- 33 - 34 - Đằng sau bức màn-HELEN McCloy
Đối diện với bác sĩ, bà Knowles Jason có vẻ do dự. “Việc không đáng kể, nhưng... nó cứ làm tôi lo lắng”.
“Một giấc mơ hả?”
Bà gật. “Suốt tám tháng qua”.
“Luôn luôn cùng một giấc mơ hả?”
“Nó bắt đầu theo nhiều kiểu khác nhau - khung cảnh khác nhau, tình huống khác nhau. Thỉnh thoảng có cảnh sát. Có khi là một phòng xử án. Nhưng nó luôn có một kết thúc giống nhau. Làm như tôi đang đi xuống một hành lang dài vắng vẻ trong bóng tối nhập nhoạng. Bất ngờ có một tấm màn chắn ngang lối đi. Nó chỉ là một tấm vải, tôi có thể vẹt qua và đi tiếp. Nhưng tôi không làm. Tôi chỉ đứng trước nó vài bước, và bắt đầu thấy sợ.
“Bức màn tối, không hề động đậy, cứ như nó được tạc bằng đá. Không gian thật yên tĩnh, nhưng sau vài phút các nếp gấp của bức màn bắt đầu lay động, rồi nó căng phồng về phía tôi. Rồi tôi biết có cái gì đó đằng sau nó. Không phải người - một cái gì đó. Một cái gì không thể nói ra. Một điều gì đó thật khủng khiếp và độc ác. Rồi tôi muốn bỏ chạy. Nhưng hai chân tôi như gắn chì. Chúng không nhúc nhích. Nỗi kinh hoàng trùm khắp người tôi. Tôi không thể suy nghĩ. Nhưng điều tồi tệ nhất đã đến. Một lực nào đó bên ngoài - vô hình và không thể cưỡng lại - nâng hai chân tôi khỏi mặt đất và tôi trôi từ từ về phía bức màn và... dù cái gì nằm đằng sau bức màn thì...”
“Thực sự mà nói, bác sĩ, tôi cho là mình không thể chịu đựng được chuyện đó nếu như tôi không biết rằng lúc đó tôi đang mơ”.
“Bà biết mình đang mơ? Trong khi giấc mơ đang diễn ra à?”
“Dĩ nhiên. Bộ không có ai từng trải qua cảm giác đó sao?”
“Không. Điều đó khiến cơn ác mộng trở nên khủng khiếp với tất cả mọi người. Họ cứ nghĩ nó là thật trong khi nó đang diễn ra. Nhưng bà thực sự thấy rằng bà đang mơ hả?”
“Phải”. Knowles bối rối. “Tôi... khác hả? Tôi luôn luôn biết nó là không có thật. Thậm chí khi cơn kinh hoàng bóp nghẹt tim tôi, thì có một giọng nhỏ xíu trong đầu tôi cứ vang lên: Đừng sợ. Đó chỉ là một giấc mơ. Tôi cảm thấy không thể chịu đựng nổi”.
“Nhưng bà đã chịu đựng được”. Bác sĩ mỉm cười.
“Bởi vì bà phải chịu đựng nó”.
“Ồ không. Tôi không hề chịu đựng nó”.
“Bà nói vậy là sao?”
“Tôi tự thức dậy. Tôi tập trung chú ý vào giọng nói nhỏ xíu đó: Đó chỉ là một giấc mơ. Tôi đáp lại: Vậy thì thức dậy đi. Bạn có thể nếu bạn thực sự muốn. Bạn có thể thoát khỏi nỗi kinh hoàng này bằng hành động đơn giản là thức dậy. Mở mắt ra - nhanh lên! Trước khi quá trễ. Trước khi bạn tới đằng sau bức màn...
“Ông thấy đó”, Knowles hăm hở nói. “Tôi không thể trốn thoát bằng cách bỏ chạy, nhưng tôi có thể trốn thoát bằng cách thức dậy. Sự đào thoát tinh thần cũng tốt như sự đào thoát thể xác vậy - trong một giấc mơ. Tôi không thể di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác được, nhưng tôi có thể di chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Tôi tập trung tất cả ý chí, nỗ lực tập trung, để tự thức dậy. Một cái gì đó bật tách một cái - và tôi thức dậy. Giấc mơ lung linh một chốc, rồi biến mất. Và điều đó đã cứu tôi”.
“Khỏi cái gì?”
“Khỏi... đằng sau bức màn”.
“Sao bà không cố thức sớm hơn, khi bà mới bắt đầu mơ?”
“Phải chi tôi làm được như thế. Tôi không làm gì được cho tới khi tình thế cấp bách đến độ không chịu đựng nổi nữa. Thậm chí tôi chỉ có thể tự thức bằng nỗ lực dữ dội của ý chí - một nỗ lực khiến tôi kiệt sức sau khi thức giấc... Ông tin tôi không?”
“Tin chứ. Nhiều người nói là họ còn véo họ để chắc là họ không mơ. Nhưng còn một chi tiết mà bà đã bỏ sót”.
