- 3 - KÍNH THAY! LÝ ĐẠO TÁI
Thời Trần có hai người cùng tên là Đạo Tái. Một người là Trần Đạo Tái con của Thượng tướng Trần Quang Khải, cháu nội của vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông. Trần Đạo Tái đỗ Bảng nhãn năm mới 14 tuổi, sau được phong tới tước Văn Túc Vương. Một người là Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254) tại làng Vạn Ty, huyện Gia Định (nay là thôn Vạn Ty, xã Cao Đức, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh, mất năm Giáp Tuất (1334), hưởng thọ 80 tuổi).
Nếu như Trần Đạo Tái sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, thì trái lại, Lý Đạo Tái sinh ra trong một gia đình nghèo hèn. Dã sử chép rằng: thời thơ ấu, vì gia cảnh quá khó khăn, Lý Đạo Tái thường bị người làng hắt hủi. Bà con trong họ thấy thế cũng làm ngơ, chẳng ai ra tay giúp đỡ, thậm chí, có người còn ra mặt khinh khi. Tuy rất buồn nhưng cả nhà Lý Đạo Tái chẳng ai lấy đó làm điều oán giận. Ngày ngày, Lý Đạo Tái vừa tất bật kiếm sống vừa dốc chí học hành. Không được vào lớp đàng hoàng như bao chúng bạn thì ông đứng ngoài nghe lỏm lời thầy giảng, không có giấy thì ông lấy que viết xuống đất, vậy mà chẳng bao lâu, ông đã nổi danh hay chữ. Khoa Giáp Tuất, niên hiệu Bảo Phù năm thứ hai (1274) đời vua Trần Thánh Tông, Lý Đạo Tái đỗ Thái Học Sinh (học vị này từ năm 1442 đối gọi là Tiến Sĩ). Năm đó, Lý Đạo Tái tròn hai mươi tuổi, ông là người giàu đức độ, được nhiều người nể trọng, lại có tài uyên bác, cho nên, tuy chỉ đỗ Thái Học Sinh, đời vẫn tôn ông là Trạng Nguyên.
Từ khi ông đỗ đạt và vinh hiển với đời, tự dưng, ai ai cũng nhận ông là bà con họ hàng, ai ai cũng muốn bày tỏ tình đồng hương quen biết, ông chán nản với nhân tình thế thái, chỉ muốn vùi đầu vào sách vở cho quên hết mọi sự. Người đương thời có câu rằng:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn anh em
Bấy giờ, vua Trần thấy ông là người gồm đủ hiền tài, bèn dự tính đem công chúa Liễu Sinh gả cho ông. Danh vị Phò mã với nhiều quyền lợi vật chất đang đợi Lý Đạo Tái, nhưng nỗi chán nản về nhân tình thế thái vẫn đè nặng trong tâm trí ông, khiến ông phải khôn khéo tìm cách chối từ. Vua Trần thấy không thể ép buộc ông được nên đành phải từ bỏ ý định này. Từ đó, Lý Đạo Tái dành tất cả thời gian rảnh rỗi cho việc đọc sách. Những lúc có sứ thần phương Bắc tới, ông thường được cử làm người tiếp đón. Tài ứng đối bằng ngôn ngữ phương Bắc của Lý Đạo Tái đã khiến cho nhiều vị sứ thần nể phục. Danh tiếng về sự uyên bác của ông dần dần lan truyền sang cả Trung Quốc.
Khi Lý Đạo Tái bắt đầu bước vào tuổi ngũ tuần thì cũng là khi phái thiền tông Trúc Lâm Yên Từ đã phát triển khá mạnh. Phái này do Thượng hoàng Trần Nhân Tông xưng là Điều Ngự Giác Hoàng, và đó chính là vị tổ thứ nhất của phái thiền tông Trúc Lâm Yên Tử. Năm 1308, Điều Ngự Giác Hoàng viên tịch, người được tôn làm vị tổ thứ hai của phái thiền tông này là Pháp Loa Tôn Giả, tức Đồng Kiên Cương.
Một lần, nhân hộ giá vua Trần đi viếng cảnh chùa, Lý Đạo Tái được gặp Pháp Loa Tôn Giả. Phong thái ung dung, đạo đức cao khiết, và đặc biệt là sự uyên thâm kì lạ của Pháp Loa Tôn Giả đã khiến cho Lý Đạo Tái vô cùng bái phục, ông quyết từ bỏ mọi phú quý và danh vọng để đi tu theo đạo Phật. Năm 1330, Pháp Loa Tôn Giả viên tịch, Lý Đạo Tái được tôn là vị tổ thứ ba của phải thiền tông Trúc Lâm Yên Tử. Bấy giờ, Lý Đạo Tái xưng là Huyền Quang, vì thế, đời vẫn quen gọi ông theo đạo Huyền Quang này.
Việc Lý Đạo Tái xuất gia đầu Phật khiến cho không ít người đương thời tỏ ra nghi ngờ. Tương truyền, chính Thượng hoàng Trần Anh Tông cũng không tin. Và, để thử đạo hạnh của bậc tu hành này, Thượng hoàng Trần Anh Tông đã bí mật sai một cô gái rất đẹp, tên là Điểm Bích, đến để tìm cách thử ông. Điểm Bích đã khôn khéo thử đủ mọi kiểu, nhưng rốt cục cũng phải chịu thất bại. Từ đó, mọi người mới thực tin rằng Lý Đạo Tái là bậc chân tu.
