← Quay lại trang sách

- 10 - THUỞ HÀN VÌ CỦA TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN KÌ

Người xưa từng dạy, đại ý nói rằng: kẻ đi học mà chỉ biết khoe giàu thì trí não chẳng thể khá, chỉ biết khoe sang thì tâm địa chẳng thể tốt, còn như gồm đủ cả hai thì vô tài thất đức là điều khỏi phải bàn. Các đấng đại hiền xưa nay đều thế cả, hoặc từ chốn bần hàn mà dốc chí đi lên, hoặc từ chốn cao sang nhưng luôn khép mình trong gia giáo, thoáng nhìn chẳng thể nào biết được.

Mới hay, trước khi học làm quan, phải cố học cho thành người học trò đàng hoàng. Thế gian muôn đời chỉ chê học trò dốt, có ai chê học trò nghèo đâu.

Đúng là chẳng những không chê mà còn khen, rất khen, rất phục tất cả những ai giàu ý chí và nghị lực vượt qua nghèo khó để học tập và vươn lên. Trong số những người được đời vừa khen vừa phục ấy, có Trạng nguyên Nguyễn Kì.

Thư tịch cổ cho hay, Nguyễn Kì sinh năm Mậu Dần (1518) tại xã Bình Dân, huyện Đông Yên (nay thuộc xã Tân Dân, huyện Châu Giang, tình Hưng Yên). Lúc đầu, Nguyễn Kì có tên là Nguyễn Thì Lượng. Gia đình Nguyễn Thì Lượng rất nghèo, hai bên nội ngoại đều phải vất vả làm lụng quanh năm suốt tháng mà vẫn không đủ ăn. Tuy thiếu thốn trăm bề nhưng dòng họ Nguyễn Thì Lượng rất chăm lo giữ đức, dân khắp vùng lúc bấy giờ ai ai cũng cảm mến.

Truyền thuyết kể rằng, cha mẹ Nguyễn Thì Lượng ăn ở rất hiền lành, họ kết hôn với nhau từ lúc còn rất trẻ nhưng mãi đến năm ngoài bốn mươi tuổi vẫn chưa có con. Một hôm, có thầy coi tướng qua làng, vừa thoáng trông thấy bà đã nói:

-Ông bà tuy hiếm muộn nhưng con bà sẽ vô cùng quý hiển. Nhưng, muốn được như thế thì ông bà phải vào hầu của Phật.

Nghe vậy, hai ông bà liền phát từ tâm, được bao nhiêu tiền của, dù là rất ít ỏi, chưa đủ để lo toan đắp đổi mọi việc trong nhà, ông bà vẫn đem hết đi mua nhang, mua hoa để vào chùa lễ Phật. Cần mẫn hai năm như thế thì bà sinh hạ được một người con trai, đó là Nguyễn Thì Lượng.

Ngay từ lúc mới chào đời, Nguyễn Thì Lượng đã có gương mặt khôi ngô lạ thường. Hai ông bà quý con như vàng như ngọc, nhưng, nhớ đến lời thầy tướng thuở nào, khi Nguyễn Thì Lượng vừa lên ba, họ liền đem vào chùa, xin sư trụ trì ở đấy nhận làm con nuôi. Và, bắt đầu kể từ đó, Nguyễn Thì Lượng ở hẳn trong chùa, được sư thầy trụ trì nuôi dưỡng và dạy dỗ.

Năm Nguyễn Thì Lượng lên bốn tuổi, sư thầy trụ trì phát hiện ra một sự lạ, đó là nhờ chơi quanh quẩn trong chùa, Nguyễn Thì Lượng đã nghe và thuộc được rất nhiều bài kinh nhật tụng. Sư thầy liền thử đọc cho Nguyễn Thì Lượng nghe vài bài kinh kệ khác. Nguyễn Thì Lượng cũng học thuộc rất nhanh. Các bậc tu hành cùng Phật tử và thiện nam tín nữ đến chùa, ai ai cũng nói Nguyễn Thì Lượng là thần đồng. Sư trụ trì nhân đó cho đổi tên gọi Nguyễn Thì Lượng là Nguyễn Kì. (Chữ Kì này có nghĩa là kì lạ). Lại thấy Nguyễn Kì tuổi nhỏ mà mẫn tuệ khác thường như vậy, lớn lên ắt sẽ là lương đống của triều đình, sự nghiệp phò vua giúp nước nhất định sẽ lớn lao, cho nên, sư thầy trụ trì quyết định cho Nguyễn Kì đi học.