“Tôi đã kể hết mọi thứ”.
“Nhưng còn một thứ. Đó là chuyện đằng sau bức màn có cái gì vậy?”
“Tôi không biết”. Knowles tái mặt. “Tôi không muốn biết. Tôi chỉ biết là... là một điều khủng khiếp - và nó đang ở đó, chờ đợi, trong một thời gian dài”.
“Chờ cái gì?”
“Chờ tôi”.
“Bà có nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu như bà kiềm nén không dùng ý chí để tự thức không? Nếu đơn giản bà để mình bị trôi ra đằng sau bức màn không?”
Knowles lắc đầu.
“Sao bà không thử?”
“Tôi không thể. Ông không biết ông đang hỏi điều gì đâu”.
“Nhưng đó chỉ là một giấc mơ thôi mà”.
“Nói thì nghe dễ lắm - trong ánh sáng ban ngày với ông. Nhưng giữa bóng tối nhập nhoạng chỉ có mình tôi... thì sự thôi thúc đào thoát thật mạnh mẽ”.
“Nếu bà không dùng ý chí để thức dậy, thì tôi sẽ có thể giúp bà”.
“Tôi không thể làm vậy được”. Knowles run rẩy.
“Tôi biết rằng nếu tôi thấy điều gì xảy ra đằng sau bức màn, thì tôi sẽ... chết...”
“Vậy bà không nghĩ ra đó là cái gì hả?”
“Không, tôi không hề biết hình dạng hay màu sắc của nó. Tôi chỉ biết một điều: nó là một cái gì đó tôi không nên biết. Một cái gì đó mà tôi phải trốn chạy”.
“Nhưng mà hãy hứa với tôi một điều. Nếu trong giấc mơ đó bà bước qua bên kia bức màn, bà hãy cho tôi biết cái gì ở đó, được chứ?”
“Nhưng tôi sẽ không bao giờ bước qua. Tôi luôn luôn tự thức dậy đúng lúc”.
“Có bao giờ bà nghĩ đến chuyện mình sẽ mất khả năng thức dậy đúng lúc không? Có trường hợp như vậy rồi đó”.
“Ồ, không!” đó là một tiếng kêu tuyệt vọng. “Bác sĩ, ông phải giúp tôi. Tôi phải từ bỏ giấc mơ đó trước khi tôi mất khả năng thức dậy đúng lúc. Tại sao tôi lại có giấc mơ kỳ lạ như vậy? Tôi đến đây là để nhờ bác sĩ tìm ra”.
“Bà cho tôi hỏi một câu”. Ông ngừng lại như thận trọng chọn từng chữ. “Nếu bà biết trong khi bà đang mơ rằng toàn bộ những điều đang xảy ra chỉ là một giấc mơ thì sao bà lại sợ?”
“Tôi không biết. Các giấc mơ không bao giờ hợp lô-gíc cả”.
“Cuộc sống mới không hợp lô-gíc”, bác sĩ phản ứng. “Chỉ có một số ít người - rất ít nhà khoa học nhận ra điều đó. Nhưng các giấc mơ lại luôn hợp lô-gíc, theo cách riêng của chúng. Bởi vì, theo lô-gíc, chúng là sản phẩm của trí tuệ con người trong tâm trạng thuần khiết - không bị vướng mắc bởi những giới hạn của vấn đề, không gian và thời gian... Tôi nghĩ mình biết tại sao bà thấy sợ hãi trong giấc mơ, thậm chí khi bà biết đó chỉ là một giấc mơ không hơn không kém”.
“Tại sao?”
“Vì nguồn cội nỗi sợ hãi này không phải nằm trong giấc mơ mà trong đời sống thực lúc tỉnh của bà. Bức màn trong giấc mơ chỉ là vật biểu tượng - phản ánh điều tối tăm của một điều gì đó thực sự mà bà thấy sợ khi mình thức. Thức hay mơ trong tiềm thức bà đều biết rằng nỗi sợ đó là có thực. Điều đó giải thích tại sao nỗi sợ hãi đó cứ dai dẳng thậm chí trong giấc mơ khi bà biết rằng bức màn biểu tượng cho nỗi sợ hãi chỉ là một phần của ảo ảnh”.
“Nhưng cuộc sống thực của tôi đâu có gì phải sợ!”
Knowles kêu lên. “Nó chỉ có trong giấc mơ thôi”.
“Không có gì bước ra từ trí não mà nó không một lần từng bước vào. Mọi giấc mơ đều là hình ảnh của cuộc đời thực. Sự sợ hãi, xấu hổ, tội lỗi là những thứ mà chúng ta không thừa nhận hay cố trấn áp trong lúc thức. Việc phân tích có thể làm rõ nguồn cội nỗi sợ hãi mà bà đang trấn áp trong đời sống thực của bà. Một khi chúng ta đào sâu vào nó, bà sẽ rũ bỏ được giấc mơ này. Bà có lo lắng gì trong đời sống thực không? Về tiền bạc chẳng hạn?”
