4. Tàng hình
Sau những ngày đêm mưa dai dẳng chợt lấp ló mấy vì sao ban mai. Bên cạnh đám mây đen xù xì vài ngôi sao đẹp lung linh. Mưa đã rửa sạch bụi bặm làm cho ánh sáng trong suốt. Ác cảm mây mưa bỗng một thoáng tan biến trong Tuấn "vẩu". Anh nheo mắt nghiêng đầu ngắm lại thấy những tia sáng tuôn chảy thành dòng ngắt quãng. Ồ, sao lại ngắt quãng thế nhỉ? Thích thú quá! Như lần đầu tiên được chứng kiến, anh nheo mắt tiếp rồi mở thật to ngắm lần nữa. Ôi thật là tuyệt, một phút thư giãn hiếm hôi!
Một ngày qua đi. Từ sáng đến quá trưa, địch đánh phá liên tục. Máy bay tiêm kích bắn rốc két, thả bom bi. Máy bay vận tải hạng nặng giội siêu trọng. Không gian, kể cả khoảng trời bị băm nát nhừ bởi chớp sáng và tiếng nổ.
Ngồi trong hố bắn tỉa, Lý chửi thề:
- Mẹ nó, mắt còn thấy hoa cà hoa cải là vẫn còn sống!
Bọn thủy quân lục chiến vài ba ngày nay không thấy bén mảng. Chúng yên ắng một cách khó hiểu. Chả là cả hai phía đều mệt lử chờ nhau xem ai ra đòn trước. Một diễn biến không cần thỏa ước? Tuấn "vẩu" cùng hai tân binh trong tổ trực chiến nơi giáp ranh với địch, văng ra một câu bâng quơ:
- Mẹ kiếp, cứ làm như bầu trời của riêng nhà nó ấy. Mà thiếu gì nơi phòng ngự, chết gí chịu trận thế này mãi sao!?
Tân binh Quyền trẻ măng, mép chưa có lông tơ, tỏ vẻ lo lắng:
- Thế phòng ngự ở đâu tốt hơn hở anh?
- Vùng đồi phía tây kia kìa! Hai chú mày đã nhìn thấy chưa?
Bảo nhanh nhảu:
- Nếu thế trên đã biết. Em nghĩ ở đây lợi hơn trên mới quyết chứ?
- Vẻn vẹn hơn cây số vuông ngập nước thế này, lợi gì? - Tuấn nhìn như xuyên màn đêm, chà mấy thằng này chưa ngấm, đầu óc bé tí có nói cũng chả hiểu. Thôi, tập trung quan sát không địch nó mò vào ngay sau đít lại không nổ súng kịp.
Quyền oằn người kêu nôn nao, bụng đầy hơi tưng tức. Tuấn "vẩu" lên giọng:
- Ngâm nước còn đau nhiều em ạ! Này, rặn đánh bủm một cái là nhẹ tênh ngay. Lỡ có ra quần thì giặt luôn không sao cả. Anh nói thật đấy, không đùa đâu. Nước đã bẩn đủ thứ, bẩn thêm một chút không sao. Đêm tối thế này xấu hổ quái gì.
Bấn bí quá, Quyền ấn bụng chịu đựng cuối cùng ra xa chỗ ụ mình nấp bĩnh ra phân nổi lều bều. Trở lại vị trí, Quyền nói tươi roi rói: em nhẹ hẳn người. Lý chít khăn mặt trắng trên đầu làm ám hiệu, miệng kêu mật khẩu, lùa nước đi tới. Anh phổ biến mệnh lệnh trực chiến ở cấp độ cao nhất, đem cho mỗi người thêm một nắm cơm dự phòng chiến đấu liên tục và mỗi người một bi đông nước nóng hôi hổi, dặn chỉ được uống nhắp môi. Anh ở lại thay Tuấn "vẩu" được về hầm ngủ vì đã mười bốn tiếng liền làm nhiệm vụ. Tuấn lầu bầu cho ăn kẹo nó cũng chẳng dám đánh đêm. Anh xốc lại súng đạn đi được vài bước hỏi với lại:
- Này, thông báo lữ thủy quân lục chiến 258 không còn sức chiến đấu rút về sau củng cố. Bọn nó đã thay quân mới xong chưa?
