← Quay lại trang sách

- 2 - TUỔI TRẺ CỦA LÝ THÁNH TÔNG HOÀNG ĐẾ

Triều Lý tồn tại trước sau tổng cộng 215 năm (1010 -1225) với 9 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Trong số 9 đời Hoàng đế này. Lý Thánh Tông (1054 -1072) là người có tên tuổi thuộc hàng nổi bật nhất.

Bộ Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 3, tờ 1 - a) cho biết, Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, con trưởng của Lý Thái Tông và Kim Thiên Thái hậu. Một hôm, bà nằm mơ, thấy Mặt Trăng bay vào bụng, thế rồi mang thai, đến ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi, niên hiệu Thuận Thiên thứ 14 (tức là năm 1023) thì mãn nguyệt khai hoa. Lý Nhật Tôn chào đời ở cung Long Đức, từ tấm bé đã có dáng vẻ khôi ngô tuấn tú hơn người.

Năm Thiên Thành thứ nhất (tức là năm 1028), khi thân sinh được lên nối ngôi chí tôn (đó là Lý Thái Tông Hoàng đế) thì Lý Nhật Tôn cũng được phong làm Đông Cung Thái tử. Khi ấy, Lý Nhật Tông chỉ mới năm tuổi.

Bấy giờ, Thái tử có cung thất riêng. Cung thất của Thái tử thường xây cất ở phía Đông của đại điện, cho nên, gọi là Đông Cung. Từ khi ra Đông Cung, Thái tử phải bắt đầu một quá trình học tập và rèn luyện rất căng thẳng. Tại đây, một loạt những người hiền tài được Hoàng đế đích thân chọn lựa để lo việc giảng dạy cho Thái tử. Thái tử không chỉ học văn; chương, nghi lễ, phép trị nước,... mà còn học cả võ nghệ, binh pháp,...

Hẳn nhiên, vấn đề không phải là học cái gì mà quan trọng hơn vẫn là học như thế nào. Sử cũ đã viết những lời đầy thán phục về sức học của Thái tử Lý Nhật Tôn. Hơn mười tuổi, hiểu biết của Thái tử Lý Nhật Tôn về Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đã rất sâu sắc. Hai mươi tuổi, Thái tử Lý Nhật Tôn đã đủ năng lực để trực tiếp chỉ huy cả một đạo quân lớn.

Ngày mồng 1 tháng 3 năm Quý Mùi (1043), Thái tử Lý Nhật Tôn được trao chức Đô Thống Đại Nguyên Soái, cầm quân đi đánh dẹp vùng Ái Châu (nay thuộc tĩnh Thanh Hoá) và Thái tử Lý Nhật Tôn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan trọng này.

Từ năm hai mươi mốt tuổi trở đi, Thái tử Lý Nhật Tôn bắt đầu được tập sự điều khiển hoạt động triều đình. Nhiều vấn đề quan trọng của quốc gia được Lý Thái Tông Hoàng đế tin cậy giao cho Thái tử Lý Nhật Tôn vạch kế hoạch giải quyết hoặc trực tiếp giải quyết.

Đầu năm Giáp Thân (1044), Lý Thái Tông Hoàng đế cầm quân đi đánh Chiêm Thành, Thái tử Lý Nhật Tôn được trao quyền Lưu Thủ Kinh Sư (tức là trông coi mọi hoạt động của kinh thành Thăng Long). Năm ấy, Thái tử Lý nhật Tôn chỉ mới hai mươi mốt tuổi. Vị Lưu Thủ Kinh Sư trẻ tuổi này đã tỏ rõ năng lực điều hành rất đặc biệt, khiến cho bá quan vãn võ lớn nhỏ đều răm rắp tuân theo.

Theo truyền thuyết dân gian và một vài tài liệu dã sử, thì vào năm Kỷ Sửu (1049), Lý Thái Tông Hoàng đế quyết định cho xây chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột) ở ngay kinh thành Thăng Long. Và, người trực tiếp chỉ huy việc xây cất này cũng chính là Thái tử Lý Nhật Tôn. Tuy chỉ có quy mô rất nhỏ, nhưng chùa Một Cột là một công trình kiến trúc vô cùng độc đáo. Gần một ngàn năm qua, chùa Một Cột được coi là biểu tượng của trái tim cả nước.

