vì xe dằn xóc, và đúng như ông ta nói, ai cũng có thể lấy trộm cái kìm bấm vé trong áo khoác của ông ta.

5. Tấm bảng mất tích

Bà Sterns đã lấy tấm bảng. Không có bằng chứng nào về chuyện Paul, cháu của người khách tìm mua nhà, đã giấu tấm bảng trong chiếc xe tải. Những tấm ván làm căn chòi trên cây ở nhà Freddie thì đã cũ và bạc màu, nên không thể được làm từ tấm bảng “Nhà Bán”. Nhưng bà Sterns lại đốt lò sưởi vào một ngày tháng 6 nóng nực thì quả là vô lý. Bà ta không muốn có hàng xóm, nên đã nhổ tấm bảng và đốt trong lò sưởi để không ai biết căn nhà đó đang rao bán.

6. Vụ trộm kho bánh Trung thu

Nếu Trung thu đã qua vào tuần trước thì làm sao còn trăng tròn cho tay bảo vệ nhìn rõ mặt O’Henry?

7. Đánh nhanh rút lẹ

Brett Mosher là thủ phạm. Theo thông lệ thì thứ năm là ngày hắn tập cơ chân, vậy mà hôm đó hắn từ phòng tập cơ vai bước ra. Hôm thứ năm đó, Brett đang tập cơ chân như thường lệ thì Danny vào. Họ có chuyện làm ăn chung và Danny đã qua mặt Brett. Giết Danny xong, Brett theo cầu thang thoát hiểm xuống và lẻn vào phòng tập cơ vai giả bộ như đang khởi động cho đến khi Doug phát hiện cái xác.

8. Tang vật biến mất

Trung sĩ Smithy là thủ phạm, anh ta là người duy nhất biết có tiền trong thùng xe nhưng không biết là xe nào, nên phải cạy cả ba thùng. Ernie không biết có tang vật trong thùng xe. Còn ba thám tử đều biết rõ tang vật nằm trong thùng xe nào, và trong hoàn cảnh phải hành động nhanh, chẳng ai mất thì giờ nạy cả ba thùng xe nếu họ muốn ăn cắp.

9. Lá thư của Lincoln

Kracnow nghi Ken Cantwell, người ghi đồng hồ nước.

- Davis chẳng được lợi gì nếu ông ta bày ra vụ trộm vì lá thư không hề được bảo hiểm.

- Không có dấu hiệu cạy cửa, nên thủ phạm phải là một trong ba người được xuống tầng hầm trong tuần đó. Nhưng vì họ không say mê gì lá thư và không thể rao bán được, nên chắc chắn kẻ chủ mưu là một nhà sưu tầm.

- Vụ bồn nước nhà vệ sinh bị nghẹt, và việc Davis bất chợt kêu thợ tới bảo trì hệ thống sưởi đều xảy ra đột xuất, không thể tiên đoán được. Chỉ có việc ghi đồng hồ nước là diễn ra theo lịch trình. Nhà sưu tầm chỉ cần mua chuộc nhân viên ghi đồng hồ là có thể lấy được lá thư.

10. Nhà an toàn chết người

Sai lầm của hung thủ là để quên áo khoác ở ngôi nhà an toàn.

Đại uý Huxley đã nhận tiền của băng đảng để giết Fishel. Bảo nạn nhân mở cửa là chuyện quá dễ với một đại úy mà nạn nhân biết mặt. Khi đóng cửa rời hiện trường, Huxley nhận ra mình đã bỏ quên áo khoác trong đó. Ông ta không trở vô lấy được vì cửa khóa tự động và ông ta không có chìa.

Trên đường về sở, Martin nhớ ra Huxley tới nhà an toàn với bộ đồ bèo nhèo, nhưng khi trở ra thì cầm theo áo khoác. Áo đó chắc chắn của ông ta vì sau đó ông ta có móc trong túi áo ra một cuốn sổ ghi chép.

11. Nhà văn khó ưa

Khi kê súng trường vào đầu để tự sát, người ta thường đẩy cò bằng ngón cái vì thuận tay hơn, nhưng dấu tay trên cò súng lại là ngón trỏ tay phải của nạn nhân.