- Thôi đi đi ông tướng, cứ tham mưu hoài! Hỏi trên chứ tớ làm sao biết được. Mà quân nào thì cũng phải đánh!
- Trả lời thế, hỏi làm đ... gì cho tốn nước bọt. "Tồ" ở lại nhé!
Lý đang băn khoăn về ngày giỗ mẹ mình mặc cho Tuấn "vẩu" trêu chọc. Rằm tháng tam chắc qua rồi. Anh tính nhẩm trong đầu, hành quân vào đây đúng dịp rằm tháng bẩy, hơn một tháng rồi còn gì. Năm nay có tháng nhuận không? Chịu, làm sao mà biết được. Dương lịch so với âm lịch khó tính ra ngày cụ thể quá.
Nhìn lên trời dày đặc bóng đêm chỉ có tiếng chim lợn kêu eng éc, anh nhớ mẹ đã bỏ về núi từ khi anh mới tám tuổi. Anh thật thà như đếm. Hỏi Lý có vợ chưa? Anh trả lời gọn thon lỏn có rồi nhưng chưa cưới! Nhớ lắm không? Nhớ nhiều chứ! Có hay viết thư cho cô ấy không? Không viết, chỉ viết trả lời cô ta thôi! Bắn tỉa có giống bắn nỏ? Giống nhau phải bình tĩnh. Bắn thú dữ mà không bình tĩnh thì nó ăn thịt mình. Bắn tỉa không bình tĩnh đạn bay vu vơ sao đổ được địch! Ở nhà khổ không? Khổ không nói hết được. Củ sắn bám mấy hạt gạo mà! Hai năm tuổi quân giờ anh đã nói thông thạo tiếng phổ thông. Trong phần cấu trúc ngôn từ anh bớt đi cái chất đáng yêu của núi rừng, của dân tọc anh.
Lý được đồng đội mến phục. Anh luôn giành phần nặng nhọc về mình. Trong thâm tâm đồng đội còn cảm nhận thấy anh có thể hy sinh thay mình. Âm thầm ít nói nhưng nói câu nào chắc câu ấy. Anh chỉ mong hết chiến tranh về giúp bố một tay nuôi nấng các em ăn học. Có lần anh nói với Hưng "cận": "Này, tớ hai năm ở bộ đội vẫn chưa hiểu nhà nước với chính phủ có khác gì nhau không?". Được giải thích anh lại hỏi: "Làm xong chủ nghĩa cộng sản thì làm đến chủ nghĩa gì?" - Hưng "cận" bảo: "Mình chịu!". Cứ buột ra những câu hỏi rất bất ngờ. Giữa lúc sống chết trong gang tấc, anh vẫn đau đáu một cái gì đó vừa hay hay vừa bí hiểm.
Lý lan man nghĩ đủ thứ chuyện. Cựu binh từ chiến dịch trước vào đây hy sinh gần hết rồi. Không nhớ hết mấy đợt bổ sung quân. Một số bị thương, sốt rét nặng đã về phía sau... Bỗng có tiếng gần như gọi nhau í ới cắt đứt dùng suy nghĩ của anh. Thính tai đã được mệnh danh "báo gấm rừng già" mà Lý nghe cũng không rõ. Âm thanh mờ đục lắm. Một lát có tiếng truyền miệng vào tai nhau "sập hầm". Sập hầm số mấy? Im lặng. Điếc bom rồi sao mà không trả lời? Chờ đến mười phút mới có tin hầm số 9, trong hầm có Phó Cối đang ngủ. Lý thở phào vì sáng nay bom cũng đã đánh sập mấy hầm. Cũng may đã sơ tán rộng nên thương vong không đáng kể so với hôm chúng đánh bom siêu trọng lần đầu tiên. Phúc cho thằng Tuấn gãi vãi đạn vừa rời trực chiến. Không may cho Cối, thơ mày làm đã ứng vào mày rồi.