Ngày mồng 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), sau khi Lý Thái Tông Hoàng đế qua đời, Thái tử Lý Nhật Tôn được tôn lên ngôi báu, đó là Lý Thánh Tông Hoàng đế. Năm ấy, Lý Thánh rông Hoàng đế đã quyết định đổi quốc hiệu của nước ta. Trước đó, quốc hiệu của nước ta là Đại Cồ Việt (do Đinh Tiên Hoàng đặt từ năm 968) đến đây, đổi là Đại Việt.

Thời trị vì của Lý Thánh Tông Hoàng đế cũng chính là thời nhà Tống (Trung Quốc) ráo riết chuẩn bị vạch kế hoạch tấn công xâm lược nước ta. Về mặt ngoại giao, quân xâm lăng đã sai sứ giả đi khắp các lân bang của ta, xúi giục họ phối hợp với nhà Tống quấy phá ra bằng nhiều hình thức khác nhau. Bấy giờ, Chiêm Thành là nước đã dại dột nghe theo lời xúi giục ấy. Để có thể vững tâm đối phó ở mặt Bắc, Lý Thánh Tông Hoàng đế đã tự mình cầm quân, thân chinh đến Chiêm Thành vào năm 1069. Và, với cuộc tấn công này, Lý Thánh Tông Hoàng đế chẳng những đã trừng trị đích đáng những hành vì sai trái của Chiêm Thành, mà còn đập tan một mảng quan trọng trong toàn bộ kế hoạch xâm lăng của nhà Tống.

Vừa từ Chiêm Thành trở về, Lý Thánh Tông Hoàng đế đã khấn trương bắt tay vào công cuộc chuẩn bị đón đánh quân Tống, nếu chúng dám liều lĩnh tràn sang nước ta. Một kế hoạch có quy mô lớn, trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đã được Lý Thánh Tông Hoàng đế hoạch định. Và, lịch sử đã xác nhận rằng, những dự kiến chung của Lý Thánh Tông Hoàng đế về diễn biến phức tạp của tình hình chính trị đương thời là hoàn toàn đúng đắn. Thắng lợi trọn vẹn và vang dội của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân Tống xâm lăng ở nửa sau thế kỉ XI, gắn liền với tầm nhìn chiến lược sâu sắc và biện pháp chuẩn bị đối phó rất hữu hiệu của Lý Thánh Tông Hoàng đế.

Cũng ngay sau khi vừa từ Chiêm Thành trở về, tuy rất bận rộn với vô số những công việc lớn nhỏ của quốc gia, Lý Thánh Tông Hoàng đế vẫn không quên chăm lo đến sự phát triến của văn hoá nước nhà. Chính Lý Thánh Tông Hoàng đế đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng Văn Miếu ở ngay giữa kinh thành Thăng Long vào năm 1070. Đây là một sự kiện rất quan trọng, đánh dấu bước tiến mới của quá trình truyền bá Nho giáo ở nước ta

Tháng giêng năm Nhâm Tý (1072) Lý Thánh Tông Hoàng đế qua đời, hưởng thọ 49 tuổi. Một cuộc đời chỉ có 49 tuổi xuân, nhưng Lý Thánh Tông Hoàng đế đã có đến hơn một chục năm nắm giữ trọng trách của quốc gia và gần hai mươi năm ở ngôi chí tôn của đất nước. Thời Lý Thánh Tông Hoàng đế là thời huy hoàng của Đại Việt, thời để lại niềm kiêu hãnh cho hậu thế chúng ta. Để có thể đưa giang sơn bước từng bước, vững chắc lên đỉnh cao vinh quang, Lý Thánh Tông Hoàng đế đã phải khổ công rèn luyện và học tập suốt mấy chục năm trời. Tuổi trẻ của Lý Thánh Tông Hoàng đế, kính thay! 