Ball nói có nghe tiếng súng nổ và không thấy ai trong phòng. Vì phòng đó không có chỗ ẩn núp (ít đồ đạc, không có phòng tắm hay nhà vệ sinh liền kề, không cửa sau) nên không thể có kẻ sát nhân trong đó. Như vậy có thể chính Ball là thủ phạm. Động cơ có thể là ông ta đánh cắp mười tám chương đầu của cuốn tiểu thuyết, vì ông ta cũng muốn làm nhà văn nổi tiếng, với ý định sẽ viết tiếp rồi cho xuất bản.

12. Thám tử tư hết đời

Grove nhìn thấy cái bóng của mình. Molly khai rằng thấy cái bóng từ sau đổ xuống chỗ y ngồi, nhưng cửa sổ ngay trước mặt y, ánh nắng từ đó tràn vào, như thế bóng sẽ đổ về phía sau y, không thể từ sau đổ tới trước được.

Sau khi giết Harry, hắn nghe tiếng cô thư ký xuống xe và dập cửa xe, y định mở cửa sổ để thoát rồi nhận thấy thân hình y quá to lớn khó lọt qua cửa sổ, nên y tự đập vào đầu mình và bịa ra câu chuyện như thế. Động cơ của y có thể là Harry sắp điều tra ra chuyện gì đó của y.

13. Người bạn học nhẫn tâm

Có hai chi tiết cho thấy Dolan nghi Jack Briggs:

(1) Dolan luôn bắt tay những người tình nghi và chỉ sau khi bắt tay Briggs anh mới chùi tay, vì anh thấy có cát bám vào tay mình;

(2) Khi biết xe của Briggs đậu gần cổng vào, nơi người ta đang trải nhựa đường lại, anh đoán những vết đen tại hiện trường là vết nhựa đường dính trên cục cao su bịt đầu gậy của Briggs. Briggs đã gỡ cục cao su này và vất đi sau khi gây án. Anh ta giết Rolly để giành lại Maddy mà không biết rằng họ sắp ly dị.

14. Lanh tay và lẹ mắt

Stewart nghi chàng thanh niên mặc áo thun, hắn là người duy nhất trong bốn người đi giày đế mềm, thứ giày có thể di chuyển êm ái trên mặt sàn lót gỗ mà không gây tiếng động nào.

15. Ông chủ nhà tội nghiệp

Thám tử Michael nghi Seana Walters đã giết ông chủ nhà.

Nếu Andrews rơi từ căn hộ của chính mình thì bồn hoa hồng ngoài bậu cửa chắc chắn sẽ có dấu dập nát. Ở tầng 11, cửa sổ căn hộ của Carton đã bị đóng đinh khóa cứng, nước sơn phủ đinh khô hoàn toàn. Như thế ông ta phải rơi xuống từ tầng 10, từ căn hộ của Seana Walters. Bà ta nói vừa treo màn cửa mới, nhưng gần bên cửa sổ nhà bà ta không thấy có thang xếp hay thứ gì khác để leo lên treo màn cửa. Còn vợ nạn nhân nói ông chồng phải đi làm việc vặt gì đó cho khách thuê.

Michael suy ra Seana Walters đã nhờ ông chủ nhà tới treo màn cửa giùm. Khi ông ta đứng trên cửa sổ để treo màn, chỉ cần đẩy một cái là ông ta rơi xuống và tiền nhà sẽ không tăng lên nữa.

16. Cái chết của nhà điểu học

Halldent biết rằng chẳng ai đi thẳng về hướng mặt trời mọc (dấu chân rời khỏi cái xác là đi về hướng Tây) mà nhìn rõ được một con chim tước (loại chim sẻ), chứ đừng nói tới chuyện xác định được nó là giống nào. Vậy mà anh thư ký xác định được, nên Halldent suy ra anh ta bịa chuyện.