Nguyễn Kì được đưa tới trường, nhưng cũng chỉ được ăn, được mặc như tất cả những học trò nghèo khác, ấy là bởi sư thầy trụ trì sợ Nguyễn Kì được no đủ sớm quá sẽ sinh ra biếng nhác. Ngày ngày, cứ hễ hết giờ đi học là Nguyễn Kì lại phải làm đủ thứ việc, không bao giờ được ngơi tay, ấy là bởi sư thầy trụ trì sợ Nguyễn Kì chưa học được đức lớn của người xưa đã bị nhiễm thói hư ăn bám. Cũng như bao học trò khác, Nguyễn Kì phải học bài vào ban đêm, nhưng sư thầy trụ trì cũng không cho tiền mua dầu, ấy là để rèn cho Nguyễn Kì tính cần kiệm. Đêm đêm, Nguyễn Kì ngồi dưới điện thờ Phật, học bài dưới ánh sáng của mấy ngọn nến thờ, học đến bao giờ nến tắt mới đi ngủ. Sư thầy trụ trì thấy Nguyễn Kì chăm chỉ, liền dùng những cây nến lớn hơn để thắp trên điện thờ, Nguyễn Kì nhờ đó mà được học khuya hơn.

Đã thông minh lại có chí lớn, Nguyễn Kì học hành tấn tới rất nhanh, tiếng tăm của ông ngày một vang rộng. Năm Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hoà năm thứ nhất (1541), Nguyễn Kì đỗ Trạng nguyên. Năm đó, nhà Mạc lấy đỗ tất cả 30 người, gồm Trạng nguyên Nguyễn Kì, Bảng nhãn Phạm Công Sâm, Thám hoa Nguyễn Thế Lộc và bốn Hoàng giáp là Ngô Quang, Lê Củ Phương, Nguyễn Hoằng Diễn và Trương Hữu Phỉ, còn lại là Tiến sĩ.

Truyền thuyết kể rằng, ngày vinh quy bái tổ, nơi Nguyễn Kì dừng chân trước hết là nhà chùa. Ông thành kính thi lễ tạ ơn sư thầy trụ trì, xong thì cúng chùa đến mấy gánh nến, gồm toàn những cây có kích cỡ đại để như những cây trước đó sư thầy trụ trì đã thắp trước điện thờ Phật cho Nguyễn Kì học ké. Sư thầy cười hỏi:

-Chẳng lẽ lại còn cò đứa trẻ khác đến đây ngồi học nữa sao?

Nguyễn Kì cung kính đáp:

-Kính bạch sư thầy. Cũng một cây nến, nhưng trong tay con thì bất quá chỉ soi sáng được vài trang sách, vậy mà trong tay sư thầy thì lại đủ để soi sáng cho cả một đường đời. Con tin sẽ còn có nhiều học trò nhỏ đến cậy nhờ ánh sáng sư thầy ban cho.

Sau, Nguyễn Kì làm quan cho nhà Mạc, trải thờ hai đời vua là Mạc Hiến Tông (tức Mạc Phúc Hải: 1540 -1546) và Mạc Tuyên Tông (tức Mạc Phúc Nguyên: 1546 -1561). Sử chỉ chép ông được phong chức Hàn Lâm Viện Thị Thư, còn sau đó hoạn lộ ra sao không rõ, mất năm nào cũng không hay.

Nguyễn Kì, tên ấy, sự nghiệp ấy, xứng thay! 

THIÊN TÌNH SỬ TUỔI 18 CỦA TIẾN SĨ NGUYỄN BÁ DƯƠNG

Nguyễn Bá Dương, người làng Nguyễn Xá, huyện Thần Khê (nay làng ông thuộc huyện Tiên Hưng, tinh Thái Bình), ông sinh năm Canh Thân (1740), đỗ Hương cống (tức Cử nhân) năm Ất Dậu (1765) và đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất (1766), cùng khoa với Ngô Thì Sĩ (thân sinh của Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm).

Nguyễn Bá Dương rất chăm học và học giỏi, nhưng gia đình ông lại rất nghèo. Bởi kì vọng ở ông, cho nên, dẫu là nghèo đến độ ít có ai nghèo hơn, cha mẹ ông cũng cắn răng chịu đựng để nuôi ông ăn học. Đã thế, năm ông 18 tuổi, cha mẹ ông còn gởi ông lên kinh đô Thăng Long để học hành. Khi rời quê nhà đến kinh đô Thăng Long, hành lí của ông chẳng có gì đáng kể, ngoài tấm áo che thân.