NGỌC HOA CÔNG CHÚA - NỮ ĐIỆP VIÊN TRẺ TUỔI XUẤT SẮC THỜI LÝ

Thực ra, Ngọc Hoa Công chúa lại không phải là... Công chúa. Bà tên thật là Trần Thị Ngọc Tường, con gái của một nhà nho tên là Trần Huấn. Thần tích ở đền thờ bà tại thôn Tư, xã Nam Giang, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà (cũ) chép rằng...

Thời trị vì của vua Lý Nhân Tông (1072 -1127), ở đất Phúc Lâm của Ái Châu (nay thuộc Thanh Hoá), có nhà nho trẻ, tên là Trần Huấn. Để mưu sinh, Trần Huấn đã ra tận kinh thành Thăng Long mở trường dạy học và tại đấy, ông đã kết duyên với một một người con gái làm nghề buôn bán ở chợ Đại Yên, vừa nổi tiếng là xinh đẹp và đoan trang lại nết na và thật thà hiếm thấy. Chuyện kể rằng: Có một lần nọ, dọc đường từ chợ về nhà, vợ của Trần Huấn nhặt được một túi lớn, trong đó chứa đầy lụa là và châu báu. Dầu bấy giờ gia cảnh cũng chẳng khá giả gì, bà vẫn quyết tìm cho bằng được chủ nhân túi của cải kia mà trả lại, không một chút tơ hào, tham lam. Thế rồi vào một đêm, bà nằm mơ thấy Tiên ông vào nhà mình, trao cho một viên ngọc rất đẹp và ân cần nói:

-Vợ chồng ngươi khéo tu nhân tích đức, tiếng tốt vang xa, cho nên, Trời đã sai Ngọc Nữ xuống đầu thai vào nhà ngươi.

Tiên ông nói xong thì biến mất. Bà thấy cơ thể ngày một khác. Đến mồng tám tháng hai năm Giáp Tuất (1094), bà sinh hạ một cô con gái. Khi ấy, nhân có điềm được Tiên ông ban cho viên ngọc quý trong mộng, hai ông bà quyết định đặt tên cho con gái mình là Ngọc Tường.

Năm 1103, có người tên là Lý Giác nổi binh gây hấn ở Diễn Châu (nay thuộc Nghệ An), bị vua Lý Nhân Tông đánh và chống đỡ không nổi, bèn chạy vào cầu cứu Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành lúc ấy là Chế-ma-ma liền nhân cớ ấy, cho quân tràn ra cướp phá, lại còn có ý đòi lại ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính mà vua trước của Chiêm Thành là Chế Củ đã cắt dâng cho ta vào năm 1069.

Trước tình hình đó, vua Lý Nhân Tông lại sai lão tướng Lý Thường Kiệt đem đại binh đi Nam chinh một lần nữa. Khá đông lính mới được tuyển thêm, trong đó có cả nhà nho Trần Huấn. Khi cùng mẹ tiễn cha ra trận, bỗng dưng, Ngọc Tường nắm chặt áo cha, nhất quyết đòi theo cha đi đánh giặc, ai khuyên bảo thế nào cũng chẳng chịu nghe. Chuyện đến tai chủ soái, Lý Thường Kiệt đành chấp nhận cho Ngọc Tường đi theo, dẫu chưa biết sẽ dùng người con gái chưa đầy mười tuổi này vào việc gì.

Đến sát biên giới phía Nam, Lý Thường Kiệt cho quân dừng lại và sai lính do thám bí mật luồn sâu vào lãnh thổ Chiêm Thành để điều tra về kế hoạch bố phòng và các vị trí đóng quân của chúng. Nhưng, dẫu đã rất cố gắng, lính do thám của Lý Thường Kiệt vẫn không sao có thể vượt qua hàng rào kiểm soát nghiêm ngặt của quân Chiêm Thành. Đúng lúc đang lúng túng ấy, Ngọc Tường xuất hiện và xin được đóng vai một cô bé buôn trầu cau, quẩy gánh trầu cau đi thẳng vào dinh trại giặc. Cái dáng loắt choắt, cộng với tiếng rao lảnh lót có vẻ rất rành nghề bán hàng dạo của Ngọc Tường đã khiến cho quân Chiêm Thành không chút nghi ngờ. Và, Ngọc Tường đã đi đến khá nhiều đồn giặc, thận trọng học thuộc lòng từng vị trí đóng quân của đối phương rồi trở về báo cáo lại cho Lý Thường Kiệt. Nhờ những nguồn tin quan trọng và chính xác do Ngọc Tường cung cấp, Lý Thường Kiệt đã tổ chức thành công một cách mau chóng cuộc Nam chinh cuối cùng của mình.