17. Ngài cố Thống đốc

Katrine nghi William Mason. Thùng rác nhà Mason có lon thịt dầm ớt. Nếu ông ta đã bỏ rác hôm trước, thì ông ta hẳn vừa ăn món này hôm đó, điều này không hợp lý với chuyện ông ta bị bệnh bao tử hành. Như thế, ông ta đã nói dối về chuyện bỏ rác (điều này không hiểu được), về chuyện không có khách đến thăm, hoặc (rất có thể) về chuyện bị bao tử hành đến liệt giường. Chắc chắn ông ta không cần đưa ra một lý do ngoại phạm như vậy trừ khi ông ta có gây một tội ác.

Có thể ông ta muốn loại bỏ một đối thủ chính trị, dùng súng hãm thanh giết Calvins. Trước khi rút khỏi hiện trường, ông ta đã mở khung cửa sổ kiểu Pháp để làm cảnh sát rối trí. Còn Calvins đã ghi tên ông ta vào lịch hẹn chỉ để tự nhắc nhớ việc cần phải gọi điện cho ông ta.

18. Đường dây điệp viện

Everton suy luận như sau: Dasher không thể là Cantrell vì hai người cùng đi nghỉ với nhau, cũng không thể là Bircham hay Delmarin, vì hai người này độc thân. Vì Dasher chưa từng ra khỏi tiểu bang, nên không thể là Ephesos. Suy ra, Dasher chính là Abelardo.

Tương tự, Donder có vợ nên không thể là Bircham hoặc Delmarin. Vì Donder có anh trai, nên không thể la Ephesos. Do đó Donder là Cantrell.

Ephesos về hưu nên không thể là Cupid bất mãn với công việc, hay Comet cả đời ru rú trong tiểu bang. Nên ông ta là Dancer. Anh chàng Bircham đi Mexico hàng tháng thì không thể là Comet, do đó anh ta là Cupid. Còn Delmarin là Comet.

19. Ăn trưa ở quán Quill

Lesley biết Sumpter bị suyễn khi thấy bình oxy trong phòng khách. Nên Lesley suy ra Sumpter sẽ không thường xuyên đến Quill, một nơi ngộp khói. Như thế Meyers đã nói dối về quan hệ bạn bè với Sumpter để che giấu động cơ sát nhân, vì có lẽ Sumpter đang tống tiền ông ta.

20. Dấu giày kẻ trộm

Max dùng suy luận loại trừ: Có ba người mua giày SkyMaster. Kẻ trộm phải đủ cao để lấy heo đất trên kệ, nếu kẻ đó lùn thì không dùng ghế trong phòng được vì nó bị bắt vít xuống sàn. Kẻ trộm lại phải có cánh tay to lớn, vì kẻ có cánh tay khẳng khiu như Nina thì dễ dàng luồn dưới tủ hồ sơ để lấy đồng xu bị lăn vào đó. Trong ba người tình nghi, chỉ có cô nàng Mona Everest hội đủ hai yếu tố trên.

* Những vụ án phức tạp

21. Một vụ án đầy mâu thuẫn

Chính Eddie giết Lorrimer với sự trợ giúp của Russell. Trước đó Linda Russell đã bỏ thuốc độc vào thức ăn của Lorrimer khi xe thức ăn còn để bên ngoài cửa phòng ông ta, rồi sau đó mụ ta làm cho Eddie nghĩ là Lorrimer đánh mụ bầm mắt để Eddie căm giận Lorrimer và ra tay giết ông ta. Nếu như Lorrimer còn khỏe thì cả mụ và Eddie cũng không đủ sức siết cổ ông ta đến chết được. Mụ đã mượn tay Eddie để giết Lorrimer và việc tạo chứng cứ ngoại phạm cho Eddie chẳng qua là để mụ cũng có chứng cứ ngoại phạm. Động cơ của Eddie chẳng qua là vì thấy Lorrimer xúc phạm người đàn bà hắn đã tôn sùng, người mà theo hắn, là kẻ duy nhất thực sự tốt với hắn, tôn trọng hắn, coi hắn là một người đàn ông thực sự.