“Không. Cha tôi có để lại cho tôi khoản lợi tức hàng năm hai mươi ngàn đô. Như vậy đã quá đủ ở thị trấn nhỏ như Brookfield này rồi”.
“Hôn nhân bà hạnh phúc chứ?”
“Rất hạnh phúc. Tôi lấy chồng cách đây hai tháng”. Mặt Knowles ửng hồng.
“Bà có giấc mơ như vầy hồi nào?”
“Cách nay tám tháng”.
“Vậy cách nay tám tháng có điều gì đặc biệt xảy ra với bà không?”
Knowles đáp vội vàng. Quá vội vàng. “Không. Hoàn toàn không có gì cả”.
“Chồng bà làm nghề gì?”
“Anh ấy là họa sĩ. Nhưng năm nay anh ấy không vẽ nhiều vì mắt anh ấy yếu. À quên, khi tôi nói mình hưởng hai mươi ngàn đô một năm, thì tôi lại quên nói là Ralph, chồng tôi, cũng có khoản lợi tức mười lăm ngàn mỗi năm. Chúng tôi sống rất thoải mái với khoản lợi tức gộp chung đó”. Knowles đứng lên, đeo găng tay vào”. Cám ơn vì đã dành nhiều thời gian cho tôi. Cuộc nói chuyện khiến tôi nhẹ nhõm”.
Tiễn bà ta ra cửa, ông biết mình đã mất một bệnh nhân, nên bảo cô y tá.
“Cất danh thiếp của bà Ralph Jason vào đống hồ sơ không dùng nữa. Bà ta sẽ không quay lại đâu”.
Cô y tá nhíu mày. “Bà Ralph Jason hả... Tôi có nghe tên này ở đâu rồi thì phải. Ồ, bà ta không thể là bà Ralph Jason được. Bà này chết rồi mà”.
“Sao cô biết?”
“Tôi đọc trên báo. Bà ta là vợ một họa sĩ ở Brookfield này, đã tự tử cách nay tám tháng”.
“Cách nay tám tháng à? Vậy đây chắc là bà vợ thứ nhì của Jason rồi”. Ông bác sĩ mím môi. “Tôi tự hỏi...”
“Ông muốn nói gì, bác sĩ?”
Đôi mắt ông xa xăm. “Những gì nằm đằng sau bức màn. Trong giấc mơ kế tiếp có thể bà ta tìm ra...”
Knowles ngồi mơ màng trên chiếc ghế bành trong căn phòng tối lờ mờ. Mọi thứ quanh bà mờ mờ như trong ảo ảnh. Thậm chí dáng Ralph ngồi bên kia lò sưởi cũng mơ hồ nửa thực nửa hư. Bà như chìm vào cõi mộng không còn ý thức về không gian hay thời gian. Chợt có tiếng chuông cửa khiến bà giật mình, Ralph bật dậy và bước ra ngoài.
Đèn bật sáng. Có hai người đàn ông lạ mặt theo Ralph vào. Knowles nhấp nháy mắt và như phản xạ bà kêu lên. “Ralph, đèn chói quá. Sao anh không mang kính vào? Không tốt cho mắt anh đâu”.
Tiếng Ralph thật gấp. “Không sao. Mắt anh khỏe rồi”.
Quen với ánh sáng, bà nhìn kỹ hai người lạ mặt đó. Trông họ không giống như những sứ giả của số phận. Hình như bà đã từng gặp họ đâu đó. Chẳng có gì bước ra từ trí não mà nó không từng một lần bước vào... Ai đó đã nói với bà câu này...
Giọng Ralph vang lên. “Knowles, đây là đại úy Crane và ông Mather. Còn đây là vợ tôi”.
Đại úy? Vậy là người của cơ quan cảnh sát.
“Ông ta muốn hỏi vài câu”. Chồng bà tiếp.
Crane quay sang nhìn thẳng vào bà. “Bà có nhớ là cách nay tám tháng, bà Olga, vợ trước của chồng bà bị chết vì ngộ độc atropine không?”
“Atropine sulphate”, Mather thêm vào.
Knowles cúi đầu không đáp.
“Bồi thẩm đoàn đã phán quyết đây là một vụ tự sát”. Giọng của Crane vô hồn. “Vì vài lý do, Olga là một người tàn tật. Một tai nạn ô tô do Ralph Jason lái đã khiến bà ta bị tàn phế. Bà ta trách móc chồng vì chuyện này mà bà bị tổn thương bên trong nên không thể có con. Điều này giày vò tâm trí bà. Bồi thẩm đoàn đã vin vào điều đó để tuyên bố bà đã tự sát trong tâm trạng bấn loạn”.
Mình phải nói điều gì đó, Knowles nghĩ, nhưng lưỡi bà cứng ngắc, cổ họng khô khốc. Bà nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch.
“Lúc đó cảnh sát chấp nhận phán quyết đó, nhưng...” Crane nhìn thẳng vào Knowles. “Rắc rối ở chỗ là chúng tôi không lần ra dấu vết cho thấy bà Olga có mua chất atropine đó”.