"Lính ngủ khoái nhất mơ tiên...".
Cối ơi, mày mơ tiên thật rồi ư? Hết cái giọng ồ ề mày nhại nhạc Văn Cao: "Ra đi không vương thê nhi. Miền nớ ướt nước sướt mướt". Mong mày được cứu sống. Mày là niềm vui của cái thế giới nhỏ xíu ngập ngụa này.
- Định không đánh bom, bắn pháo mà sập hầm hở anh Lý?
- Hầm bị rung chuyển mạnh, mưa lâu càng làm cho đất núng có còn kết dính nữa đâu. Giống như nhà cửa mục nát xâp xệ đến một lúc nào đó là đỏ.
Phía đông nổ một tiếng sét lớn. Sắp mưa chăng? Trời đất ấm đầu quá. Chưa hửng đã muốn mưa ngay lúc đang khẩn trương như thế này. Ở nơi hầm sập, anh em tại chỗ đang xúm vào cùng các "chuyên gia" cứu sập của các đơn vị lân cận cử tới. Họ làm việc không ngơi tay. Xẻng cỡ to được buộc dây bằng ruột tượng đựng gạo vào cán xẻng, hai người ra sức kéo, gạt đất nhão ra khỏi nơi nằm ngủ của các chiến hữu. Đất nhão xúc phè ra chẳng được là bao, làm kiểu này năng suất cao hơn rất nhiều. Bảo Hưng chỉ huy thay Hợi đi họp, anh phối hợp công việc khá nhịp nhàng. Đúng là trong tình huống khó khăn mới bộc lộ rõ "Cờ vào tay ai người ấy phất". Anh luôn động viên nhanh tay thêm một giây là một giây đồng đội xa thần chết. Anh giục anh em chụm các ngón tay xỉa mạnh xuống đất nhão dò tìm, tránh lưỡi xẽng làm tổn thương thân xác đồng đội. Còn nước còn tát, cứu sống được người nào hay người ấy. Đây rồi! Một tiếng reo vui buột ra, phải vội bịt miệng lại. Nhỏ thôi. Đừng reo tướng lên như thế. Đêm âm thanh chìm xuống mắt đất đi xa lắm. Nhỏ nhỏ thôi các đồng chí!
Họ túm chắt lấy đầu chăn kéo ra. Một bàn chân to bè bè thế này chắc là của Phó Cối. Đây rồi, một chân co lên quắp thằng Bách. Mở chăn thì hóa ra là Tuấn "vẩu" ôm úp thìa Bách "còm". Tuấn trần truồng ngược lại Bách mặc quân phục còn mới cứng, rộng thùng thình.
- Làm hô hấp nhanh tay hơn!
- Thay nhau thổi ngạt mạnh vào!
- Dịch ra để tiêm cấp cứu!
Mỗi người một việc rất thạo vì đã cứu sập nhiều lần. Thở rồi! Ai? Tuấn "vẩu"! Sức khỏe cậu ta cực tốt, bừng mở mắt ngồi nhỏm ngay dậy. Chẳng cần vội mặc quần áo, cu cậu ngồi ngẩn ra như nghĩ lại mọi sự việc xảy ra. Đêm tối cần đếch gì, cậu ta quen miệng thường hay đệm từ "đếch". Bách "còm" cũng đã ngọ nguậy ngón tay. Tân binh mới được bổ sung cùng Quyền và Bảo trong tiểu đội của Lý. Em từ từ mở mắt ngỡ ngàng chẳng hiểu gì cả. Riêng chỗ Phó Cối nằm áp vách hầm, đất lấp dày quá chưa đào bới được.