22. Chiến lợi phẩm

Thủ phạm chính là Jackson. Mitch suy luận hoàn toàn sai nhưng đã gặp may. Lời khai của nhân chứng tại ngân hàng bị cướp cho rằng kẻ cướp đó là Rogan chẳng qua là do ấn tượng của họ về tướng cướp Rogan quá đậm, chứ thực ra bọn cướp bao giờ cũng đeo mặt nạ kín mít khi hành sự thì làm sao nhận ra tai và trán hắn được. Jackson đã cướp ngân hàng, giấu tiền ngay trong bãi rác xe của mình, đến khi Mitch theo dõi hắn, hắn tưởng là Mitch đã biết chuyện nên cố bỏ trốn, thực ra lúc đó Mitch vẫn chưa biết hắn là thủ phạm. Thằng bé là con Jackson. Nó và mẹ nó chẳng liên quan gì tới Rogan cả. Chỉ là tình cờ họ có những nét giống nhau.

23. Sập bẫy

George nhận ra rằng hắn đã lọt vào một cái bẫy tinh vi mà Gen và tình nhân của bà ta dàn dựng: Eversley Foster không phải là người hắn làm việc cùng trong hai tuần, cái xác mà hắn cùng Gen thảy xuống sông là xác giả, ông Foster thật bị đập đầu bằng cái búa mà Gen đã nhờ hắn đóng đinh với đầy nhóc dấu tay hắn, rồi số tiền Gen rút ra từ ngân hàng đưa cho hắn, rồi cái khuy gài măng-sét Gen tặng hắn, chuyện bà ta cố tình để cho bà người làm Sarah gặp hắn... Tất cả chứng cứ ấy cho thấy hắn có động cơ giết ông Foster để cướp của.

24. Một âm mưu hoàn hảo

Người giết ông Harold Caxton là Elizabeth cùng Bill, chồng cũ của cô ta. Họ đã cùng nhau vạch ra một kế hoạch thật hoàn hảo, chặt chẽ. Trước ngày cưới, cô ta đi ăn sò và mua thêm một dĩa nữa mang về phòng để cạy ra và nhét thuốc độc vào đó. Dù biết ông Harold Caxton không ưa sò nhưng cô ta vẫn đặt món đó, mục đích là khiến cho ông Harold Caxton giận dữ rồi lên cơn đau tim. Vì ông Harold Caxton không thích sò nên ông ta sẽ nuốt nó vội vàng, không nhâm nhi thưởng thức như đối với những món khác. Khi ông ta chết vì ngấm thuốc độc, người ta dễ lầm tưởng ông chết vì chứng nghẹt tim đột ngột do giận dữ chứ không phải vì bị đầu độc. Trên đường từ London về nhà thờ cô ta có tạt qua nhà một chút và vào phòng vệ sinh, mục đích là để giấu con sò có thuốc độc trong đó, sau đó Bill sẽ vào lấy rồi nhân lúc bưng dĩa đến cho ông Harold Caxton, anh ta đặt con sò tẩm thuốc vào đĩa. Lọ thuốc độc để trên bàn trong phòng khách chỉ là vật che mắt mà thôi.

25. Một cuộc thí nghiệm

Khi hai chất HCl và FeS được trộn với nhau và đốt lên thì chúng sẽ tạo ra mùi trứng thối rất khó chịu. Không ai có thể ở trong một căn phòng che kín rèm với mùi như thế được quá năm phút. Vậy mà Sheila đã khai là mình ở trong phòng với thầy Donato suốt nửa tiếng trong khi thầy đang làm thí nghiệm đó. Không ai đi tán tỉnh người khác trong một căn phòng đầy mùi thối như thế cả. Khi nghe Sheila kể, thầy Strang biết ngay cô nói dối, nên thầy mời mọi người đến và tự tay làm thí nghiệm đó để chứng minh sự vô lý của câu chuyện Sheila đã kể. Vì Sheila không giỏi môn hóa nên không biết điều này. Chính vì thế cô đã bị lật tẩy. 26. Kẻ khiêu vũ một mình

Bernie biết chính Gravy là thủ phạm và đã lên kế hoạch để cho anh tin rằng ông ta bị thôi miên: từ việc lân la tới quán Dixon bày trò khiêu vũ một mình, tới việc làm như tình cờ cho Bernie biết Maxwell Starling là nhà ảo thuật thôi miên và thường chơi trò thôi miên ông ta, tất cả để khai thác vai trò luật sư của Bernie. Nhưng sau cùng Bernie cũng nhìn ra những tình cờ vô lý ấy và biết Gravy đã giết Avery, rồi giết Starling sau khi được tại ngoại.