“Chuyện đó đâu có gì lạ”. Ralph chen vào. “Atropine có trong nhiều loại dược phẩm đặc chế. Trong bang này người ta có thể mua nó mà không cần trình toa thuốc. Ở Brookfield này và vùng lân cận có cả chục hiệu thuốc. Mỗi người có hàng trăm khách hàng.
Làm sao họ có thể nhớ mặt khách hàng chỉ mua có một lọ thuốc nhỏ mắt được?”
Crane bật dậy. “Sao ông lại nghĩ đó là thuốc nhỏ mắt, ông Ralph? Atropine cũng có trong dạng thuốc viên và thuốc mỡ vậy”.
“Vâng, trong tất cả các dạng đó”. Ralph mím môi.
Crane lại hướng về phía Knowles. “Olga hoàn toàn không thể lái xe. Thậm chí đi nạng bà ta cũng không thể đi xa được. Và bà ta cũng không thể nhờ ai đi mua thuốc độc để tự tử. Một người bán thuốc có thể quên những khách hàng bình thường khác nhưng chắc chắn sẽ nhớ một khách hàng bị tật”.
Cuối cùng thì Knowles cũng cố xoay xở để thốt ra một câu. “Tôi biết”.
“Bà biết à?” giọng Crane có vẻ giễu cợt. “Chúng tôi có hai chuyện cần bà giải thích. Thứ nhất là bà đã cưới Ralph. Thứ hai là chúng tôi đã lần ra dấu vết là chính bà đã mua thuốc nhỏ mắt có chứa atropine vài ngày trước khi xảy ra cái chết của Olga”.
Knowles siết chặt hai bàn tay. Đây là cơn ác mộng. Chóng hay chày nó cũng sẽ kết thúc như những cơn ác mộng khác thôi. Hành lang - bức màn - sự tê liệt. Đừng sợ. Nó chỉ là một giấc mơ. Tâm thức cô nhắc nhở. Vậy hãy thức dậy đi. Bạn có thể nếu bạn thực sự muốn. Bạn có thể thoát khỏi điều khủng khiếp này đơn giản chỉ bằng việc mở mắt ra. Mở mắt ra - nhanh lên - trước khi bạn qua bên kia bức màn...
Giọng Ralph vang lên. “Sao Knowles không được mua loại thuốc nhỏ mắt này? Nhiều người khác cũng mua mà!”
“Đúng. Nhưng họ mua vì mắt họ có vấn đề. Chúng tôi đã kiểm tra hồ sơ bệnh án của bà đây và biết rằng tiền sử bà không hề mắc chứng bệnh mắt nào cả”. Rồi ông ta quay sang Knowles. “Bà Knowles. Bà có bị chứng đau mắt nào không?”
Knowles nghe giọng mình nhỏ xíu và run rẩy.
“Mắt tôi vẫn hoàn toàn bình thường”.
“Em không cần phải trả lời ông ta, em yêu!” Ralph lên tiếng.
“Tôi đến đây là có chứng cớ rõ ràng”. Ông ta quay sang Mather. “Đây là người bán thuốc, ông Mather. Ông ta đã nhận diện ra bà Jason hồi chiều nay khi bà ta từ phòng khám bệnh đi ra. Chúng tôi có lệnh bắt giam bà, bà Knowles”.
“Làm sao ông dám chắc về một người chỉ mua một lọ thuốc cách đây tám tháng”.
Mather run rẩy. “Tôi nhớ được bà ấy nhờ những mụn ruồi theo hình tam giác trên má phải của bà. Tôi nhớ là bà đã chạy vội vào và hỏi mua một lọ thuốc nhỏ mắt. Trên đó ghi rõ: Thuốc độc - Chỉ dùng bôi ngoài. Nó không mạnh lắm. Cứ cách ba giờ thì nhỏ một đến hai giọt vào mỗi bên mắt. Đô đủ giết người là khi uống cả lọ cùng một lúc. Ôi Chúa ơi. Ước gì tôi đừng chắc. Nhưng tôi rất tiếc”. Nói xong anh ta ôm mặt. Chuyện này quá sức chịu đựng của anh ta.
Ralph nạt: “Nếu anh rất tiếc thì lẽ ra anh nên câm miệng mình lại”. Rồi Ralph quay sang Knowles.
“Đừng lo, em yêu, anh sẽ tìm ra vị luật sư giỏi nhất thành phố này. Và cả những tay thám tử lành nghề nhất để lùng cho ra nơi Olga đã mua thứ thuốc đó”.
Đại uý Crane chạm nhẹ tay bà. “Sẵn sàng chưa, bà Knowles...?”
Giờ đây các nhân chứng đã có mặt đầy đủ trong phiên tòa. Họ tuyên thệ và bắt đầu khai.