Như trên đã nói, năm 1334, Lý Đạo Tái qua đời, hưởng thọ 80 tuổi. Tám mươi năm của cuộc đời bậc tài hoa này đã để lại cho hậu thế những điều thật lớn lao. Một là sáng suốt nuôi chí vượt qua sự nghèo hèn một cách thật khả kính. Hai là bình tĩnh xa lánh thói tệ của thế tục một cách thật khôn khéo. Ba là biết dừng lại khi cần thiết phải dừng, không để cho bả vinh hoa chôn vùi khát vọng vươn tới không ngừng của kẻ sĩ. Và, bốn là canh cánh giữ gìn đạo hạnh, khiến cho tại thế chỉ một đời mà đức sáng đến bao đời. Kính thay!
VIÊN BÁCH HỘ NGƯỜI HỌ THÔI BỊ DIÊM VƯƠNG NGHIÊM TRỊSử cũ cho hay, vào thời loạn, nơi công đường chẳng ít bọn quan lại nhũng nhiễu tham tàn. Tích xưa kể rằng, chốn âm ti địa ngục cũng không thiếu đám gian thần tệ hại. Cuộc đối đầu giữa thiện và ác, giữa chính và tà,... diễn ra quyết liệt khắp mọi lúc, mọi nơi. Trông lại ngàn xưa, thấy chẳng ít những chuyện thoạt nghe thì đầy vẻ lí thú và quái đị, nhưng suy gẫm cho kì thì lại thấy ý tứ răn đời dưỡng đức thật khôn khéo của tổ tiên. Đại để như chuyện...
Cuối năm 1406, quân Minh giương ngọn cờ chính trị giả hiệu là phù Trần diệt Hồ (giúp nhà Trần tiêu diệt nhà Hồ) để tràn sang xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo đã nhanh chóng bị thất bại, nước ta bị quân Minh đô hộ suốt hai mươi năm trời (từ năm 1407 đến năm 1427). Sử gọi đó là thời thuộc Minh.
Dưới thời thuộc Minh, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy, chiến đấu một mất một còn, quyết giành lại cho bằng được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất và bùng nổ sớm nhất là khởi nghĩa do Trần Ngỗi (tức là Trần Quỹ hay Giản Định Đế) và Trần Quý Khoáng (tức Trần Quý Khoách hay Trùng Quang Đế) lãnh đạo. Sử gọi đó là nhà hậu Trần. Sau gần bảy năm chiến đấu ngoan cường (1407 -1413), tuy cuối cùng đã bị quân Minh đàn áp thảm khốc, nhung cuộc khởi nghĩa này cũng đã gây cho lũ xâm lăng nhiều tổn thất nặng nề. Trong số những trận đánh vang dội của nhà hậu Trần, nổi bật hơn cả là trận Bô Cô (đất này thuộc tỉnh Nam Hà cũ), diễn ra vào cuối năm 1408. Ở trận đánh này, tướng cao cấp của nhà Minh là Mộc Thạnh nhờ may mắn mà thoát chết. Trong số những tì tướng của Mộc Thạnh bị thiệt mạng tại Bô Cô, có một viên mang hàm Bách Hộ, người họ Thôi, cho nên sách xưa chép là Thôi Bách Hộ, còn như tên thật của hắn là gì thì chưa ai rõ. Sinh thời, Thôi Bách Hộ là tên gian ngoa tàn ác, chết đi, hồn ma của hắn lại trở thành yêu quái, phá phách hành hạ đủ điều, dân cả một vùng rộng lớn quanh khu vực Bô Cô lấy đó làm mối lo lớn. Ai cũng muốn tìm cách trừ khử đi nhưng không sao làm được. May sao, có một người trẻ tuổi mà tài cao, họ Ngô, tên Soạn, tự là Tử Văn, từ phương xa đến, quyết ra tay diệt ác quý, trừ tà ma.
Dã sử chép rằng, Ngô Soạn người huyện An Dũng, phủ Lạng Thương (nay thuộc tỉnh Bắc Giang) là người khí khái, ghét gian, sẵn sàng bênh vực kẻ oan khuất. Tới Bô Cô, nghe các bậc trưởng lão kể rằng, hồn ma Thôi Bách Hộ đã hoá thành yêu quái, chiếm đền thờ ở khu Bô Cô, nhũng hại dân khốn khổ khống sao kể hết. Ngô Soạn nghe xong thì nổi giận bừng bừng, bèn trai giới sạch sẽ rồi lập đàn tế cáo và sau đó là... cầm lửa đốt đền. Xong việc, ông trở về nhà, tự dưng thấy mình ớn lạnh, chốc lát thì mê man li bì. Trong cơn mơ màng, Ngô Soạn thấy có một người cao lớn, ra dáng người phương Bắc, áo mũ chình tề, tự xưng là thần được sắc phong trấn giữ ở đền, nói rằng:
-Âm dương cách trở nhưng gần chớ chẳng xa, nếu không khôn hồn lo làm lại đền cho ta, ta sẽ lôi cổ xuống địa ngục. Khi ấy, chớ có trách.