27. Vụ án mạng chữ E

Omega là chữ thứ 24, chữ cuối cùng, trong bảng mẫu tự Hy Lạp. Agnon chỉ ghi nhận được hung thủ theo số thứ tự khách đến tìm ông thôi. Ông có 23 khách trong tuần đó, và kẻ giết ông là người thứ 24, tức là không phải Dunwoody. Người duy nhất có thể tới gặp ông, tại một tòa nhà được canh gác như thế, mà không cần ghi tên vào sổ khách viếng, chỉ có thể là người bảo vệ trực đêm. Đó cũng là người mà ông chỉ biết mặt chứ không biết tên.

28. Vàng thau lẫn lộn

Anh ta nhớ lại “điều kỳ lạ ở nàng mà tôi chưa giải mã ra”. Đó là cổ tay nàng không đeo đồng hồ hay trang sức, nhưng nàng luôn nói giờ giấc chính xác tới từng phút (lúc ở phòng khám cũng như khi kể lại chuyện ngồi quán rượu). Điều kỳ lạ ấy khiến anh ta tin vào trực giác của nàng về giờ giấc, tuy chuyện đó cực kỳ khó tin.

29. Cuộc chơi truy tìm thủ phạm

Khi bấm số của Carl - 8373623 - cô cũng đang bấm vào các mẫu tự T-E-R-E-N-C-E. Cô nhận ra điều này vì cô dùng điện thoại rất thường xuyên.

30. Ông hàng thịt tinh ý ở Nice

Thủ phạm muốn ông Beauregard báo cảnh sát ngay khi thấy cái xác, và cảnh sát sẽ biết Maurice là ai, chuyện đó sẽ có lợi cho ông Beauregard vì thủ phạm muốn trả ơn ông ta.

Martin tin rằng Maurice là tội phạm đang bị truy nã và treo thưởng, phải náu mình ở một thị trấn hẻo lánh và sống dưới lốt hóa trang (tóc giả). Maurice chắc biết rõ Bonfils vì ông này từng là thẩm phán ở Paris, và hẳn là người đã tống hắn vào tù. Hắn căm thù Bonfils và đã tận dụng chuyện song hôn của ông ta để báo thù và tống tiền.

31. Stan sát thủ

Khi thấy Ozep sẵn sàng tham gia, đối mặt với mọi tên trong bọn, nhưng ngại đối mặt với Olga, Maigret suy ra hai người này đã biết mặt nhau từ hồi ở Ba Lan. Hai người có thể là đồng bọn hoặc có thâm thù. Maigret tin rằng họ có thâm thù, vì nếu là đồng bọn thì y có thể dễ dàng bắt lại liên lạc chứ không cần thông qua cảnh sát. Qua báo chí, Ozep nhận ra kẻ thù qua cách gây án đặc biệt. Điều đó giúp ông kết luận Ozep không phải là Stan. Và Stan chính là Olga vì những tên đồng bọn đều xuôi xị khi biết Olga đã chết. Maigret cũng đoán Ozep nhiều lần tự sát vì không trả được mối thù, và nay nếu trả được thù thì chắc chắn y sẽ tự thu xếp đời mình, không để rơi vào tay cảnh sát.

32. Trong tù hãm

Nhân vật trong truyện đoán ra những điều sau:

- Ella có một khuyết tật, đó là thói ăn cắp vặt (chính nàng đã ăn cắp xâu chuỗi của bà Clifton). Jeff đã bao dung nàng và giúp nàng thắng được thói xấu đó. Nhưng nó đã trỗi dậy sau khi chồng nàng chết.

- Ông Gainer dự trù mình có thể chết trận, và khuyến cáo vợ phải cẩn thận với đàn ông (vì nàng sẽ hưởng gia tài lớn của ông). Ông đã khuyên nàng hãy giả bộ thú nhận chính nàng đã giết chồng để thử lòng những ai muốn theo đuổi nàng.