Tuy nghèo như vậy, nhung, Nguyễn Bá Dương lại có tật ưa uống rượu, ông là khách uống chịu thường xuyên của một bà hàng rượu ở Kẻ Mơ (nay thuộc Hà Nội). Chẳng bao lâu, tiền uống chịu đã lên đến 900 đồng. Một hôm, ông bị bà chủ hàng rượu đón đường để đòi và mắng té tát ngay ở chỗ đông người. Bởi không sao trả được, ông đành đứng im chịu nhục mà thôi. Bấy giờ, có cô gái Kẻ Mơ, người cùng làng với bà chủ hàng rượu, thấy chuyện chẳng đẹp như thế, liền bỏ gánh xuống, lấy tiền lưng của mình ra trả hộ, xong là tất bật quẩy gánh đi ngay. Nguyễn Bá Duơng vội chạy theo và thành tâm cám ơn rồi xin được biết họ tên của cô gái, nhưng cô xua tay mà nói rằng:

-Chẳng qua em thấy cậu là học trò, vì nợ tiền ruợu mà phải xấu hổ với một người đàn bà ở chốn người qua kẻ lại nên trả hộ chớ em đây chẳng mong báo đáp gì đâu.

Thấy cô dứt khoát từ chối, không cho biết địa chỉ và họ tên, ông bèn quay lại hỏi thăm ngay... bà hàng rượu. Lúc ấy, bà hàng rượu cũng đã nguôi giận, liền nói cho ông biết tất cả. Nguyễn Bá Dương lẩm nhẩm đọc lại cho đến khi thật thuộc mới chịu bỏ đi. Từ đó, ông bỏ rượu và dốc chí học hành. Như trên đã nói, năm 25 tuổi, ông đỗ Hương cống (tức Cử nhân) và năm 26 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ.

Sau khi đỗ đạt, bạn đồng khoa với ông lo sắm sửa đủ thứ, riêng ông thì vẫn cứ nằm khoèo ở nhà. Bấy giờ, có bà phu nhân đang làm bảo mẫu cho Quận Chúa (con gái của chúa Trịnh), vốn là người cùng huyện với ông, sai người đến tận nơi, nói là sẽ gả con hoặc cháu của bà cho ông. Bà giới thiệu cho ông đến mấy chục người cả con lẫn cháu để ông tuỳ nghi chọn lựa, nhưng, ông từ chối, chỉ xin cưới cô gái Kẻ Mơ, người đã hào hiệp trả món tiền rượu nọ cho ông thuở trước. Thế rồi ông cưới cô gái Kẻ Mơ thật. Người đương thời ai cũng khen, truyền tụng với nhau rằng, đó là duyên kì ngộ giữa một cô gái giàu lòng nhân ái và đoan trang với một chàng trai có tài và trọng nghĩa.

Sau, Nguyễn Bá Dương được bổ làm quan, được bạn đồng liêu khen là người thanh liêm và chính trực, ông dám xử phạt rất nặng cả người nhà của bà Chúa Chè (tức Đặng Thị Huệ, Chính Cung của chúa Trịnh Sâm) về tội ăn hối lộ.

Sách xưa cho rằng, ở tuổi 18, Nguyễn Bá Dương đã có đến hai sự nổi tiếng khác nhau, một là nát rượu, hai là thông minh. Nhưng, xét kĩ thì ông còn có sự nổi tiếng thứ ba nữa, đó là lòng trọng nghĩa và thiên tình sử nảy sinh từ lòng trọng nghĩa đáng quý ấy. Phàm là người ở giữa cõi trần thế, đã đến hoặc đã qua tuổi 18 rồi mà không biết trọng nghĩa, thì thông thái cũng bằng thừa mà thôi. Vả chăng, trọng nghĩa với đấng bề trên đã khó, trọng nghĩa với một cô gái thôn dã chưa một lần quen biết thì lại càng khó hơn. Thế ra, người ta lấy vợ thì thường chỉ là được vợ, còn Nguyễn Bá Dương lấy vợ, ngoài được vợ lại được thêm cả lòng người một thuở, kính thay! Hẳn nhiên là có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng lòng cương trực và đức thanh liêm của ông sau này, không thể nói là không có sự góp phần quan trọng của cô gái Kẻ Mơ. Người vợ đáng yêu nhất trong muôn thuở vẫn là người có công góp phần hoàn thiện nhân cách của chồng mình đó thôi. Ngẫm mà xem.