Nói xong thì người ấy hậm hực bỏ đi ra. Một lúc sau, bỗng có một người khác, mình mặc áo vãi, đầu đội mũ thâm, dáng khoan thai, ung dung bước tới mà chào hỏi rồi nói rằng:
-Tôi là thần ở đền Bô Cô đây. Hay tin ông liều mình đốt đền, cảnh cáo cả tên gian thần nhũng hại tàn ác, sung sướng quá nên vội đến chúc mừng.
Ngô Soạn chẳng hiểu ra làm sao cả, bèn hỏi:
-Người cao lớn lúc nãy nhận là thần đền Bô Cô, giờ đến lượt ông cũng nhận là thần đền Bô Cô. Chẳng lẽ một đền mà có đến hai thần hay sao?
Người ấy liền nói:
-Tên cao lớn lúc nãy là Thôi Bách Hộ, người Tàu, chết trận Bô Cô nên hồn gửi ở đây. Hắn là tên gian ngoa, trên dối trời, dưới lừa âm ti mạo nhận cả họ tên tôi, chiếm cả đền của tôi, khiến tôi phải bỏ đi nương nhờ ở chỗ thánh Tản Viên. Khốn khổ thay, tôi vốn là đại thần thời Lý Nam Đế, chết vì nước nên mới được phong làm thần nơi này, từng dày công ban phúc cứu độ cả ngàn năm, vậy mà giờ đây bị yêu quái làm cho ô nhục cả danh tiết.
Ngô Soạn hỏi:
-Phàm đã gặp oan ức thì phải đi kêu oan, cớ sao phải nhún mình mà đi nương nhờ ở thánh Tản Viên.
Người ấy lại đáp:
-Tôi nào có quản ngại việc kêu oan, từng bao lần gửi sớ xuống để kêu với Diêm Vương rồi đấy chứ. Nhưng, hồn ma Thôi Bách Hộ gian xảo khó lường, vả lại, chư thần quanh đây đều là hạng hay ăn của đút lót, họ đã mờ mắt vì tiền của Thôi Bách Hộ, có ai dám bênh vực tôi đâu.
Ngô Soạn hỏi:
-Vậy, nó có thể hãm hại tôi không?
Người ấy đáp:
-Có quá đi chứ. Nhưng, hễ nó có kiện xuống âm ti thì ông cứ nói là xin Diêm Vương sai người đến gặp thánh Tản Viên mà hỏi. Đừng sợ.
Chuyện vừa dứt thì Ngô Soạn thấy có hai tên quỷ sứ đến bắt ông đi. Qua một dinh thự lớn lắm, chúng để ông ngồi đợi phía ngoài một lúc, khi trở ra, chúng nói:
-Tội ngươi nặng lắm, không thể tha được đâu.
Chúng lại dắt ông đi tiếp. Đến chỗ cây cầu bắt qua một con sông nước đen ngòm, mùi tanh tưởi bốc lên nồng nặc, nơi có đến hàng ngàn quỷ dạ xoa dữ tợn đang đợi sẵn, Ngô Soạn kêu to lên rằng:
-Tôi chỉ là người thẳng thắn vô tội của thế gian. Vì sao tôi bị xử cực hình oan uổng nhu thế này?
Ngô Soạn vừa kêu xong thì nghe tiếng phán truyền rằng:
-Hãy mang kẻ cứng cổ kia lại đây để ta chỉ rõ tội lỗi cho hắn.
Lời phán truyền ấy là của Diêm Vương. Trở lại, Ngô Soạn đã thấy kẻ cao lớn, trước đó từng tụ xưng là thần đền Bô Cô, đang sụp lạy kêu với Diêm Vương. Diêm Vương phán tiếp:
-Đây là đấng trung thần từ thời Lý Nam Đế, từng có công nên mới được phong làm thần đền Bô Cô. Người là tên học trò ngạo mạn, sao dám đốt đền của thần?
Ngô Soạn cứ tình thực kể lại từ đầu, sau cùng còn nói thêm:
-Nếu Diêm Vương không tin, xin sai sứ đến hỏi thánh Tản Viên, ắt sẽ rõ hư thực.
Hồn ma Thôi Bách Hộ biết là khó bề lừa dối mãi, bèn giả giọng nhân từ, xin với Diêm Vương tha tội cho Ngô Soạn, vì dẫu sao thì Ngô Soạn cũng chỉ là một học trò rồ dại, mới phạm tội lần đầu. Nhưng, cũng chính thái độ thay đổi đột ngột đó của hồn ma Thôi Bách Hộ đã khiến cho Diêm Vương thêm sinh nghi. Việc kiểm tra lời kêu oan của Ngô Soạn lập tức được tiến hành. Sự thực sáng tỏ. Ngô Soạn được tha còn hồn ma Thôi Bách Hộ thì bị tống gỗ vào miệng, bị gông và bị giam vào ngục kín.
Đền Bô Cô lại được trả về cho thần cũ. Dân địa phương góp công góp của xây dựng lại to đẹp hơn. Riêng Ngô Soạn, về sau, theo sự tiến cử (kể như một sự đáp ơn) của thần đền Bô Cô, đã được Diêm Vương cho làm Phán Quan ở đền thánh Tản Viên.