Khi toàn thắng trở về, Lý Thường Kiệt trân trọng kính tâu lên vua Lý Nhân Tông về công lao của nữ điệp viên trẻ tuổi mà xuất sắc là Trần Thị Ngọc Tường. Nhà vua vừa hết lời khen ngợi, vừa hạ lệnh ban thưởng cho Ngọc Tường rất hậu, ngoài ra, còn đặc biệt gia ân, phong Ngọc Tường làm Ngọc Hoa Công chúa.

Sau, Ngọc Hoa Công chúa qua đời vào năm nào chưa rõ. Nhân dân Đại Yên là nơi thân mẫu của Ngọc Hoa Công chúa từng qua lại buôn bán đã đồng lòng xây đền và tạc tượng Ngọc Hoa Công chúa để thờ. Đền Ngọc Hoa Công chúa còn được nhân dân nhiều địa phương khác tôn kính lập nên. Nay, cũng có đền còn lưu giữ được cả thần tích như đã kể ở trên. Có đôi câu đối bằng chữ Hán (hiện chưa rõ của ai), viết ca ngợi Ngọc Hoa Công chúa, xin tạm dịch như sau:

Sau Bà Trưng, Bà Triệu, nữ giới lại có đấng anh thư xuất hiện;

Triều đình ban sắc phong, vẻ vang thay, người sống chết thật phi thường.

Điều độc đáo là Ngọc Hoa Công chúa được dân một số làng tôn làm thần Thành hoàng. Bạn biết đấy, Thành hoàng mà nữ thần là hiện tượng rất hiếm hoi. Các triều đại nối tiếp sau triều Lý đều lần lượt gia phong thêm. Đến thời Nguyễn (triều đại cuối cùng tiến hành việc phong thần), Ngọc Hoa Công chúa được phong làm Thượng đẳng thần.

Thế mới hay, cuộc đời bao giờ cũng rất công bằng. Đền thờ và khói hương nghi ngút chính là cách tưởng nhớ đầy vẻ tôn nghiêm của hậu thế đối với tất cả những bậc giàu công đức. Người bất diệt là người dốc lòng vì nước vì dân. Như Ngọc Hoa Công chúa, tại thế chỉ một đời mà sống thì muôn đời, kính thay! 

CHUYỆN LI KÌ VỀ KIẾP TRƯỚC CỦA VUA LÝ THẦN THÔNG

Vua thứ năm của triều Lý là Lý Thần Tông (1128 -1138). Nhà vua vốn là con người em ruột vua Lý Nhân Tông, nhưng vì vua Lý Nhân Tông không có con trai nên mới nhận con của em ruột (là Sùng Hiền Hầu) làm con của mình. Người con ấy tên là Lý Dương Hoán, sinh năm 1116, được lên nối ngôi năm 1128, mất năm 1138, hưởng dương 22 tuổi. Chuyện li kì về vị này được khá nhiều thư tịch cổ ghi chép. Nay, xin theo một số thần tích và dã sử mà lược kể như sau:

Phan Huy Chú (1782 -1840) trong Hoàng Việt địa dư chí (quyển 1) chép đại để rằng: ở làng Yên Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay là khu vực Láng, Hà Nội) có một ngôi chùa cổ, cũng mang tên gọi là chùa Yên Lãng. Dân gian quen gọi là chùa Láng. Tương truyền, chùa Láng là nơi tu luyện của đại thiền sư Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh và vị thiền sư Đại Điên ở chùa Dịch Vọng (Hà Nội) vốn có mối thâm thù với nhau, vì thế, Từ Đạo Hạnh quyết chí tìm đường sang tận Tây Vực học đạo, mong sao có đủ phép thuật để trừng trị thiền sư Đại Điên. Sau bao năm tu hành khổ luyện nơi đất khách quê người, Từ Đạo Hạnh đã thành công. Thiền sư trở về nước và dùng phép thuật học được để trừng trị thiền sư Đại Điên đúng như lời nguyền trước lúc ra đi.