THẦN ĐỒNG ĐINH THÌ TRUNG

Một trong những thần đồng lừng danh của nước ta, sống vào nửa sau của thế kỉ thứ 18 là Đinh Thì Trung (1757 -1776). Ông người huyện Đông Sơn (nay thuộc Thanh Hoá). Sách xưa cho hay rằng, khi ông vừa lên năm thì ở làng ông có cụ đồ đến mở trường dạy học. Lũ trẻ quanh vùng tới xin thọ giáo rất đông. Đinh Thì Trung tuy còn quá nhỏ nhưng vì đã học lóm được khá nhiều chữ, bởi thế, cũng được thân phụ dắt đến gặp cụ đồ. Bấy giờ, cụ đồ đang ngồi nhắm rượu một mình, thấy Đinh Thì Trung có đôi mắt rất tinh anh, lòng những mừng thầm, nhưng cũng cố thử xem sao, bèn nói:

-Đây chỉ nhận dạy những đứa trẻ đã biết chữ và viết sơ qua về phép đối, nếu chưa biết đối cả một vế dài thì cũng phải biết đối nghĩa của từng chữ, liệu con có làm được không?

Đinh Thì Trung gật đầu một cách lễ phép nhưng cũng rất tự tin. Cụ đồ cầm li rượu đưa lên và đọc: tửu (nghĩa là rượu), Đinh Thì Trung liền đáp: đăng (nghĩa là đèn). Chữ tửu bên trái có bộ thủy (水) nghĩa là nước, còn chữ đăng ở bên trái có bộ hoả (火) nghĩa là lửa. Và, chữ đăng cũng có thể viết là (水丁) (bên trái bộ thuỷ, bên phải là chữ đinh, người họ Đinh cũng dùng chữ đinh này). Chữ của Đinh Thì Trung đối lại, có nghĩa là ngọn lửa sáng của dòng họ Đinh. Cụ đồ nghe xong thì phục lắm, nhưng vẫn cố thử thêm một lần nữa. Cụ đọc:

-Tam xuyên (nghĩa là ba dòng nước)

Hai chữ này còn hàm ý chỉ ba người (cụ đồ và hai cha con Đinh Thì Trung), nhưng cái lắt léo là ở chỗ, chữ tam (三) nếu dựng đứng lên sẽ thành chữ xuyên (川). Đọc xong, cụ đưa mắt nhìn Đinh Thì Trung, Đinh Thì Trung cũng điềm tĩnh nhìn lại và đúng lúc bốn mắt nhìn nhau, ông đọc:

-Tứ mục (nghĩa là bốn mắt).

Hai chữ này vừa tả được cảnh cụ đồ và Đinh Thì Trung nhìn nhau, lại vừa đối được cái ý lắt léo của cụ đồ. Bởi vì: chữ tứ (四) nếu đem dựng ngược lên sẽ thành chữ mục (目). Đến đây, thi cụ đồ bái phục quá, bèn nói với thân phụ của Đinh Thì Trung rằng:

-Cậu bé này sáng dạ như thần, tôi không thể dạy hơn được, vậy, hãy mau đưa cậu đi xin học ở những lớp cao hơn.

Đinh Thì Trung liền được dẫn đến một trường khác. Khi ấy, học trò của trường này đang làm thơ, đề là Hán Vương như Huỳnh Dương. Thấy có người đang bí, Đinh Thì Trung liền cầm bút viết hộ hai câu:

Ba Thục an năng uất tịch cư

Huỳnh Dương bát nguyệt Hán Vương như

(Nghĩa là: Đất Ba Thục làm sao có thể dung thân qua đêm; Tháng tám, vua Hán đi Huỳnh Dương). Thầy đồ dạy ở trường ấy xem xong hai câu này thì kinh ngạc mà nói:

-Thiên tài đến cỡ này rồi, còn đến đây xin học làm gì nữa!

Năm lên tám tuổi, Đinh Thì Trung đã học xong cả Ngũ kinh, Tứ thư và Bắc sử. Năm mười bốn tuổi, ông đỗ Hương cống (tức Cử nhân) và sau đó được vào học thêm tại Quốc Tử Giám. Bấy giờ, cả nước ai cũng biết tới tài học của Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 - 1772). Họ cùng được tôn là tam hổ, tuy nhiên, tài học của Lê Quý Đôn và Hà Tông Huân vẫn có phần trội hơn. Trong các cuộc ngâm vịnh xướng hoạ, thơ văn của hai ông này luôn được xếp trên thơ văn của Lê Như Kì. Đinh Thì Trung biết tiếng tam hổ nên cũng muốn thủ sức, bèn tìm đến và chỉ giúp cho Lê Như Kì. Bởi lẽ này, Lê Như Kì có thơ văn trội hơn cả Lê Quý Đôn và Hà Tông Huân đến mấy lần ngâm vịnh xướng hoạ. Lê Quý Đôn, Hà Tông Huân và Lê Như Kì đều kính phục tài học của Đinh Thì Trung, cùng tôn chàng thanh niên chỉ mới đáng tuổi con cháu của mình làm thượng hữu (bạn ở bậc trên), còn người đời thì gọi chung cả bốn người là tứ hổ.