Nhân vật trong truyện sẽ cho nàng biết không đàn ông nào trên đời dám lấy một thiếu phụ đã giết chồng. Đó chẳng qua là cách thức của Jeff để giữ vợ sau khi ông ta chết. Ông không muốn ai khác có được nàng và tài sản của ông ta.

33. Đằng sau bức màn

Chính Ralph đã giết bà vợ cũ của mình để hưởng lợi tức mười lăm ngàn đô mỗi năm. Hắn ta giả bộ mình bị đau mắt để nhờ Knowles mua thuốc cho hắn, để sau này đổ hết tội lỗi cho Knowles, đưa Knowles vào vòng tù tội hòng nhận thêm món lợi tức hai mươi ngàn đô mỗi năm của cô.

Điều nằm sau bức màn khiến Knowles luôn sợ hãi phải đối diện đó chính là sự thật về thủ phạm giết Olga. Knowles đã nghi ngờ chồng mình giết bà vợ cũ, nhưng cô không dám thừa nhận, vì cô quá yêu chồng mình. Cô không khai chuyện mua thuốc nhỏ mắt cho Ralph vì sợ làm anh ta bị liên lụy, mãi đến phút cuối cùng không còn cách nào khác cô mới bất đắc dĩ phải khai.

34. Vụ án ở thị trấn Basing

1. Chiếc khăn tay nằm trong tay áo phải của ông Wendover chứng tỏ ông ta thuận tay trái.

2. Tay sống lang thang đã khai rằng hắn ta “có nghe hai người đàn ông cãi nhau lớn tiếng trong một căn phòng ở lầu một” rồi nhận diện được hai người đó nữa. Nhưng lúc Japp khám xét hiện trường thì cửa sổ và cửa chính đều bị khóa chặt. Nếu chúng khóa chặt, làm sao tay lang thang nghe hoặc thấy được điều gì bên trong phòng?

3. Poirot kết luận ông Wendover tự sát qua những chi tiết sau:

a. Ông tìm thấy chiếc khăn tay trong tay áo phải của Wendover, từ đó ông suy ra ông này thuận tay trái (điều này xác định đây là trường hợp tự sát, vì vết đạn ở sau lỗ tai bên trái). Khi thấy khẩu súng nằm hờ trong tay phải của nạn nhân, Poirot hiểu ngay có người đã dựng hiện trường giả (nghĩa là muốn chứng tỏ đây là vụ mưu sát).

b. Trong phòng của người chết đầy tàn thuốc lá, bà quản gia cũng khai là nạn nhân nghiện thuốc lá rất nặng, nếu như các cửa đóng kín mít tất phòng sẽ đầy mùi thuốc, nhưng khi Poirot và Hasting đến thì trong không khí chẳng có mùi gì, điều này chứng tỏ cửa sổ mở suốt đêm đến sáng mới được đóng lại. Lời khai của tay lang thang lại càng khẳng định là cửa mở suốt đêm. Điều này cho phép Poirot chắc chắn rằng hiện trường đã bị sửa đổi. Như vậy, nếu hiện trường bày ra cảnh mưu sát, thì sự thực sẽ là vụ tự sát.

4. Ai là người có thể vào phòng, chốt cứng cửa sổ rồi đi ra và khóa luôn cửa lớn sau khi Wendover đã chết? Chỉ có thể là bà quản gia.

Bà rất thương ông chủ của mình (đã chăm sóc ông ấy từ khi ông ta còn nhỏ), nên thấy vợ chồng Parker đến quấy rầy và khiến cho ông chủ phải tự sát một cách tủi nhục nên bà rất oán hận họ. Bà muốn họ phải trả giá cho chuyện này nên bà đã chuyển khẩu súng sang tay phải (chỉ mình bà biết ông Wendover thuận tay trái), bỏ đâu đó chiếc nút áo bà nhặt được trong những căn phòng dưới nhà, rồi đi ra, khóa cửa lại, rồi giấu luôn chìa khóa. Mục tiêu là khiến mọi người nghĩ đây là vụ mưu sát.

HẾT