Tuấn "vẩu" từ nơi trực chiến vội về hầm ngủ thấy Bách "còm" đang sốt rét rên hừ hừ. Hai hàm răng em đánh vào nhau cầm cập. Nó vốn đã còm càng còm hơn. Anh đắp thêm chăn cho em. Chăn đơn mỏng chẳng ăn thua gì. Nền đất nằm lạnh ngắt. Thương quá, anh liền bế em xoay người cho em nằm đè trên thân thể mình mong lấy chút hơi ấm cho em đỡ rét. Một lúc em nằm im không còn run bắn người lên nữa. Nhưng người lại nóng ran như hòn than. Tuấn hậc lên khóc: "Không ngờ hai anh em nằm úp thìa ôm nhau mà sống. Ơn anh em bới tôi ra! Bách lại bảo: "Nhờ anh Tuấn mà đất không đè chết em!". Em cười nom rõ hàng răng trắng. Có lẽ trong thời khắc này đó là nụ cười đẹp nhất không có máy ảnh nào chụp lưu lại được.
Một lúc sau mới lấy được Cối ra. Làm đủ mọi cách cấp cứu chẳng ăn thua gì, tuy người Cối vẫn mềm. Mặc quần áo xong, Tuấn ôm lấy Cối lay gọi:
- Đồng hương, tỉnh lại!
Tay anh rờ rờ khắp người Cối. Đột nhiên anh đựng phải vật cứng ở khoảng giữa hai chân. Thấy hiện tượng bất thường, anh thảng thốt kêu:
- Đột quỵ rồi. Cối ơi, cứu làm sao được nữa!
Nước mắt lã chã, anh gục đầu vào ngực Cối: "Mày bỏ Ấm Thượng, bỏ đồi cọ, rừng chè, mít khô đầy chum phòng đói... Tao biết nói với vợ con mày thế nào, Cối ơi!".
Hợi đi nhận lệnh nhiệm vụ mới về thấy Hưng lo toan mọi việc tốt, anh rất mừng. Anh liên tục xem đồng hồ. Trông anh đã bớt đi phần nào căng thẳng. Đúng trước giờ G năm phút theo quy định của trên, anh phổ biến mệnh lệnh của mặt trận: 30 phút nữa hành quân. Yêu cầu không một tiếng động. Mọi đồ vật cọ sát phát ra tiếng kêu phải gói bọc lại. Không một đốm sáng. Ho phải nhét khăn vào miệng. Không để sót một bút tích, một hình ảnh, một vật dụng... Tất cả ngậm tăm theo trinh sát dẫn đường rời khỏi trận địa.
Hàng quân bắt đầu chuyển động bỗng có tiếng ếch kêu ồm ộp. Đúng là con ếch của trung đội trưởng Hợi đã thả trên nóc hầm của Hồng. Lại có tiếng à uôm của con cái đáp lại. Tiếng kêu ồm ộp, à uôm quẩn bước chân những ai đã cùng sống, cùng chiến đấu với Hồng. Hình ảnh mới linh thiêng làm sao trong giây phút chia tay này. Không phải chỉ là tiếng ếch kêu nữa mà lay động trong sâu thẳm dáng đứng hào hùng của những người đã khuất, để thương để nhớ cho những cánh chim trong giông tố phũ phàng mà Út Hồng tiêu biểu.
Đoàn quân đi qua gò Út Hồng. Sau khi Út Hồng hy sinh, đồng đội đã lấy tên em đặt cho tên gò. Hàng ngày trực chiến, đem cơm nước hay ra chỉ lệnh chiến đấu của đơn vị đều nêu danh "gò Út Hồng". Nhận nắm cơm, Lý lại giơ cao hai tay lên trời ứa nước mắt: "Hồng ơi, em ăn trước đi! Giá như ở gần không mắc nước sâu, anh đã có thể đến cứu em!"...Đêm nay cái gò như một chấm nổi dưới ánh trăng khuyết. Cả hàng quân ngả mũ ngước nhìn từ biệt. Trong đầu những người gần gũi chiến đấu bên em còn in sâu dáng Hồng dang cánh chim giương lê từ đỉnh gò bay xuống. Đối với cánh tân binh, được nghe kể lại về Hồng, họ cảm thấy trong lòng có một điểm tựa tự tin. Lúc này đây họ bớt đi sự căng thẳng của hình thái chiến trận, nhưng bất cứ ai đã sống ở chiến trường đều dị ứng với sự quá ư tĩnh lặng. Sự tĩnh lặng như báo trước một cơn giông nào sẽ đến.