Bạn nghĩ gì về mẩu chuyện trên? Hình như tổ tiên muốn nói rằng, dù có bao nhiêu tiền của hối lộ và mánh khoé gian manh, vẫn không sao che giấu được tội lỗi. Cương trực đáng kính như Ngô Soạn, dẫu có bị vùi dập thì cuối cùng cũng sẽ được minh oan. Trông lại ngàn xưa, kính thay Ngô Soạn! Kính thay, tuổi trẻ hiên ngang!
TUỔI THANH XUÂN CỦA DANH TƯỚNG TRỊNH KHẢDanh tướng Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh, nay đất làng quê ông thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Hiện vẫn chưa ai rõ Trịnh Khả chào đời vào năm nào, chỉ biết ông mất vào năm Tân Mùi (1451).
Sử cũ cho hay, tổ tiên Trịnh Khả từng làm quan dưới thời Trần và đã từng lập được nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược. Thân phụ của Trịnh Khả là Trịnh Quyện, tuy làm chánh tổng nhưng vì suốt đời thanh liêm nên bốn anh em Trịnh Khả rất vất vả. Trịnh Khả là con út của Trịnh Quyện, vậy mà ngay từ thuở thiếu thời đã phải quanh năm tất bật với công việc mộng nương.
Bấy giờ, quân Minh đã xâm lược và đô hộ nước ta, chúng áp bức và bóc lột nhân dân ta rất hà khắc, đúng như Nguyễn Trãi nói: “thui dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. ” Lớn lên trong bối cảnh đó, Trịnh Khả phải nếm đủ mọi đắng cay, nhục nhã. Trong Đại Việt thông sử (Chư thần truyện), Bảng nhãn Lê Quý Đôn có kể rằng:
“Năm lên mười sáu tuổi, một hôm, ông (đây chỉ Trịnh Khả -NK.T) dắt trâu đi cày về ngồi nghĩ trước cổng một ngôi chùa trên núi. Khi ấy, có viên tướng nhà Minh từ thành Tây Đô đến, thấy vẻ mặt ông thì ưa, liền bắt ông về làm gia nô cho hắn. ít lâu sau, hắn xem tướng ông và nói:
-Thằng bé này mình rồng, mắt hổ, khoẻ hơn cả mọi lính tráng trong ba quân. Ngày sau thế nào hắn cũng sẽ được cầm cờ mao và tiết việt (ý nói sẽ được làm tướng—NK.T).
Thế rồi hắn nói tiếp:
-Ngày sau, kẻ đánh đuổi ta tất phải là mày, phải trừ ngay đi để đề phòng hậu hoạ.
Ông nghe thế thì sợ quá, trốn qua bên kia sông Mã, ẩn trong nhà của người cô ở xã Diên Phúc. Quân Minh đuổi theo bắt mà không được, bèn bắt thân phụ ông là Trịnh Quyện, cốt để buộc ông phải trở lại, nhưng không được, giặc liền quãng thân phụ ông xuống sông. Đến đêm khuya, ông lén vớt xác thân phụ đem đi chôn. Vừa thương thân phụ, vừa căm quân Minh, ông quyết chí báo thù. Nghe tin Thái Tổ (chỉ Lê Lợi -NK.T) đang náu mình ở Lam Sơn, ngầm nuôi binh mã, ông liền vác gươm đến xin theo ngay.”
Đến với Lê Lợi, Trịnh Khả được tin dùng, được trao chức phó chỉ huy lực lượng quân Thiết Đột. Năm 1416, ông là một trong số mười chín người thân tín nhất của Lê Lợi, tham dự Hội thề Lũng Nhai -tức là lễ ra mắt dưới dạng đặc biệt của bộ chỉ huy Lam Sơn. Trải hơn mười năm chiến đấu ngoan cường, Trịnh Khả đã liên tiếp lập được nhiều công lao, trở thành danh tướng Lam Sơn, cũng là danh tướng trong lịch sử nước nhà.
Cuối năm 1424, khi mới khoảng ba mươi tuổi, Trịnh Khả đã là tướng cao cấp, tham gia chỉ huy chiến dịch tấn công vào Nghệ An, giải phóng vùng đồng bằng rộng lớn này. Cuối năm 1426, cùng với các danh tướng khác của Lam Sơn như Phạm Văn Xảo, Lý Triện và Đỗ Bí, ông lập công lớn trong ba trận oanh liệt tại Ninh Kiều (nay thuộc Hà Nội), Nhân Mục (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) và Xa Lộc (nay thuộc Vĩnh Phú), khiến cho quân Minh phải kinh hoàng. Cũng cuối năm 1426, ông là một trong những vị tướng cao cấp của Lam Sơn, chỉ huy xuất sắc trận quyết chiến chiến lược Tốt Động -Chúc Động, làm thay đổi hẳn mối tương quan thế và lực giữa Lam Sơn với quân Minh. Từ đây, viên Tổng binh khét tiếng hung hãng của nhà Minh là Vương Thông, vốn được sai đi cứu viện, đã buộc phải trở thành tên tướng kêu cứu một cách thảm thiết. Cũng bắt đầu từ đây, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô cả nước. Cuối năm 1427, khi bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định đập tan hoàn toàn đạo viện binh mười vạn tên của nhà Minh do Liễu Thăng cầm đầu, danh tướng Trịnh Khả được lệnh đem quân lên ải Lê Hoa (vùng Cao Bằng ngày nay), trận đánh đạo viện binh khác của nhà Minh gồm năm vạn tên do viên lão tướng dày dạn kinh nghiệm vào hàng bậc nhất của giặc là Mộc Thạnh chỉ huy. Trọng trách của lực lượng Trịnh Khả là phải vô hiệu hoá mọi khả năng của Mộc Thạnh, đặc biệt là quyết không để Mộc Thạnh có thể cứu nguy cho Liễu Thăng. Và, cùng với các tướng lĩnh khác, Trịnh Khả đã đánh thắng hai trận lớn ở Lãnh Câu và Đan Xá (gần ải Lê Hoa).