Năm 1775, cả Đinh Thì Trung và con của Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt cùng dự thi Hội. Rất tiếc là trong khoa thi này, hai người đã làm một việc chẳng hay, đó là đổi quyển thi cho nhau. Việc bị phát giác, Đinh Thì Trung bị đày ra ngoài Quảng Yên (nay thuộc Quảng Ninh). Nhân sự việc này, người đương thời có câu rằng: “Đinh Thì Trung tống phối, chấn Đông Hài chi văn ba”. Nghĩa là: Đinh Thì Trung bị đem đi đày (ở vùng ven biến Quảng Yên), làm tung cả sóng văn chương ở Đông Hải.

Sau, ông được tha, nhưng phải đi lính. Năm 1776, Đinh Thì Trung bị bắt trong khi đi đánh dẹp. Ông không chịu đầu hàng mà nhảy xuống sông tự tử. Năm ấy, ông mới 19 tuổi. Người đời thương tiếc, cho ông chính là kiếp sau của Vượt Bột (nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng) vậy.

NHỊN NHỤC NUÔI CHÍ ĐI HỌC VÀ ĐI THI

Phàm ở đời, bất cứ ai muốn thành công lớn cũng đều phải có chí lớn, mà chí lớn cũng phải được hun đúc từng ngày, nuôi dưỡng thường xuyên mới hi vọng là không bị mai một. Không ít trường hợp, vì quyết chí đạt cho bằng được mục tiêu cao cả và tốt đẹp của mình, người ta còn sẵn sàng nhịn nhục. Chuyện Uông Sĩ Đoan cũng có thể được coi là một ví dụ tiêu biểu của người xưa về vấn đề này. Ông Kính Phủ Nguyễn Án (1770 -1815), trong Tang thương ngẫu lục viết rằng:

“Khi chưa đỗ đạt, ông Uông Sĩ Đoan ở rể tại một nhà giàu trong làng tôi (tức làng của Nguyễn Án -NKT) và đã sinh hạ được một người con trai. Người vợ của ông tính khí rất dữ dằn, hễ thấy bạn của chồng đến chơi là đuổi thẳng, lại còn lải nhải nói rằng:

-Cái đồ... dài lưng tốn vài ăn no lại nằm chứ gì mà cứ nói năng ỏm tỏi ra chiều bắng nhắng thế.

Đến khi có khoa thi, ông sắm sửa để đi, nhưng người vợ keo kiệt, quyết không chu cấp lệ phí gì cả. Ông giận dỗi rồi vùng vằng ra đi, ai dè, bà ta đuổi theo, lột hết quần áo, khiến ông phải lội xuống ao để... núp. Bấy giờ, có một cô gái ở làng bên cạnh đang cùng với bà nội mang vải ra chợ bán, thấy cảnh ấy, liền nhờ bà nội tới hỏi xem đầu đuôi sự thể thế nào. Xong, cô xé vải tặng ông để ông đóng khố dùng tạm. Khoa ấy ông đỗ, liền cưới cô gái này làm vợ. Sau, ông làm quan trong triều đến hơn sáu mươi năm, thọ 99 tuổi. Người con gái này, sau là chính phu nhân của ông. Các quan Bồi Tụng là (Uông) Sĩ Lãng, (cũng tức là Uông Sĩ Điển -NK.T), Tri huyện của huyện cẩm Giang là (Uông) Sĩ Thiên, Lại Bộ Lang Trung là (Uông) Sĩ Trạch, đều do bà chính phu nhân này sinh ra.”.