Ngôi Thành Cổ lùi dần về phía sau. Những bức tường nhô cao còn rất ít. Vì ít nên trông nó nghênh ngang, lầm lì, coi bom đạn và cả ông trời nữa cũng chỉ bằng vung. Đến vị trí tạm dừng nghỉ chân có chiến sĩ nói những bức tường nhô cao trông giống ông khổng lồ đi cà kheo mặc cho bom đạn nổ dưới chân.
Mây đã kéo kín bầu trời. Theo từng bước chân người lính nghĩ gì? Buồn vui, ngọt đắng xen lẫn. Giống như Bảo Hưng chốc chốc có dịp đứng lại, họ lại ngoái đầu ngắm ngôi Thành Cổ. Dẫu sao cũng là ân nhân mấy chục ngày qua cho chỗ khô ráo sinh hoạt, cho nơi trú ẩn tu bổ lại cơ thể con người. Đêm nằm bằng năm ở, vả lại chia tay với máu thịt mình để đó ai không bịn rịn lưu luyến. Người đâu phải gỗ đá, mà gỗ đá xây thành đứng sừng sững kia cũng đổ mồ hôi cơ mà! Từng đồng đội hy sinh như một cuốn phim quay nhanh lướt qua các vết nhăn của óc. Bảo Hưng định khi qua ven sông nơi chôn cất anh em có lời chào vĩnh biệt, lời cầu nguyện yên giấc cho những linh hồn cảm tử sống mãi với chiến cuộc có một không hai này. Anh đã từng ở trong đội chôn cất, biết rất rõ lúc đi qua nước mắt mình sẽ trào ra nhưng hướng hành quân không qua nghĩa trang tập thể này. Biết bao chuyện khắc vào tâm khảm chàng sinh viên từ "tú cận" đến "tú ngáp", "tú quyền" vì có lúc Hợi vắng mặt, anh được quyền trung đội trưởng. Anh em yêu quý đã tặng cho anh những cái tên nôm na với tấm lòng thân thiết. Khát cháy họng. Bi đông dốc ngược. Nước mênh mông mà khát. Chất văn hóa làm cho anh sợ không dám như Hợi uống ừng ực cái thứ nước tởm lợm này. Ôi chao, lúc ấy mong mưa làm sao! Chỉ cần mưa ào qua thôi để ngửa cổ há miệng lên trời mà hứng lấy vài giọt liếm lưỡi. Ào qua thôi mưa ơi! Đừng dai dẳng để ta phải tát nước mới có chỗ đặt lưng. Cơm và đến cửa miệng, một tiếng nổ rung đất, bùn rơi đầy bát. Bụng đói đành phải vội gạt bỏ phía trên, ăn tiếp ngon lành. Trèo lên xe tăng địch chập hai quả thủ pháo cho chắc ăn, ngờ đâu cả hai đều tậm tịt ướt không nổ. Tiếc ơi là tiếc! Lại như Út Hồng trận đầu đã dám giương lê xung phong đuổi địch khỏi trận địa. Rắn chạy nước vào hầm ngủ, Hồng quấn chăn kêu ầm ĩ. Địch to cao trang bị hiện đại đến tận chân răng không sợ lại sợ rắn. Đến giờ phút chia tay với Thành Cổ lại thêm Phó Cối một đi không trở lại với vợ và hai con nếp tẻ đầy đủ.