Năm 1428, sự nghiệp đánh đuổi quân Minh đô hộ đã thành công, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, Trịnh Khả là một trong số 93 công thần khai quốc, được trao lần lượt rất nhiều chức hàm lớn của triều Lê. Rất tiếc là ông bị gièm pha rồi bị giết một cách oan khuất vào năm 1451.
Từ một người lam lũ với ruộng nương trở thành một vị danh tướng, từ một người ở dưới đáy của xã hội trớ thành một đại thần... tất cả chỉ diễn ra trong hơn mười năm của một thời trai trẻ, tuổi thanh xuân của Trịnh Khả, đáng kính thay!
TUỔI THANH XUÂN CỦA KIẾN QUỐC TRINH LIỆT PHU NHÂNKiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân là tước hiệu cao quý mà vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) đã ban tặng cho bà Lương Thị Minh Nguyệt, người phụ nữ sinh trưởng tại làng Ngọc Chuế (làng này thuộc xã Yên Nghĩa, huyện Ý Yên, tình Nam Định). Hiện tại vẫn chưa ai rõ bà sinh vào năm nào, chỉ biết rằng khi quân Minh xâm lược và đô hộ nước ta, bà đã ở vào tuổi trường thành và đã kết hôn với một thanh niên người cùng làng là Đinh Tuấn.
Sinh thời, Lương Thị Minh Nguyệt là người nổi tiếng xinh đẹp và giàu khí phách. Theo thần tích (tờ ghi sự tích của các vị thần) ở đền Ngọc Chuế (tục danh là đền Duối) thì đám cưới giữa Đinh Tuấn với Lương Thị Minh Nguyệt tổ chức chưa được bao lâu, quân Minh đã tràn đến xây thành cổ Lộng và trú đóng ở đó rất đông. Đây là một trong những thành kiên cố, cách làng Ngọc Chuế không bao xa. Ngày ngày từ thành cổ Lộng, quân Minh liên tục tiến hành những cuộc tấn công đàn áp tàn bạo và vơ vét không biết bao nhiêu là tài sản của nhân dân các vùng chung quanh. Việc làm này của giặc khiến cho bà Lương Thị Minh Nguyệt rất căm giận. Bà liền bàn với chồng bỏ vốn mở một quán hàng nước ở sát ngay của đồn Cổ Lộng để theo dõi tình hình quân Minh, nhằm chuẩn bị kế hoạch đánh đuổi chúng. Đó là một quán hàng khá khang trang, có nhiều rượu ngon và thức uống tốt, lại có nhiều cô gái trẻ và đẹp phục vụ rất chu đáo. Giặc không chút nghi ngờ, liên tục rủ nhau ra quán, cả ngày và cả đêm, thậm chí, không ít tên còn bạo san xin ngủ lại.
Theo mô tả của sử sách xưa thì lúc bấy giờ, mỗi tên lính đều được phát một chiếc bao dệt bằng đay rất to, gọi là cái túi ngủ. Tối đến, tất cả lính đều chui vào túi ngủ, phần túi ở dưới là giường, là chiếu, còn phần túi ở trên là chăn, là màn. Sau vài đêm xin ngủ lại mà vẫn được bình an vô sự, quân Minh trong đồn cổ Lộng kéo nhau ra quán để ngủ ngày càng nhiều. Tướng chỉ huy đồn cổ Lộng của giặc còn cho gọi bà Lương Thị Minh Nguyệt vào đồn để nhờ nấu nướng mỗi khi chúng có tiệc tùng. Bởi lẽ này, bà nắm rất vững mọi chi tiết về sự sắp đặt và bố phòng trong đồn giặc.
Khi vợ khôn khéo tạo lập niềm tin và bí mật nắm tinh hình giặc thì chồng ráo riết vận động thanh niên trai tráng trong vùng, bí mật thành lập một đội dân binh, sẵn sàng chờ cơ hội để đánh úp đồn cổ Lộng. Bấy giờ, thấy giặc ra ngủ lại ở quán khá đông, Đinh Tuấn liền dẫn đội dân binh do mình chỉ huy, đến ôm từng bao mà quẳng xuống kênh. Xác giặc theo dòng chảy của kênh mà trôi ra sông Đáy. Kênh ấy vì thế mới có tên gọi là kênh Ma.
