II. LỄ XƯỚNG DANH
KHOA thi Hương đinh-dậu… được êm-đềm xong suốt. Dằng-dai mãi những bốn-mươi ngày, các quan trường chấm xong, mới khai lễ xướng danh các thí-sinh trúng tuyển. Lễ ấy cũng có quan Toàn-quyền Doumer đến chứng-kiến. Ở giữa hai hàng lính mặc áo dấu, cầm cờ ngũ sắc, các quan chủ-khảo uy-nghi đi vào trường thi. Phía tiền-đội, có quân khiêng kiệu sơn son thếp vàng, che lọng vàng, đựng hòm ấn-kiếm vua ban. Rồi đến toán nhạc binh, áo mã tiên, đội mũ phụng, đàn thổi những bản nhạc rền-rĩ, eo-éc, yếu-đuối. Kẻ ngồi kiệu, người nằm võng, có ông chuộng mới, dùng xe tay, thùng cao khấp-khểnh ; kềnh-càng, lôi thôi như thế, các quan trường vào đến chỗ trung-ương ; rồi, run-sợ trong chiếc hia quá rộng, các ông vụng-về leo lên những chòi cao ngất, mỗi chòi đều che một chiếc. lọng xanh. Lúc bấy giờ người ta mới kêu tên các học-trò đỗ cử-nhân. Một viên hạ quan cầm loa lớn, gọi tên-tuổi và làng-tổng người trúng tuyển. Các ông tân-khoa sẽ rẽ trong đám mấy vạn người xao-xuyến, khép-nép họp lại một chỗ với quan-trường, và nhận ngay ở đấy mỗi người một bộ y-phục, biểu-hiệu cho cái chức mới: mũ vuông kết giải dài sau ót, xiêm dạ tím, áo lục viền tơ đen. Các quan đội mũ cánh chuồn đính bướm bạc lập-lòe, mặc áo cánh-diều thêu phụng, đủ các sắc, ngồi cao trên chòi, bệ-vệ, oai-phong, trầm-tĩnh, đợi các sĩ-phu lạy tạ ơn. Quan Toàn-quyền và Doumer phu-nhân bèn mở một hộp bọc nhung, đã mang theo, thân hành bắt tay các ông cử mới và đưa tặng mỗi người một vật đựng trong: thì ra toàn những chiếc đồng-hồ quả quít bằng vàng có, bằng bạc có, mà các ngài đã sắm sẵn để thưởng mừng mấy vị tân-khoa.
Bấy giờ, còn một vạn mấy trò, phận hẩm duyên ôi – khoa ấy chỉ lấy có 50 cử-nhân và 250 tú-tài – đành phải nuốt nước giãi, đứng trông các bạn mình vui-sướng. Lúc ấy người ta nghe thấy ngâm:
« Một đàn thằng hỏng đứng mà trông,
Nó đỗ khoa này có sướng không? »
Những người đứng chung-quanh đều cười rầm cả lên. Nhìn lại mới biết là tên học-trò ở Vị-xuyên đã nói trước kia ; anh này khoa trước (giáp-ngọ, Thành-thái thứ 6, 1894) đỗ tú-tài, mà khoa này vẫn cứ hỏng cử-nhân.
Hỏng, nhưng để cho đỡ buồn, để tự dối mình chơi, ông vẫn nhận liều là đỗ, tuy chỉ phải đỗ thứ 51 trong khi người ta chỉ lấy có 50:
« Ông trông trên bảng thấy tên ông ;
Ông tớp rượu vào, ông nói ngông.
Trên bảng năm mươi thầy cử đội,
Bốn kỳ mười bảy cái ưu-thông! » 1
Thế rồi ở dưới sức ảm-ảnh của trí tưởng-tượng, có hơi men vào kích-thích thêm hăng, ông tự thấy mình đang nếm mùi sung-sướng của ông cử tân-khoa chính-thức:
« Xướng danh tên gọi trên mình tượng,
Ăn yến xem ra có thịt công.
Cụ Sứ có cô con-gái đẹp,
Lăm-le xui bố cưới làm chồng! »
Nhưng một khi hơi men đã tản-mác, ông trở về với sự thực, thì ông lại càng thất-vọng buồn-rầu chừng nấy:
« Bụng buồn còn muốn nói-năng chi,
Đệ-nhất buồn là cái hỏng thi! »
Ông mới biết rằng việc thi-cử không phải là việc dễ-đàng như ngâm-thơ hay uống rượu ngoài quán:
« Học đã sôi cơm nhưng chửa chín!
Thi không ngậm ớt thế mà cay ».
Nhưng dù có đau-đớn tức-tối đến đâu, cho dẫu có:
« Đau quá đòn thù, rát hơn lửa bỏng,
Tủi bút tủi nghiên, hổ lều hổ chõng.
Nghĩ đến câu: nam-nhi đắc chí thêm nỗi thẹn-thùng,
Ngâm đến chữ: quyền thổ trùng lai, nói ra ngập-ngọng… »
Đối với anh thí-sinh, câu học tài thi phận bao giờ cũng là một câu an-ủi rất có hiệu-quả. Lòng tự-ái thế nào cũng tìm ra được một cớ để khỏi phải tủi thầm.
Cái quan-niệm rủi may ấy, sở-dĩ có, chỉ vì ai đã theo nghề học-hành, đều tự-phụ mình là giỏi cả. Tuy rằng khiêm-tốn là tính thứ nhất cần có của nhà nho, riêng mỗi tay văn-nhân đều mang một mối tự cao tự đại. Ngoài miệng họ thường vẫn nhún rằng: « Sờ bụng thầy không một chữ gì ».
Hay là: « Ý hẳn thầy vừa gàn vừa dở, vả lại thầy văn dốt võ dát, cho nên thầy luẩn-quẩn loanh-quanh… »
Hoặc là:
« Có năm ba chữ nhồi trong ruột,
Khéo khéo không mà nói lại rơi ».
Nhưng thật ra xưa nay chưa một người nào dám thành-thực thú nhận rằng vì dốt mà hỏng thi. Thế nào cũng chỉ đổ tội cho số-phận:
« Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn-bà con-trẻ nói thế mà thiêng ; Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng-nhãn thám-hoa lỡ ra cũng hỏng ».
Nhờ thế mà mối hy-vọng, một chốc bị lung-lay, lại thấy vững-vàng như trước. Nhà thi-sĩ còn biết cách tìm ra một câu hài-hước lấy đó vẫn tự đắc như thường:
« …Thôi thì thôi,
Khoa trước đã chầy, khoa sau ắt chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dụng hiền ;
Hay không ai dạy-dỗ đàn em, trời còn bắt hỏng? »
Thế là trên con đường về, người ta lại thấy anh học-trò Vị-xuyên của tôi thung-dung yên-trại bước đi, vô tư, điềm-tĩnh, chỉ nghĩ đến một cuộc chơi ngông nào sắp thi-hành nay mai ở phố hàng Thao là chỗ anh ta cùng bạn-bè tụ-họp.