Mối thâm thù giữa Từ Đạo Hạnh với Đại Điên do đâu mà có? Các bộ dã sử khác chép khá kĩ hơn. Xin tổng hợp tất cả những ghi chép đó mà tái hiện một cốt truyện chung như sau:

Đại thiền sư Từ Đạo Hạnh thế danh là Từ Lộ, người làng Yên Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc Hà Nội). Từ Đạo Hạnh là con trai của Từ Vinh, một trong những vị tăng quan cao cấp dưới thời trị vì của vua Lý Nhân Tông (1072 -1127). Tương truyền, vì Từ Vinh có chút hiềm khích với Diên Thành Hầu và Diên Thành Hầu đã nhờ thiền sư Đại Điên dùng phép thuật đánh cho Từ Vinh đến chết rồi đem xác quẳng xuống sông Tô Lịch. Xác của Từ Vinh cứ hễ trôi đến đoạn sông trước cửa nhà Diên Thành Hầu là lại dựng đứng lên, tay đưa lên và chỉ thẳng vào nhà Diên Thành Hầu. Hoảng quá, Diên Thành Hầu liền chạy đến cậy nhờ thiền sư Đại Điên thêm một lần nữa. Đại Điên đến, niệm chú một lúc thì cái xác mới chịu trôi đi. Từ Đạo Hạnh cầm gậy chạy đến, định đánh Đại Điên để trả thù cho cha, nhưng vừa giơ gậy lên đã nghe tiếng thét lớn từ trên không:

-Chớ! Chớ!

Từ Đạo Hạnh tự biết là không thể làm khác hơn được, bèn bỏ xứ, tìm đường sang Tây Vực để theo học cho bằng được các phép thần thông. Sau nhiều năm tu luyện, phép thuật của Từ Đạo Hạnh đã rất cao cường. Một hôm, Từ Đạo Hạnh bỗng thấy một vị thần nhân đến, nói rằng:

-Thần được đấng Thiên Vương cai quản Từ Trấn sai đến để sớm hôm hầu hạ.

Từ Đạo Hạnh bèn trở về, ra sông Tô Lịch, lấy gậy thả xuống sông để làm thuyền, chẳng cần chèo mà gậy cũng tiến ngược dòng, đến tận cầu Tây Dương (tức cầu Giấy ở Hà Nội ngày nay), xong, cầm gậy đi tìm thiền sư Đại Điên. Thiền sư Đại Điên nói:

-Ngươi không còn nhớ lời can ngăn thuở nào chăng?

Từ Đạo Hạnh ngước nhìn lên, bốn bề thinh không im lặng, biết là chẳng còn ai cản ngăn như trước, bèn lấy gậy đánh Đại Điên. Đại Điên bị đánh đau, được ít lâu thì chết. Từ Đạo Hạnh rửa được thâm thù, bèn lên núi Phật Tích ở Sài Sơn tu hành.

Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con trai, đành xuống chiếu tuyển con cháu tôn thất họ Lý để truyền ngôi. Em ruột của vua Lý Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu đến Sài Sơn cầu tự. Từ Đạo Hạnh rất cảm mến ơn đức của cả hai vợ chồng Sùng Hiền hầu, nên mới dặn rằng:

-Tôi nguyện sẽ giúp. Chừng nào phu nhân chuyển dạ thì xin cho gia nhân đến báo cho tôi biết gấp.

Đến ngày nhận được tin, Từ Đạo Hạnh vào trai giới sạch sẽ, thay áo quần tươm tất rồi vào trong hang núi ngồi mà mất. Đời truyền rằng, ấy là bởi vì ông đã dùng phép thuật, hoá thân đầu thai là con Sùng Hiền Hầu. Ngày Từ Đạo Hạnh mất cũng là ngày con trai Sùng Hiền hầu chào đời. Người con trai ấy là Lý Dương Hoán, được hai tuổi thì Lý Nhân Tông cho làm Thái Tử, được mười hai tuổi thì lên nối ngôi và ở ngôi tổng cộng mười năm (1128 - 1138), đó là Lý Thần Tông.