Khi chưa tìm được cơ hội tốt để có thể tiêu diệt đồn cổ Lộng thì vợ chồng Đinh Tuấn - Lương Thị Minh Nguyệt nhận được tin nghĩa quân Lam Sơn do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo đã giải phóng được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hoá trở vào Nam. Bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, cũng chẳng kể thân gái dặm trường, Lương Thị Minh Nguyệt đã tự lần mò, tìm đường vào tận Lỗi Giang (Thanh Hoá) để gặp Lê Lợi. Bà đến đúng vào lúc lính do thám của Lê Lợi cũng vừa bí mật đi thu thập tin tức từ vùng đồng bằng phía Bắc trở về và báo cáo rất đầy đủ những hoạt động của hai vợ chồng bà, vì thế, bà được Lê Lợi tiếp đón nồng hậu.
Từ Lỗi Giang trở về, Lương Thị Minh Nguyệt lại cùng chồng bàn định kế hoạch phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn đánh đồn cổ Lộng. Vào một đêm giữa tháng 9 năm 1426, khi phần lớn tướng sĩ của giặc trong đồn đã bị chuốc ruợu say khướt thì nghĩa quân Lam Sơn cùng với đội dân binh của Đinh Tuấn bất ngờ tấn công. Lương Thị Minh Nguyệt và các cô gái trẻ ở hàng nước nhanh tay mở toang cửa đồn. Chỉ trong chốc lát, toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt, đồn Cổ Lộng bị san bằng. Chiến thắng to lớn này đã khích lệ mạnh mẽ tinh thần nghĩa sĩ Lam Sơn và nhân dân trong khắp các vùng còn tạm bị quân Minh chiến đóng. Lam Sơn hiên ngang tiến ra Bắc và liên tiếp lập nên những chiến công vang dội để rồi hơn một năm sau đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, khiến cho “xã tắc từ đó vững bền.”
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khai sáng ra nhà Lê. Vợ chồng bà Lương Thị Minh Nguyệt hân hạnh được Lê Lợi mời ra Thăng Long. Cũng theo tờ thần tích nói trên, Lê Lợi đã ân cần nói:
-Trẫm từ khi khởi binh ở Lam Sơn, đánh dẹp quân Minh để cứu sinh linh của trăm họ, lòng chỉ mong sao cho sự nghiệp lớn chóng thành công. Thế nhưng, sở dĩ trẫm không thể thẳng tiến ngay ra Thăng Long được cũng chỉ vì đồn cổ Lộng vững chãi án ngữ ngay trước mặt. May sao có người đàn bà này bày mưu giúp sức, khiến cho trẫm sớm phá được đồn cổ Lộng để tiến quân. Đây là một trong những kì công thuộc vào hàng bậc nhất.
Sau lời khen ngợi đó, Lê Lợi đã phong cho bà Lương Thị Minh Nguyệt làm Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân và chồng bà là Đinh Tuấn được phong làm Kiến Quốc Trung Dũng Công thần.
Dân gian truyền rằng, bà Lương Thị Minh Nguyệt tâu vua:
-Thần thiếp vốn sinh ra ở nơi thôn dã, lập được chút công lao ấy cũng bởi nhờ oai trời và đức độ của nhà vua. Vợ chồng thiếp là kẻ quê mùa, đâu dám dự vào hàng quan chức. Nay chỉ xin vua rộng ban ơn đức cho dân làng của thần thiếp mà thôi.
Thể theo lời tâu của bà, Lê Lợi cấp cho dân làng Ngọc Chuế 200 mẫu ruộng để chia nhau cày cấy. Dân gian còn truyền rằng, sau khi một vùng đất hoang rộng lớn được phạt cỏ và dân đang hồ hởi đốt cỏ để lấy tro làm phân, Lê Lợi cho bà Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân một con ngựa để bà cưỡi đi nhận đất. Hễ dấu chân ngựa in trên tro tàn tới đâu thì đất cấp rộng tới đó. Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân vì thế mà có tên gọi rất thân mật là Bà Chúa Tro.
Ngày 25 tháng 11 năm Quý Sửu (1433), sau khi Lê Lợi tạ thế được hơn ba tháng, hai vọ chồng bà không hề lâm bệnh mà bỗng dưng cũng qua đời. Dân địa phương lập đền thờ cả hai ông bà. Triều đình phong cho cả hai ông bà làm phúc thần, lại còn cấp 100 mẫu ruộng để dân sở tại chung lo việc tế tự. Về sau, nhà sử học lừng danh, sống vào cuối thế kỉ 15, đầu thế kỉ 16, là Lê Tung có lời ca ngợi Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân rất cảm động. Xin trích dịch như sau: “Lớn lao thay, người phụ nữ lẫm liệt! Khí hùng mạnh như cả vạn binh. Giặc Ngô chiếm đóng ở thành cổ Lộng. Vua ta khởi nghĩa. Bà dốc chí theo về. Quân thiết ki của ta dũng mãnh tấn công. Đánh thành như là thắt nút túi. Nay cầm bút chép sử nước Việt. Tên tuổi của bà sánh ngang với Trưng Vương. Miếu đền đời đời cúng tế. Tiếng tăm truyền đến ngàn năm.
