III. TÚ XƯƠNG VỚI SÀO NAM
PHỐ hàng Thao hồi ấy là phố đông-đúc nhất, vui-vẻ nhất ở Nam-thành, vì bao nhiêu nhà buôn to, buôn nhỏ, quán rượu, cao lâu đều lập ở đó. Nhưng hàng Thao nổi tiếng là nhờ các nhà ả-đào, ở đấy thường hay tụ-họp các quan-lại, các thiếu-niên văn-sĩ thi-gia, để nghe hát và đập chầu.
Thượng tuần tháng chín năm ấy (đinh-đậu 1897) bạn văn-nhân ở Nam-thành, nhân ngày lễ trùng-cửu, nhóm nhau tại nhà cô đào, chơi nhởn suốt ngày. Họ chia nhau làm ba toán. Một toán, trọng-vọng nghiêm-trang, đóng đô ngay ở căn giữa, đánh tổ tôm. Một toán ở căn bên hữu, cùng ngồi với hai ả mày xanh, mải say-sưa nghe một bài nhà trò hát theo điệu đèn và nhịp trống. Còn một toán, gồm những văn-sĩ thi-hào chân-chính, hay ít ra cũng là bọn sinh chữ mê văn, choán cả căn bên tả, đương nhắm rượu, nói chuyện phiếm, hoặc ngâm vịnh thi bài. Trong số đó người ta dòm thấy các ông huấn Mỹ-lộc, Cử Thăng, Tú Tây-hồ, một vài ông đồ làng Hành-thiện và một người mà ta gọi là « ông Tú Vị-xuyên ». Ông này chính là anh học-trò hay ngâm thơ ở giữa trường thi đấy. Câu chuyện hàn-huyên-thiên, rốt cục không khỏi lộn lại việc thi-cử khoa vừa rồi: một dịp tốt cho nhà thi-sĩ Vị-xuyên tỏ tính ngạo-đời khinh người của mình.
Vị-xuyên là một chàng thiếu-niên chừng 27-28 tuổi trở lại, mắt sáng như sao, râu rậm như chồi! Thơ của ông ứng khẩu rất mau, tự-nhiên chứa-chan một giọng trào-phúng thâm-thúy, nên ai nghe cũng chóng thuộc lòng. Lời ăn tiếng nói lại rất-có duyên ; hình như ông có một cái năng-lực huyền-bí trong khoa ngôn-ngữ làm cho ai nấy cũng ưa nghe.
Để tỏ ra mình sáng trí hơn người, mỗi ông ngâm-đi ngâm lại những bài ông tú vừa đọc, trong khi ông này ghé qua phòng bên kia bỡn với một cô đào hay vẽ một nước bài cao cho một ông bạn ở bộ ngựa giữa. Trong các thơ về khoa thi ông đã đọc hôm ấy, đại khái có những bài chế-diễu như những bài này: 2
« Hai đứa tranh cái nhau thủ-khoa
Đứa khoe văn hoạt đứa văn già,
Năm nay đỗ rặt phường hay chữ.
Kìa bác Lê kia cũng thứ ba!
Cử-nhân cậu Ẩm Kỷ,
Tú-tài con Đô Mỹ,
Học thế, thế mà thi,
Ôi, khỉ ôi là khỉ!
Sơ khảo khoa này bác cử Nhu,
Thật là vừa dốt lại vừa ngu.
Văn-chương nào phải là đơn thuốc!
Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu! »
Lúc bấy giờ trời đã gần tối. Bỗng có tiếng động ngoài ngõ một lúc, rồi hai người đàn-ông, kẻ trước người sau đi vào.
Người đi trước nét mặt tươi-cười, chào tất cả cử tọa: thì ra một ông bạn quen xưa nay: ông Đặng tử Mẫn người làng Hành-thiện. Còn khách đi sau, hẳn là lạ mặt, chưa ai từng thấy bao giờ. Vả xem cách ăn-vận đủ biết người ở đàng trong: áo vải nâu, nón lá, vành dày và thô, to nặng lắm. Người cao lớn dũng-mãnh, trán rộng, hai mắt sáng quắc không kém gì mắt ông tú Vị-xuyên đang ngồi đấy. Một quai râu, lún-phún đen xanh, chạy từ mái tóc này qua giáp mái kia, làm cho mặt bớt phần to lớn. Giọng nói khi chào cử-tọa, ồ-rồ, chang-chảng, và khi cười, tiếng reo, trong và cao như tiếng sắt khua.
Người ta mời ngồi nói chuyện, Khách tỏ ra một bậc túc-nho, học-lực uyên-thâm, thông suốt kim-cổ, lại « bình-sinh có chí lớn-lao, như muốn lật bể dời non » 3 gì kia. Bọn văn-nhân giữa tiệc, ai nấy đều tấm tắc khen thầm, trong buổi sơ ngộ, đã có ý hâm-mộ con người tài-khí.
Nhưng đến khi nghe khách thú nhận mình là một tên học-trò can án hoài-hiệp văn-tự, suốt đời không được thi-cử, thì cử-tọa đều giật nẩy mình, lấy làm lạ. Khách bèn thong-thả kể qua câu chuyện của mình.