Thế ra, kiếp trước của vua Lý Thần Tông là Từ Đạo Hạnh, còn Từ Đạo Hạnh lại là con của Từ Vinh. Từ Vinh và Từ Đạo Hạnh là người tu hành mà sao tâm đầy uẩn khúc, tính ngập oán thù, động cơ tu luyện phép thuật kiểu ấy, nghĩ mới đáng sợ làm sao! Thời Lý Thần Tông là thời bắt đầu đổ nát của nhà Lý. Phải chăng, câu chuyện li kì trên muốn chuyến tải một chút triết lí, rằng chuyên tâm báo oán thì làm sao có thể gia ân cho trăm họ? Kiếp trước nếu là vậy thì kiếp sau ắt phải là vậy, bởi vì, khi tu hành mà còn coi nhẹ đạo đức, khi ở ngôi chí tôn, đạo đức là chuyện khó nói lắm thay!

CHUYỆN HAI QUAN KIỂM PHÁP THỜI TRẦN

Thời Trần (1226 —1400), chức quan trông coi về tư pháp và xét xử án kiện thường được gọi là quan kiểm pháp. Bấy giờ, chức này được trao quyền rất lớn, vì thế, việc chọn người làm kiểm pháp luôn luôn được cân nhắc rất thận trọng. Không ít quan kiểm pháp đã tỏ ra xứng đáng với sự chọn lựa đầy tin cậy của triều đình. Trong số họ, có Trần Thì Kiến và Phí Trực.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 8, tờ 25) chép rằng:

“Trần Thì Kiến là người cương trực, từng được giữ chức An Phủ Sứ tại phủ Thiên Trường (vùng tương ứng với tỉnh Nam Hà cũ -NKT). Khi ấy có người mang món ăn tới biếu, Trần Thì Kiến liền hỏi rằng:

-Vì sao lại biếu?

Người ấy đáp:

-Chẳng có việc gì cả, chỉ vì nhà tôi ở gần lị sở mà thôi.

Mấy hôm sau, người ấy đem việc đến nhờ giúp, Trần Thì Kiến giận lắm, bèn lấy tay móc họng cho ói ra. Đến đây (tháng 4 năm Đinh Dậu, 1297 -NKT) ông được cất nhấc làm quan Kiếm Pháp. Trần Thì Kiến là người xét xử công bằng, thoả đáng. Ai cũng nói rằng ông có thể quyết đoán được việc hình ngục.”

Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 6, tờ 34 -b) chép:

“Bấy giờ, trộm cướp bắt đầu nổi lên, tên Văn Khánh là đầu sỏ của bọn cướp. Có người bắt được một tên cướp, đem giải lên quan và nói rằng chính nó là Văn Khánh. Khi xét hỏi, tên ấy cũng nhận ngay, cho nên, ai cũng tin là thực, duy chỉ có (Phí) Trực là vẫn còn ngờ, vì thế, án ấy để lâu mà không thể quyết. Thượng Hoàng hỏi, (Phí) Trực tâu:

-Mạng người rất trọng mà lòng thần thì vẫn còn có chỗ ngờ, cho nên, chưa dám liều lĩnh xét xử ngay.

ít lâu sau, Thượng Hoàng lại hỏi, (Phí) Trực vẫn trả lời như trước, vì thế, Thượng Hoàng giận mà nói rằng:

-Nó đã nhận như thế, ngươi còn ngờ gì nữa?

(Phí) Trực tâu:

-Nó chưa bị tra tấn khổ sở mà đã điềm nhiên nhận, cho nên, thần rất lấy làm ngờ.

Một tháng sau, tên Văn Khánh thật mới bị bắt. Thượng Hoàng do vậy mới khen (Phí) Trực có tài.”