Đáng kính thay, Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân! Khi vận nước lâm nguy thì một lòng vì nước, khi non sống thái binh thì một dạ vì dân. Sinh thời, bà được kính trọng, tạ thế bà được tôn thờ, mới hay, người hạnh phúc nhất chính là người lúc nào cũng canh cánh chăm lo hạnh phúc cho muôn người. Đúng như cây đại bút Lê Tung đã viết, ngàn năm còn đó danh thơm của bà.
TUỔI 18 CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNGLê Thánh Tông là vua thứ năm của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1460 đến năm 1497. Đây là vị vua sáng giá vào hàng bậc nhất của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Lê Thánh Tông đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho văn hiến của nước nhà. Nhưng, lí lịch cuộc đời trước lúc lên ngôi của Lê Thánh Tông như thế nào?
Sử cũ chép rằng, ngay trước khi bước vào tuổi 18, thân sinh của vua Lê Thánh Tông là Lê Thái Tông (tên thật là Lê Nguyên Long, con của Lê Lợi, ở ngôi từ năm 1433 đến năm 1442) đã có khá nhiều cung tần mĩ nữ, trong đó, có năm người được nhà vua chính thức sách phong, đó là Dương Thị Bí (chưa rõ gốc tích, thân mẫu của Lê Nghi Dân), Nguyễn Thị Anh (thân mẫu của vua Lê Nhân Tông (1442 -1459), Lê Ngọc Dao (con gái của Đại Tư Đồ Lê Sát), Lê Nhật Lệ (con sái của Tể tướng Lê Ngân) và Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của Thái Bảo Ngô Từ).
Tháng 6 năm 1439, bà Dương Thị Bí sinh hạ Hoàng tử Lê Nghi Dân và đến tháng 1 năm 1440, Lê Nghi Dân được lặp làm Thái tử. Bà Dương Thị Bí cũng được sách phong làm Hoàng hậu. Nhưng, vì thấy Dương Thị Bí luôn tỏ ra đắc chí và kiêu căng, vua Lê Thái Tông lấy làm ghét, bèn truất giáng ngôi vị của cả hai mẹ con bà. Ngôi hoàng hậu sau đó thuộc về bà Nguyễn Thị Anh. Tháng 6 năm 1441, Nguyễn Thị Anh sinh hạ Hoàng tử Lê Bang Cơ. Tháng 11 năm 1441, Lê Bang Cơ được lập làm Thái tử (đến năm 1442, Lê Bang Cơ được lên nối ngôi, đó là vua Lê Nhân Tông). Khác với Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh tỏ ra rất khôn khéo trong việc bảo vệ ngôi vị của cả hai mẹ con.
Tháng 6 năm 1437, Đại Tư Đồ Lê Sát bị giết, con gái của ông bấy giờ là Nguyên phi Lê Ngọc Dao cũng bị phế làm đàn bà thường dân. Và, tháng 12 năm 1437, đến lượt Tể tướng Lê Ngân cũng bị triều đình khép vào tội phải chết, con gái của ông là Huệ phi Lê Nhật Lệ cũng bị giáng xuống hàng Tu Dung. Hậu cung chỉ còn hai người có danh giá nối bật nhất, đó là Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao.
Tuy ở ngôi Hoàng hậu, lại có con là Thái tử, nhưng xét thấy chồng là vua Lê Thái Tông còn quá trẻ, bà Nguyễn Thị Anh rất lấy làm lo âu. Một mai, nếu nhà vua có thêm những vị Hoàng từ kháu khỉnh và đáng yêu, thì biết đâu, thân phận của mẹ con bà rồi cũng chẳng khác gì thân phận của hai mẹ con bà Dương Thị Bí trước đó. Nghĩ vậy, Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh luôn tìm đủ mọi mưu sâu kể hiểm để hãm hại bà Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Tháng 12 năm 1437, chính bà đã nguỵ tạo chứng cớ để vu cho bà Ngô Thị Ngọc Dao tội đồng loã với Huệ phi Lê Nhật Lệ và Tể tướng Lê Ngân, đồng thời, xúi nhà vua khép Ngô Thị Ngọc Dao vào hình phạt phải cho voi xé xác. May thay, Ngô Thị Ngọc Dao được Nguyễn Trãi ra sức che chở. Thông qua người vợ lẽ của mình rất được nhà vua quý mến là Nữ Quan Học sĩ Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi đã luôn luôn nhắc nhở nhà vua, rằng chớ bao giờ cả tin mà làm những điều thất đức. Biết được sự thật này, Nguyễn Thị Anh hết sức căm tức, chỉ mong có cơ hội để trả thù mà thôi. Tháng 8 năm 1442, vua Lê Thái Tông đột ngột qua đời, Nguyễn Thị Anh vu cho Nguyễn Trãi tội ngầm bỏ thuốc độc để giết vua, và do đó, ông cùng tất cả gia quyến đã chịu cái án tru di thảm khốc. Sử gọi đó là vụ án Lệ Chi Viên, nhưng chuyện này xin được kể vào một dịp khác.