“Tôi là đầu bếp của bà Olga quá cố. Tôi đã nói hết những gì tôi nghĩ về bà ta khi bà ta sa thải tôi. Một mụ già bần tiện, ích kỷ. Tôi chẳng quan tâm chuyện bà ta bị tàn tật. Tôi chỉ tội nghiệp ông chồng khốn khổ của bà ta thôi. Phải, bà Jason thứ hai - trước đó là cô Knowles - thường từ sân quần vợt vào nhà bếp khi khay thức ăn của bà Olga được bày ra bàn... Vâng, cô Knowles luôn chạy vào mỗi khi bà Olga cần bất cứ thứ gì và cô Knowles thường vào nhà bếp một mình vì tôi thường phải ra mở cửa khi có chuông hay trả lời điện thoại. Tôi nhớ cô ấy có bưng khay thức ăn cho bà Olga hai lần. Ngay trước hôm bà Olga chết...”
“Tôi là bác sĩ của bà Olga quá cố... Phải, tôi nghĩ những thương tổn bên trong của bà ta tác động đến thái độ của bà ta đối với ông Jason...”
“Vâng, tôi là luật sư của bà Jason quá cố. Khi họ cưới nhau lần đầu, bà ta đã làm di chúc để lại mọi thứ cho ông Jason... Khoảng mười lăm ngàn đô mỗi năm. Bà ấy nói với tôi là ông ta chẳng có thứ gì cả...”
“Vâng, tôi là người bán thuốc. Tên tôi là Fred Marther... Tôi sẽ giải thích vì sao tôi nhớ việc cô Knowles đã mua thuốc nhỏ mắt có atropine cách đây tám tháng. Tôi là người bán hàng có ý thức trách nhiệm và muốn mở rộng việc mua bán của mình nên tôi thường ghi tên và địa chỉ của khách hàng lại để mỗi khi có loại mỹ phẩm quảng cáo nào mới, tôi sẽ gửi đến cho họ. Bà Jason - cô Knowles này đây - đã cho tôi tên và địa chỉ của bà. Thật buồn cười khi bà ta không cho một cái tên giả. Nhưng như đại uý Crane có nói, tất cả những tên giết người thường phạm phải những sai lầm nhỏ nhặt...
Khi tôi đọc báo thấy loan tin đám cưới của cô ta với ông Jason đây và tôi cũng đọc báo nói về cái chết của bà Olga quá cố do ngộ độc atropine, nên tôi nghĩ có chuyện gì mờ ám, và tôi đã báo cho cảnh sát...”
“Vậy là đã rõ, bà Knowles, bà có nói gì không?” Viên chánh án hỏi.
Knowles không còn phân biệt được các từ ngữ nữa. Những ngày qua trong nhà giam đối với Knowles như một cơn ác mộng. Bà tự nhủ rồi nó sẽ kết thúc, chỉ cần bà dùng ý chí để mở mắt ra. Nếu không thì... bà sẽ phải đối mặt với điều khủng khiếp bên kia bức màn. Ý thức dần dần trở lại trong bà, bây giờ bằng nỗ lực to lớn bà cũng không thể mở mắt ra, vì đây là cuộc đời thực chứ không phải cơn ác mộng như thường lệ. Bà đã không khai gì với luật sư riêng của mình, nhưng bây giờ khi ra trước tòa bà biết mình phải đi đến quyết định cuối cùng, rất đau khổ đối với bà. Bà nhìn sang Ralph, khuôn mặt anh thảm não.
“Vậy là tôi bị kết tội hả?” Giọng bà lạc mất. “Nếu thế xin cho tôi nói. Vào buổi chiều trước ngày Olga chết, Ralph lái xe đưa tôi đi chơi. Rồi Ralph dừng lại để sửa xe - hình như bộ chế hòa khí đã bị hư. Tôi bước xuống đi loanh quanh. Anh ấy bảo tôi vào một hiệu thuốc và mua thuốc nhỏ mắt cho anh ấy. Anh ấy bị chứng viêm mống mắt. Tôi mua thuốc đó cho anh ấy”.
Cả phòng xử lặng đi. Mọi cặp mắt đổ dồn về phía Ralph. Mặt anh tái lại. Anh đứng bật dậy.
“Cô nói láo. Làm gì có chuyện cô ấy mua thuốc nhỏ mắt cho tôi. Mắt tôi hoàn toàn bình thường mà. Bất kỳ bác sĩ nhãn khoa nào cũng có thể chứng thực điều đó. Hóa ra là cô đã giết Olga tội nghiệp. Thật tôi không thể ngờ...”
Cả phòng xử án đều sững sờ, chỉ riêng đại uý Crane mỉm cười.
* Câu hỏi: Vậy ai là người đã giết bà Olga? Điều gì nằm phía sau bức màn?
34
Vụ án ở thị trấn Basing
Adatha Christie
“Xét cho cùng thì chẳng đâu bằng miền quê, đúng không?” Thanh tra Japp nói, hít vào một cách nặng nhọc bằng mũi và thở ra bằng miệng.