Đọc đoạn ghi chép ngắn ngủi nói trên, hậu sinh trộm nghĩ: Trần Thì Kiến móc họng cho ói hết thức ăn ra, ấy là bởi ông quyết giữ lòng cho trong sạch. Làm việc quan mà lòng không trong sạch thì chỉ khiến cho công đường ngày một thêm ô uế mà thôi. Kẻ đã biếu món ăn cho ông thấy thế thì sợ, dân trong cõi nghe vậy thì phục, điều tốt lành nào phải là nhỏ đâu! Triều đình trao cho ông chức Kiểm pháp là chí phải. Người đức sáng như ông thì việc có mờ tối bao nhiêu vẫn có thể nhìn thấu tỏ. Nhất định là như thế.

Thượng Hoàng khen Phí Trực là người có tài, nhưng xem ra, trước hết hãy nên khen ông là người bình tĩnh và biết trọng mạng sống. Thượng Hoàng giận dữ thúc giục, Phí Trực vẫn quyết không vội vàng. Quan toà mà hấp tấp và hời hợt, nỗi oan khuất thật khó mà lường trước được. Chuyện chỉ nói ông tránh sự xử oan cho một người nhưng thực thì ông đã tránh được tiếng xấu cho quan Kiểm Pháp và phép nước một thời vậy. Kính thay!

CHIÊU VĂN VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT - NGƯỜI BIẾT NHIỀU THỨ TIẾNG NHẤT THỜI TRẦN

Điều ít ai ngờ là tuyệt đại đa số quý tộc họ Trần đều rất giỏi sinh ngữ. Trần Hưng Đạo nói tiếng Trung Quốc hay đến nỗi khiến cho người Trung Quốc không thể ngờ rằng... ông là người Việt. Trần Quang Khải từng tiếp sứ giả nước ngoài mà không cần đến người phiên dịch... Nhưng, biết nhiều thứ tiếng nhất thời Trần có lẽ là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255 -1331)

Trần Nhật Duật là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông (1226 -1258), em của vua Trần Thánh Tông (1258 -1278) và danh tướng Chiêu Văn Vương Trần Quang Khải (1241 - 1294). Sử cũ chép rằng, chính vua Trần Thái Tông đã đích thân sai Đạo sĩ đi cầu tự. Thế rồi một đêm nọ, nhà vua nằm mơ thấy Ngọc Hoàng Thượng đế sai Chiêu Văn Đồng Từ xuống đầu thai làm con của vua. Đến khi Trần Nhật Duật sinh ra, trên cánh tay còn in rõ hai chữ Chiêu Văn, vì thế, nhà vua mới cho lấy Chiêu Văn làm hiệu cho con.

Ngay từ thuở nhỏ, Trần Nhật Duật đã nổi tiếng thông minh, học qua là nhớ, mà điều gì đã nhớ là nhớ mãi không bao giờ quên, cho nên, người đương thời vẫn gọi ông là thần đồng. Bấy giờ, chữ Hán được coi là văn tự chính thức của nước nhà, nói đi học cũng có nghĩa là học chữ Hán. Nhưng, ta đọc chữ Hán theo âm Hán -Việt, khác hẳn với âm chữ Hán theo cách đọc của người Trung Quốc. Bởi lẽ này, rất nhiều người giỏi chữ Hán mà vẫn không sao có thể nói chuyện được với người Trung Quốc, họ đành phải trao đổi theo lối bút đàm, vừa phiền phức, vừa rất tốn thời gian. Trần Nhật Duật thì khác hẳn. Từ thuở tấm bé, hễ thấy sứ giả của Trung Quốc sang là ông lại mon men tới, vừa bút đàm, vừa học nói, và chẳng bao lâu sau thì ông đã có thể nói một cách thông thạo, khiến cho cả triều đình phải kinh ngạc. Năm chừng hai mươi tuổi, Trần Nhật Duật đã có thể nói chuyện với sứ giả cả ngày, chẳng những không chút vấp váp mà còn tế nhị chuyển đạt được những vấn đề lớn của đất nước.