Khi nhà vua nghe lời Nguyễn Trãi, không làm chuyện thất đức với bà Ngô Thị Ngọc Dao thì cũng là khi bà Ngô Thị Ngọc Dao bắt đầu mang thai. Để tránh mọi bất trắc, được sự chấp thuận của nhà vua, Nguyễn Trãi đã bí mật đưa bà Ngô Thị Ngọc Dao ra khỏi hoàng thành, đến ở tạm trong chùa Huy Văn (nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Tháng 7 năm 1442, tức là đúng một tháng trước khi Nguyễn Trãi chịu án tru di, bà Ngô Thị Ngọc Dao đã sinh hạ một người con trai, đó là Lê Tư Thành. Vua Lê Thái Tông qua đời, Lê Bang Cơ là Thái tử, được đưa lên nối ngôi, và do đó, bà Nguyễn Thị Anh cũng nghiễm nhiên được tôn phong làm Thái hậu, được quyền buông rèm để trông coi chính sự. Chính vì đã nắm được tất cả quyền lực tối cao ở trong tay, mối lo ngại của bà Nguyễn Thị Anh về bà Ngô Thị Ngọc Dao giảm xuống rất nhanh.
Tháng 10 năm 1459, Lê Nghi Dân bất ngờ đem đồ đảng bí mật bắc thang trèo qua hoàng thành, vào giết chết cả vua Lê Nhân Tông và bà Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Năm đó, vua Lê Nhân Tông mới 18 tuổi. Lê Nghi Dân tự lập làm vua và ở ngôi từ tháng 10 năm 1459 đến tháng 6 năm 1460 thì bị cả triều thần lẫn hoàng tộc đồng lòng giết đi. Giết Lê Nghi Dân rồi, triều thần bèn đến rước Lê Tư Thành lên ngôi. Đó là vua Lê Thánh Tông. Khi ấy, nhà vua cũng vừa tròn 18 tuổi.
Mười tám năm trước khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Tư Thành đã phải sống một cuộc đời rất cơ cực. Ông không phải chỉ là sống gần dân mà là ở ngay trong dân, nhận sự chân thành chia xẻ cay đắng ngọt bùi của dân, và hiểu thấu mọi nguyện ước của dân. Bất chấp mọi khó khăn trở ngại, Lê Tư Thành ngày đêm miệt mài học tập, và nhờ bẩm tính thông minh, ông đã sớm nổi tiếng hiền đức với đời. Và, như trên đã nói, ngày 8 tháng 6 năm Canh Thìn (1460), Lê Tư Thành được đông đảo đại thần cùng một số hoàng tộc, đồng lòng tôn lên ngôi Hoàng đế.
Ngôi vị ở đời kể cũng lạ. Có người làm được nhưng lại không được làm, ngược lại, có người được làm nhưng lại không làm được. Riêng vua Lê Thánh Tông thì khác: ông vừa được làm lại vừa làm được một cách xuất sắc. Ngay ở tuổi 18, ông đã tỏ ra chững chạc và sắc bén lạ thường. Dân gian truyền tụng rằng, một phần quan trọng của bản lĩnh Lê Thánh Tông là do người mẹ tạo dựng và vun đắp cho. Tương truyền, khi các quan văn võ đến đón rước Lê Tư Thành về tôn lên ngôi vua, bà Ngô Thị Ngọc Dao đã bắt con quỳ xuống trước mặt và hỏi:
-Con có biết nhờ ai mà mẹ được thoát chết để rồi sau đó sinh ra con và giờ đây con có may mắn được làm Hoàng đế của nước Đại Việt hay không?
Lê Tư Thành đáp:
-Thưa mẹ, đó là nhờ ơn đức ra tay cứu mạng của quan Thừa Chỉ Nguyễn Trãi ạ.
Bà Ngô Thị Ngọc Dao liền nói:
-Vậy, nhân danh Hoàng đế nước Đại Việt, con phải minh oan cho người, đừng để đấng trung thần nhân đức ấy phải ngậm hờn nuốt tủi mãi ở dưới suối vàng.
Thấy con cung kính lắng nghe, bà lại hỏi tiếp:
-Con có biết nhờ ai mà mẹ con ta có thể sống qua ngày đoạn tháng ở chốn bị đọa đày này không?
Lê Tư Thành đáp:
-Thưa mẹ, đó là nhờ những người nghèo ở xóm Văn Chương cạnh ngôi chùa này, những người giàu lòng nhân ái đã sẵn lòng nhường cơm sẻ áo cho hai mẹ con ta.
Bà Ngô Thị Ngọc Dao nói:
-Con biết đấy, thường thì chỉ có người nghèo mới là người tốt. Vậy, nhân danh Hoàng đế của nước Đại Việt, con hãy làm sao cho người tốt bớt nghèo.
Về sau, chính vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, đồng thời, ban hành rất nhiều chính sách tích cực và tiến bộ, đưa Đại Việt lên vị trí của một cường quốc ở vùng Đông Nam Á. Vua Lê Thánh Tông mất ngày 30 tháng 1 năm Đinh Tị (1497) hưởng thọ 55 tuổi. Xưa nay, ai cũng ca ngợi 37 năm trị vì của nhà vua, có biết đâu rằng, mọi sự tốt đẹp của 37 năm ấy đã được chuẩn bị suốt 18 năm đầu của cuộc đời ông. Tuổi 18 của Lê Thánh Tông kính thay!