Poirot và tôi cùng đồng tình. Theo ý của Japp tất cả chúng tôi nên đi nghỉ cuối tuần ở thị trấn nhỏ miền quê Basing.
“Chẳng ai biết chúng ta, mà chúng ta cũng chẳng biết ai cả”, Japp giải thích.
Tuy nhiên quan điểm này cũng không hoàn toàn đúng.
Ba chúng tôi ngồi ăn trong một quán nhỏ ở thị trấn Basing vào một buổi sáng đầy nắng với một tâm trạng thật thoải mái. Thịt nướng và trứng ở đây không chê vào đâu được, tuy cà-phê thì không ngon lắm.
“Đây mới chính là cuộc sống”, Japp nói. “Chừng nào về hưu, tôi sẽ kiếm một chỗ nhỏ ở miền quê. Xa hẳn thế giới tội phạm. Giống như vầy”.
“Tội ác có mặt khắp nơi”, Poirot nhận xét.
Japp nằm ngửa người ra ghế. “Tôi cho là mình có thể ăn thêm một suất thịt nướng và trứng nữa. Ông nghĩ sao, đại úy?”
Tôi hưởng ứng liền. “Còn anh thì sao, Poirot?”
Poirot lắc đầu.
“Bụng no thì đầu lười suy nghĩ”..
Japp chưa kịp nói thì ngay lúc đó một bóng người hiện ra ngay ngưỡng cửa.
“Rất tiếc là tôi đã quấy rầy các ngài, nhưng tôi muốn hỏi ý kiến ông thanh tra”.
“Tôi đang nghỉ phép”, Japp vội nói. “Nhưng có chuyện gì vậy?”
“Ở Leigh Hall có một người tự bắn vào đầu”.
“Chắc do mắc nợ hay đàn bà chứ gì. Xin lỗi tôi không thể giúp anh được, Pollard”.
“Vấn đề là”, tay cảnh sát địa phương nói, “ông ta không thể tự bắn mình được. Bác sĩ Giles nói vậy”.
“Nghĩa là sao?” Japp đặt tách xuống.
“Bác sĩ Giles nói vậy”, Pollard lặp lại. “Ông ta nói chuyện đó không thể xảy ra được. Mặc dù cửa chính khóa từ bên trong và cửa sổ bị chốt lại, nhưng ông ấy vẫn không tin đây là một vụ tự sát”.
Thế là suất ăn gọi thêm phải dẹp và tất cả chúng tôi lên đường đến Leigh House. Japp cứ luôn miệng hỏi tay cảnh sát địa phương.
Người chết tên là Walter Protheroe, trung niên, độc thân. Ông ta tới Basing cách đây tám năm, mang theo một bà quản gia tên Clegg, và thuê Leigh House, một nơi cũ nát. Bà Clegg này rất đàng hoàng và được dân trong thị trấn kính nể. Vài bữa trước có vợ chồng ông Parker từ London đến thăm ông Protheroe và ở lại chơi. Sáng này, khi bà Clegg đến gọi, thấy cửa khóa, không nghe ông chủ trả lời, bà ta liền gọi điện cho cảnh sát và bác sĩ. Pollard và bác sĩ Giles đến cùng lúc, họ hợp lực phá cánh cửa gỗ sồi.
Ông Protheroe nằm trên sàn, bị bắn xuyên qua đầu, tay phải cầm khẩu súng. Rõ ràng là tự sát rồi.
Tuy nhiên sau khi khám nghiệm bác sĩ Giles không đồng ý và đòi mời Japp đến ngay.
Khi chúng tôi tới Leigh House, một ngôi nhà lớn chung quanh đầy cỏ dại thì cửa chính đã mở toang, có vài cảnh sát canh gác hiện trường. Trong phòng khách có bốn người, bác sĩ Giles, vợ chồng ông Parker và bà Clegg. Ông bác sĩ chào chúng tôi, sau đó chúng tôi tháp tùng ông ta lên lầu. Căn phòng xảy ra án mạng ở cuối hành lang với cánh cửa đã bị xô ngã.
Chúng tôi bước vào, xác vẫn còn nằm trên sàn. Ông Protheroe đã đứng tuổi, có râu, tóc hai bên thái dương đã bạc. Japp quỳ xuống cạnh xác.
“Kỳ thiệt”, Japp nói. “Đạn bắn từ phía sau vành tai trái”.
“Phải”, Giles đáp. “Ông ta không thể vòng tay phải quanh đầu mà bắn như vậy được”.
“Ông thấy tay phải nạn nhân nắm khẩu súng hả?”
“Không hẳn là nắm”, Giles đáp, “nó nằm trong lòng bàn tay phải, nhưng các ngón tay không nắm vào báng súng”.
Japp nói. “Vậy là rõ rồi. Ông ta chết độ bao lâu?”
“Khoảng tối hôm qua. Không thể nói chính xác thời gian như mấy tay bác sĩ trong truyện hình sự đâu. Nhưng ông ta chết cách đây chừng mười hai tiếng”.