Lúc ấy Hợi đang lo lắng về việc đã nhận lệnh rút quân nhưng giờ G mới được phổ biến, tuyệt đối không được có một cử chỉ nào làm náo động lòng chiến sĩ. Nghĩ mình còn thế này, anh em dẫu chỉ để lại Thành Cổ một đốt ngón tay, một chỏm tóc bị mảnh pháo phạt đứt, chắc sâu nặng biết bao kỷ niệm. Hơn ba mươi ngày sống chết cùng Thành Cổ, binh đoàn bạn còn cầm cự những tám chục ngày, cân đong làm sao được tình cảm, tâm tư... Trận địa mà đơn vị bạn mất bao công phu đào đắp cả một hệ thống phòng ngự liên hoàn. Cứ như cán bộ kể thời ở Điện Biên đào hào lấn địch từng thước đất, phải đào ngắt quãng rồi dần dần nối liền lại. Đêm mình đào, ngày địch cho xe ủi lấp đi. Chà, ở đây cũng có khác gì! Đào xong nước lũ ấp tới trơ ra một ngôi thành cho bom đạn nó xỉa xói. Lũy tương thành cao to, rắn chắc, bề thế. Bổ cuốc chim vào sái tay mới khoét được một hố chui, nống dần ra thành bao nhiêu thứ hầm. Anh em đùa nhau ở đây có giống tê tê người thích ăn sâu vào lòng đất. Hình như Thành Cổ còn sót một cổng thành vỡ lở đứng làm chứng tích của cha ông xây dựng và máu xương của con cháu ngày nay bảo vệ. Vật đổi sao dời, trăm năm mưa to gió lớn cổ thành vẫn đứng trơ ra cùng thời gian, lần này văn minh Mỹ đem đạn tạ bom tấn cho Thành Cổ, cho sứ xở này đây.
Mảng đậm nhất trong Hưng, cắm sâu trong tâm thức anh là ngâm mình trong nước với bao nhiêu nỗi cơ cực dầm dề, đầy ải từng giây ngược với quy luật sống. Nghe Hợi kể chiến dịch trước ở Cánh Đồng Chum kéo dài gần một năm, bóc hết vỏ ngoài đến vỏ trong của địch, rồi vây lấn, tấn công tiêu diệt các cụm cứ điểm quân Thái Lan ở Phu Theng Neng, Phu Tôn, cũng gian nan lắm mà sao sướng. Sao tâm hồn lâng lâng? Còn ở Thành Cổ này không khí sao bốc khí thế lên được. Một bồ thắc mắc vẫn để đấy chưa được giải đáp. Một buổi trực cảnh giới đêm, trung đội trưởng Hợi tâm sự riêng với Hưng: Chúng mình anh hùng bĩ cực giống như "Quan Công thất thủ Hạ Bì thành" trong truyện Tam Quốc của Tầu.
Đi. Tạm dừng. Đi tiếp. Ba lô cóc to bè toàn đồ sũng nước vắt kiệt chen vào với vài thứ khô cũng thành ẩm ướt. Bao gạo vắt vòng quanh cổ đè lên ba lô. Băng đạn úp trước ngực cùng khẩu tiểu liên đeo chéo ngang qua. Hai bên hông, giắt cài đủ thứ, từ viên thuốc chữa bệnh cho đến dao găm, lựu đạn. Mông đỡ cuốc, xẻng, bi đông nước. Bao bi đông bằng vải bạt ướt gặp vỏ nhôm đựng nước nóng bốc hơi ngùn ngụt như khói, dần dần làm chín bầm một bên hông, đánh dấu cho những ai đã dự trận thủy chiến có một không hai này. Mỗi phân thịt xương đều phải chia ra cõng một thứ. Lúc hành quân vào trận trang bị nặng hơn vẫn đi phăm phăm. Giờ đi ra sức oải mới thấy nặng. Nặng ngay cả với xương thịt cơ thể mình. Bức bối quá! Mây đen sao không mưa đi? Cần mưa cho mát một chút thì nhà ngươi lại tảng lờ. Đã thế con cái ghẻ đáng ghét lại nhè vào lúc này mà đòi gãi. Ngứa ngáy khắp nơi. Chỗ kín càng rấm rứt. Chỉ muốn ngồi thụp xuống mà gãi, mà cào cấu cho đã cơn ngứa.