Ấy là câu chuyện của một anh học-trò tài học siêu-quần, có tính ngạo-mạn bất-kỵ, đã đỗ đầu xứ nhiều phen, đến khi thi Hương không thèm mang lều-trại gì cả, cho là không phải những cái vật ấy nó làm nên một bậc đại-khoa. Khi vào trường, nạn quá, anh em phải chạy kiếm cho một cái lều, rủi trong ấy một anh dốt nào đã giấu những sách-vở cũ. Lính khám-phá ra được, trình lên quan. Quan-trường hiểu ngay sự rủi-ro oan-tình ấy, vì đã biết danh anh đầu xứ nhưng anh này lại lên mặt không cần: các quan tức, làm thành án hoài-hiệp, chung thân bất đắc ứng thí. Buồn tình anh ta về, đi ngao-du khắp xứ, vừa tới Nam-định và gặp các văn-nhân…
Câu chuyện ấy khách kể bằng một giọng sang-sảng, giữa những trận cười nghe như tiếng thác chảy.
Nãy giờ, khách chưa hề uống. Chén rượu rót lâu vẫn còn đầy ngang miệng. Có người nhắc, mời khách, khách nói: « Tôi vẫn khát thật, nhưng không muốn uống rượu. Vả rượu là uống để cho say, mà tôi uống lại không say… Các ông cho nước thì hơn ».
Cử-tọa nhìn nhau, giật mình nghe câu nói bóng-bảy ấy.
Ông Vị-xuyên vội-vã xuống phản, lại gần khách, vỗ vai mà nói: « Tôi đã hiểu thấu mối ẩn-tình không tiện nói của ông. Nếu có rảnh, xin mời ông quá bộ đến nhà tôi, cũng ở gần đây, chúng ta sẽ cùng nhau đàm-đạo ».
- Cảm ơn ông. Nếu không bận việc, tôi theo ông ngay, cho khỏi phụ tình sốt-sắng. Ngặt vì tôi mãi tìm một người mà chưa gặp, một người tôi mới nghe danh, chớ chưa hề thấy mặt bao giờ.
- Tôi ở đây quen biết rộng lắm. Người nào, ông cứ nói, tôi xin chỉ chỗ hay đem đến tận nhà.
- Ông Tú Xương…
- Trần tế Xương, người Vị-xuyên?
- Vâng!
- Tưởng ai xa lạ! Tú Xương là tôi đây! Còn ông?
- Tôi họ Phan, tên Bội Châu, biệt-hiệu Sào Nam.
Nhà anh-hùng và nhà thi-sĩ còn gặp nhau một bận thứ hai, cách năm năm sau khi ông Phan Bội Châu đã đậu giải-nguyên trường Nghệ. 4
Gặp nhau ở nhà ông Tú Xương và ở phố hàng Thao như trước. Ông thủ-khoa nói lên Hà xem hội chợ và lễ khánh-thành cầu Doumer vừa mới làm xong. Lúc ấy vào khoảng tháng giêng năm nhâm-dần (tháng 2-1902)…
Nhà làm thi nhìn cái hình cao, vai rộng của kẻ chí-sĩ phiêu-lưu, mỗi bước một lờ mờ trong đám mù buổi tối, nhìn người bạn thân-giao vì chút duyên văn-tự đưa đến, rồi ràng-buộc lấy nhau, người bạn khuynh-hướng tuy khác hẳn với mình, nhưng vẫn nhận là tri âm, chỉ thiết, nhìn lần chót trong đời ông, rồi thốt nhiên ông buông một tiếng thở dài! Ai biết ở trong hơi thở ấy, ẩn những ý-tình chi?
Cách ba năm sau nữa, ông Đặng tử Mẫn xuất dương, qua đến Quảng-đông vừa gặp ông Phan Bội Châu ở đấy.
- « Tử Mẫn đem cho ta vật gì của nước ta đó? » Ông Phan hỏi.
Ông Đặng đáp: « Một vật báu vô song: một bài thơ thăm của ông Tú Xương ».
- Ở đâu, đưa xem!
- Ở đây!
Ông Đặng lật áo lên, vỗ bành-bạch vào bụng: Thì ra bài thơ ấy là những lời nhắn gửi, chẳng phải thư-từ bút-tích gì.
(Ta phải hiểu rằng hồi xưa, cách đây không lâu, và hiện bây giờ cũng vẫn còn, người Nam ta, học theo người Tàu, có cái quan-niệm rằng những cảm-giác chính do não-cân phát ra là ở trong bụng ta cả, nên ông Đặng mới có cái điệu-bộ sai-lầm ấy).
Ông Phan bảo đọc lên nghe. Ông Đặng bèn ngâm bài thơ này:
« Mấy năm vượt bể lại trèo non,
Em hỏi thăm qua bác hãy còn.
Mái tóc giáp-thìn đà nhuộm tuyết,
Điểm đầu canh-tí chửa phai son. 5
Vá trời gặp hội mây năm vẻ,
Lấp bể ra công đất một hòn.
Có phải như ai mà chẳng chết,
Giang tay chống vững một càn-khôn! »
Ông Đặng lại bảo còn một bài nữa, cũng của ông Tú Xương, nhưng không cốt gửi cho ông Phan (Xem chú thích 6-ở cuối sách) nhân khi nhớ bạn xa-xăm, ông ngâm cho đỡ buồn, nên không bắt ông Đặng học thuộc.
Nghe xong thơ, Sào Nam đứng dậy, hai mắt thường sáng quắc bỗng trở nên lim-dim, mơ-màng một lúc, như vời trông non nước yêu xa, rồi quay lại bảo ông Đặng rằng: « Tử Mẫn có hiểu chăng mối đau lòng của người được tri-kỷ nhắn-nhe mà không thể đáp tạ lòng tri-kỷ… »
Rồi hai người đồng trông về phương Nam, bùi-ngùi yên-lặng.