Poirot đứng cạnh tôi, không nói gì, nhìn Japp làm việc và lắng nghe ông ta hỏi. Thỉnh thoảng ông ta ngửi ngửi không khí. Tôi cũng ngửi, nhưng không thấy gì lạ. Không khí thật trong lành, không có mùi vị gì. Nhưng Poirot vẫn tiếp tục ngửi đầy nghi ngờ, như thể cái mũi thính của ông ta khám phá ra một điều gì đó mà tôi bỏ sót.
Khi Japp đứng dậy, Poirot quỳ xuống bên cái xác. Ông chẳng quan tâm đến vết thương. Lúc đầu tôi nghĩ ông ấy xem xét những ngón tay cầm khẩu súng, nhưng sau tôi mới thấy đó là chiếc khăn tay nhét trong tay áo khoác bên phải của ông Protheroe. Cuối cùng Poirot đứng dậy, mắt vẫn nhìn vào chiếc khăn tay như thể bối rối lắm.
Japp gọi ông ấy đến giúp nâng cánh cửa lên.
Nhân cơ hội đó tôi quỳ xuống, rút chiếc khăn ra.
Chẳng có vết máu hay dấu vết gì đặc biệt cả. Tôi nhét nó lại và đứng lên.
Những người kia đã nâng cánh cửa lên. Họ đang tìm chìa khóa, nhưng không thấy.
“Vậy là rõ”, Japp nói. “Cửa sổ được chốt cứng. Tên giết người ra bằng cửa chính, khóa nó lại và cầm luôn chìa khóa. Hắn muốn làm ra vẻ chính Protheroe đã tự gài cửa rồi tự sát, và người ta sẽ không nhận ra chìa khóa bị mất, phải vậy không, Poirot?”
“Phải. Nhưng theo tôi lẽ ra nên chuồi chìa khóa vô trong, dưới khe cửa. Như vậy nó có vẻ như bị rơi xuống hơn”.
“Ồ! Ông tưởng ai cũng thông minh như ông hết sao. Ông sẽ là tên nguy hiểm nếu như ông phạm tội.
“Còn có ý gì nữa không, Poirot?”
Poirot không đáp, chỉ nhìn quanh phòng rồi nhận xét.
“Tay này hút thuốc nhiều dữ”.
Đúng vậy, gạt tàn và mặt lò sưởi gần ghế bành đầy tàn thuốc.
“Tối qua hẳn ông ta đã hút cỡ trên hai mươi điếu”, Japp nhận xét, rồi xem xét gạt tàn một cách cẩn thận. “Cùng một loại thuốc, cùng một người hút. Có gì lạ đâu, ông Poirot?”
“Thì tôi có nói gì đâu?” ông bạn tôi làu bàu.
“A! Cái gì đây?” Japp kêu lên và cúi nhặt một cái nút áo trên sàn gần chỗ người chết. “Không biết của ai đây? Ông Giles, nhờ ông xuống nhà gọi bà quản gia lên giùm tôi”.
“Còn vợ chồng Parker? Ông ta rất muốn rời khỏi đây - nói là có việc gấp ở London”.
“Tôi dám chắc là vụ này có dính tới ông ta. Gọi bà quản gia lên và đừng để cho cả hai vợ chồng Parker thoát khỏi anh và Pollard. Sáng nay có ai trong nhà này vào đây không?”
Bác sĩ ngẫm nghĩ.
“Không, họ đều ở ngoài hành lang khi tôi và Pollard đến”.
Khi Giles đi rồi, Japp nói đầy khoái chí.
“Bây giờ đoán coi ai bắn tay này. Bà quản gia thì chắc là không rồi. Nếu muốn thì bà ta đã bắn ông ta tám năm nay rồi. Còn vợ chồng Parker này là ai? Họ chẳng phải là một đôi tử tế gì”.
Bà quản gia lên tới. Đó là một phụ nữ trung niên, gầy, thái độ trầm lặng và dễ tạo tin cậy. Bà ta khai với Japp rằng đã ở với người chết mười bốn năm. Ông ta là một ông chủ chu đáo và hào phóng. Bà ta chưa từng gặp vợ chồng Parker cho đến cách đây ba hôm, họ đến và ở lại. Theo bà thì ông chủ không muốn gặp hai người này. Cái nút áo mà Japp đưa ra không phải của ông Protheroe. Còn về khẩu súng thì bà tin rằng ông chủ mình có một khẩu, cất đâu đó, nhưng không chắc là khẩu này. Tối hôm qua bà không nghe tiếng súng, nhưng điều đó chẳng có gì ngạc nhiên vì ngôi nhà này rất lớn, và phòng của bà và phòng của vợ chồng Parker ở hai đầu của ngôi nhà. Bà không biết ông chủ đi ngủ khi nào - lúc chín giờ rưỡi bà đi ngủ thì ông ta vẫn còn thức. Thường thì ông ta thức đến nửa đêm, đọc sách và hút thuốc. Ông ta nghiện thuốc lá rất nặng.
Poirot hỏi thêm.