Đã qua vùng địch kiềm tỏa. Lệnh nghỉ 20 phút ăn cơm. Được râm ran nói chuyện. Được gãi ghẻ chớt da xước thịt. Gãi bằng sướng chỗ của quý. Sướng hơn cả ăn cơm nắm với thịt kho thơm phức.
- Bách, em mới ốm dậy chưa lại sức. Đưa anh bao gạo mang đỡ một quãng!
- Cố được, mặc em!
Tiếp tục hành quân. Nghe loáng thoáng về gần Tích Tương - Như Lệ. Lý "tồ" giả vờ nâng giúp bao gạo lên vai Bách "còm", rất nhanh anh vắt lên vai mình chạy vội lên đầu hàng quân. Tuấn "vẩu" cũng vồ lấy ba lô... Bằng giúp đỡ thiết thực, mọi người động viên nhau về nơi trú quân.
- Chính xác hôm nay là ngày mấy, anh Hợi?
- Lệnh rời trận địa 0 giờ 30 phút ngày 16 tháng 9 năm 1972. Hỏi làm gì?
- Rằm tháng tám giỗ mẹ em - Lý "tồ" trả lời giọng hơi buồn - Trăng khuyết về sáng thế kia chắc qua rồi.
- Gia đình mình cũng hoàn cảnh lắm. Có dịp sẽ kể cho Lý nghe. Lý à, dân tộc Tày cũng ăn tết trung thu à?
- Ăn chứ! Làm bánh bỏng mật, nấu kẹo bột gừng. Nhà khá giả giã cốm. Mẹ mất đúng ngày trung thu quên sao được. Từ đó chẳng biết trông trăng bầy cỗ là gì nữa. Đời mình vất vả lắm. Suốt ngày phơi lưng trên nương rẫy, kiếm cá suối, leo vách đá bắt dơi trong hang. Có con to bằng cái đĩa về làm thịt... Lại còn bị mế hai hành hạ. Bố thương chỉ ngoảnh mặt nhìn núi, ngó rừng cho qua.
Sợ chạm nỗi đau của Lý, Hợi đánh lảng:
- Đời lính như chim bay. Lý ơi, cậu lùi lại xem Bách có theo kịp hàng quân không?
Anh xốc quai ba lô, dịch chỗ đeo bao gạo cho máu lưu thông xuống cánh tay đang tê dại ê ẩm. Miệng anh lẩm nhẩm hai câu thơ trên tờ bướm gấp như một chiếc thuyền con nổi trôi theo dòng nước giao thông hào mà anh cho là của Phó Cối gửi cho anh lúc chiến tuyến tạm yên tiếng súng.
"Đường ta đi không đo bằng cây số
Không đếm thời gian, không tính nỗi đau"
Cối ơi, bây giờ anh đã xuống thuyền qua sông nhẹ nhõm một cõi đi về. Hợi này còn sống thế nào cũng đến thăm hai cháu, nhất định sẽ để lên bàn thờ những thơ ca của anh đã sưu tập được trong đồng đội mà Hợi đã ghi trong nhật ký. Chiến hào Thành Cổ đã để lại trong chúng ta những ký ức không thể quên.
Mấy ngày sau nghe tin bọn lữ thủy quân lục chiến 147 thay thế lữ 258 có sự hỗ trợ tăng cường của sư đoàn dù đánh vào trận địa Thành Cổ. Chúng chửi nhau: "Mẹ kiếp, cái thành rỗng! Chúng nó tàng hình, độn thổ đâu cả!".