Bấy giờ, Đại Việt phải thường xuyên tiếp đón sứ giả của Chiêm Thành cũng như Ai Lao và Vạn Tượng (thuộc Lào ngày nay). Người thường được giao trách nhiệm tiếp sứ giả cũng chính là Trần Nhật Duật. Ông thông thạo tiếng của người Chăm và tiếng nói của người Lào đến nỗi khiến cho vua Trần Nhân Tông phải thốt lên rằng: Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chừng như là hậu thân của các phiên thuộc!

Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 2 a - b) có một đoạn chép về Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật khá lí thú như sau:

“Đời (Trần) Nhân Tông (ở ngôi từ năm 1278 đến năm 1293 -NKT), có sứ giả của nước Sách -mã -tích (tên một tiểu vương cổ, có lẽ là vùng thuộc về Singapo ngày nay -NK.T) đến dâng cống. (Triều đình) không tìm đâu ra người phiên dịch, chỉ có (Trần) Nhật Duật là dịch đuợc. Có người hỏi ông rằng nhờ đâu mà biết được tiếng của nước họ, ông trả lời:

-Thời Thái Tông (ở ngôi từ năm 1226 đến năm 1258 - NK.T), sứ của nước này có sang, nhân đó, tôi giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nói của họ.”.

Ngoài tiếng Trung Quốc, tiếng Chăm, tiếng Lào và tiếng Sách -mã -tích như đã nói ở trên, Trần Nhật Duật còn rất giỏi tiếng Mông cổ. Mỗi khi có sứ thần Mông cổ sang, ông thường nói chuyện trực tiếp một vài thứ tiếng nói của đồng bào các dân tộc ít người. Có một chuyện rất độc đáo, xảy ra vào năm 1280, tức là năm Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật mới 25 tuổi, được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyến 5, tờ 40 a - b) ghi lại, đại để như sau: Năm ấy, viên Thổ tù của đạo Đà Giang là Trịnh Giác Mật nổi loạn, tình thế rất nguy cấp. Thay vì đem quân tới đàn áp, Chiêu Văn Vương chỉ đem dăm tiểu đồng tới Đà Giang, tay không hề cầm vũ khí. Quân của Trịnh Giác Mật vây lấy ông, giáo mác và cung tên đều chĩa thẳng về phía ông, nhưng ông vẫn cứ điềm nhiên đi vào chỗ trú đóng của Trịnh Giác Mật. Tới nơi, ông nói chuyện với Trịnh Giác Mật bằng tiếng thổ dân, xử sự theo đúng tập tục của thổ dân, và điều đó đã khiến cho cả Trịnh Giác Mật cùng với quân sĩ của hắn vô cùng kinh ngạc. Ngày hôm sau, Trịnh Giác Mật đem toàn bộ lực lượng ra đầu hàng Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Khi ông trở về kinh đô Thăng Long, Trịnh Giác Mật đem cả vợ con theo vào chầu vua Trần. Sau đó, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật còn nhận nuôi dạy cho con của Trịnh Giác Mật nữa. Vùng Đà Giang từ đó luôn được yên bình.

Hậu thế xưa nay thường coi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là một danh tướng. Và, quả đúng là như vậy. Dũng khí và mưu lược của ông đã khiến cho quân xâm lược Mông - Nguyên phải bạt vía kinh hồn. Hậu thế xưa nay cũng thường coi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là một văn tài. Và, cũng quá đúng là như vậy. Trước tác của ông đáng để cho đời ngưỡng mộ và tôn kính xếp vào hàng những cây đại bút của văn học dân tộc. Trong guồng máy chính trị, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là một trong những đấng lương thần khả kính, có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triến đất nước đương thời.

Ngày nay, trong không khí đối mới của đất nước, khi mà ngoại ngữ trở thành phương tiện không thể thiếu của tất cả những ai muốn hội nhập vào cuộc giao lưu, chúng ta càng khâm phục Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Cũng cần nói thêm rằng, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật biết rất nhiều thứ tiếng và tập tục của người nước ngoài, nhưng, phẩm cách của ông thì hoàn toàn thuần Việt, ông là một trong những đại diện của khí phách và nhân cách cao quý của Đại Việt thế kỉ thứ 13. Ông học rất nhiều, nhưng cái xuyên suốt mọi sụ học của ông chính là học làm chủ. Kính thay!