“Theo thông lệ thì ông chủ của bà mở hay đóng cửa sổ khi ngủ?”
Bà Clegg do dự.
“Thường thì mở, ít nhất là hai cánh phía trên”.
“Nhưng bây giờ nó đóng. Bà có biết tại sao không?”
“Không, có lẽ ông ấy thấy lạnh và đóng cửa lại”.
Japp hỏi bà vài câu nữa rồi cho bà ta lui. Kế đến ông ta thẩm vấn vợ chồng Parker, từng người một. Bà Parker rất chấn động và trả lời không mạch lạc, nhưng khẳng định nút áo đó là của chồng mình, trong khi ông Parker chối bay chối biến và một mực nói rằng mình không hề bước vào phòng của Protheroe. Japp thấy có đầy đủ chứng cứ để xin trát tống giam ông ta.
Poirot và tôi chia tay Japp trở về quán rượu.
“Vụ này có vẻ không có lợi cho tay Parker. Nhưng không biết động cơ là gì đây”.
“Anh có để ý gì ở tay áo người chết không, Hasting?” Poirot trầm ngâm.
“Ồ, chiếc khăn tay!”
“Phải”.
“Các thủy thủ có thói quen nhét khăn tay trong tay áo”, tôi nói.
“Hay lắm, Hasting, nhưng đó không phải là điều tôi thắc mắc”.
“Vậy chứ điều gì?”
“Mùi thuốc lá. Tôi cứ đi tới đi lui tìm hoài mùi thuốc lá trong phòng đó”.
“Tôi có ngửi thấy gì đâu”.
“Thì tôi cũng vậy”.
Cuộc điều tra kéo dài thêm hai ngày sau đó. Trong khi đó đã có thêm chứng cớ mới. Một tay lang thang đã khai rằng hắn thường leo tường vào khu vườn Leigh House để ngủ trong nhà kho bỏ trống. Hắn nói rằng lúc mười hai giờ hắn có nghe hai người đàn ông cãi nhau lớn tiếng trong một căn phòng ở lầu một. Một người đòi một số tiền lớn, còn người kia thì giận dữ từ chối. Họ cãi nhau dữ dội. Hắn đã nhận dạng, một người là ông Protheroe, còn người kia là quý ông Parker đây.
Rõ ràng là vợ chồng Parker đến đây để tống tiền Protheroe, và hóa ra tên thật của người chết là Wendover, thiếu úy hải quân, từng dính vào vụ nổ chiếc tàu Merrythought năm 1910. Có vẻ như Parker đã nhận ra trách nhiệm của Wendover trong vụ này, nên lần theo dấu vết của Wendover để tống tiền và ông kia không chịu trả.
Trong lúc cãi vã, Wendover móc súng ra, Parker cướp lấy và bắn ông ta, rồi ngụy trang thành một vụ tự sát.
Parker bị câu lưu và thẩm tra lại. Chúng tôi tới dự.
Khi ra về Poirot cứ gật gù mãi. Ông ta ra bưu điện, gửi một lá thư hỏa tốc. Tôi không nhìn thấy địa chỉ người nhận.
Về đến quán trọ, Poirot cứ bồn chồn ngóng qua cửa sổ.
“Tôi đang chờ một người khách. Chắc chắn là tôi không lầm. Ồ, bà ta tới rồi”.
Ít phút sau tôi giật mình khi thấy bà Clegg bước vào. Bà ta có vẻ lo âu và thở gấp như thể vừa chạy tới đây. Tôi thấy vẻ sợ hãi của bà khi bà nhìn Poirot.
“Bà ngồi xuống đi”, Poirot nói ân cần, “tôi đã đoán đúng, phải không?”
Thay vì trả lời, bà ta bật khóc.
“Sao bà làm vậy?” Poirot nói nhẹ nhàng. “Tại sao?”
“Tôi thương ông ấy lắm”, bà ta nức nở. “Tôi chăm sóc ông ấy từ hồi ông ấy còn bé tí. Ôi, Chúa ơi!”
“Xin bà hiểu cho, tôi không thể để một người bị kết án oan - dù hắn là một tên vô lại hạng nhất”.
Bà ta đứng dậy, nói nhỏ.
“Lẽ ra tôi không nên làm như vậy. Thôi ông cứ làm những gì cần làm”.
Rồi bà ta đứng lên, vội vã rời khỏi phòng.
“Bà ta bắn à?” tôi hết sức hoang mang.
Poirot mỉm cười và lắc đầu.
“Anh không thấy là ông ta thuận tay trái sao? Ông ta tự bắn vào đầu”.
* Câu hỏi:
1. Chi tiết nào cho thấy ông Wendover thuận tay trái?
2. Qua lời khai của tay sống lang thang, Poirot đã nhận ra điểm mâu thuẫn gì ở hiện trường?
3. Tại sao Poirot lại kết luận ông Wendover tự sát, trong khi các chứng cứ rõ ràng chống lại Parker?
4. Ai đã dựng lên hiện trường giả? Tại sao?