Các tài liệu dã sử khác cho biết thêm, Uông Sĩ Đoan vốn gốc họ Giang, nhưng đến đời ông không hiếu vì lí do gì, đã đổi thành họ Uông. Chính Uông Sĩ Đoan là người khai mạch đại khoa cho dòng họ của mình. Chuyện ông đỗ đạt nói trên là đỗ Tiến sĩ, khoa Tân Sửu (1721). Thế là từ một kẻ “bạch diện thư sinh”, bị coi là cái đồ... “dài lưng tốn vải”, nhờ có chí mà Uông Sĩ Đoan đã trở thành một ông Nghè, và tất nhiên, ông Nghè thời ấy là... “dân chi phụ mẫu.”

Cô con gái nhà giàu - người vợ cũ của Uông Sĩ Đoan -chỉ thấy bát cơm trước mắt mà không thấy được cả một đồng lúa tốt mênh mông, chỉ thấy cái lưng dài của học trò mà không thấy được kho trí tuệ ở trong đầu của họ, song le, trách cô nào có ích gì? Có thế, cô mới là cô chứ. Người xưa nói rằng “yến trước an tri hồng hộc chí” (con chim sẻ làm sao biết được chí lớn của chim hồng hộc), là để chỉ những trường hợp đại loại như thế này.

Tương truyền, sau khi ông cưới cô gái đã hào phóng tặng cho mình miếng vải làm khố, bà vợ của ông liền chạy đến... kiếm chuyện. Cô vợ mới của Uông Sĩ Đoan nói:

-Tôi chỉ lấy cái mà bà đã nhẫn tâm vất xuống ao chứ có giành gì của bà? Còn như áo mũ hiện giờ chồng tôi đang dùng là của vua ban, bà có giỏi thì cứ đến mà lột.

Vợ cũ của Uông Sĩ Đoan xấu hổ quá, bèn bỏ xứ mà đi, sau, không còn ai biết tung tích ra sao nữa. Nhưng thôi, chỉ để lại một chuyện này kể cũng đã quá thừa, tìm tung tích của bà, lỡ lại gặp thêm chuyện tương tự như thế này nữa, sợ lắm thay, ở đời, có những người nổi tiếng chẳng qua chỉ vì họ tầm thường, và chính vì càng tầm thường cho nên họ càng trở nên nổi tiếng. Hãy tránh xa.

Kẻ sĩ chân chính của đông tây kim cổ thường để lại cho đời những di sản phong phú khác nhau. Như Uông Sĩ Đoan, di sản đáng kính mà ông để lại chính là sự nhịn nhục để nuôi chí đi học và đi thi. Có phải ngẫu nhiên mà các con ông đều đại thành đạt đâu?

HOÀNG KIM SÁN: TỰ HỌC VẪN THỪA SỨC; ĐỂ... CHẤM THI CHO TIẾN SĨ!

Lịch sử giáo dục xưa nay vẫn thường cho thấy có ba hạng người nổi tiếng rất khác nhau. Một là những người đã có học vị cao lại còn có cả thực tài, trọn đời chỉ đốc chí đem tài năng của mình ra phục vụ xã hội. Tên tuổi của họ vĩnh tồn cùng sử sách. Hai là những người chỉ có học cho có bằng cấp để lẩy làm vinh hiển riêng, vốn liếng tri thức bất quá chỉ đủ để họ vượt qua được kì thi mà thôi. Họ nỗi danh nhờ ở sự tầm thường đáng sợ. Ba là những người vì hoàn cảnh hoặc sở nguyện riêng nên chỉ cần mẫn học hỏi chứ không hề tham gia thi cử, vì thế họ chẳng có bằng cấp gì đáng kể, nhưng, chính họ lại thực sự là những nhà thông thái, trí tuệ uyên bác hơn người. Họ nổi danh nhờ ở sự kính phục của thiên hạ. Trong số những người này, có Hoàng Kim Sán.

Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 17) thì tổ tiên Hoàng Kim Sán vốn người huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sau, không rõ vì lí do gì đã di cư đến huyện Phong Lộc, tình Quảng Bình. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 -1765), thân sinh của Hoàng Kim Sán là Hoàng Văn Hoán rất nổi tiếng văn tài. Hoàng Văn Hoán từng được mời vào làm thầy dạy học trong phủ Chúa. Dưới thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Thuần, lợi dụng lúc Đàng Trong bị quân Tây Sơn tấn công quyết liệt, chúa Trịnh đã cho hơn ba vạn quân đánh thẳng vào Phú Xuân, Nguyễn Phúc Thuần vội vã chạy vào Gia Định lánh nạn, Hoàng Văn Hoán cũng rời phủ Chúa, dắt díu gia đình chạy đến Bút Sơn để mở trường dạy học, lấy đó làm kể sinh nhai.

Hoàng Kim Sán là con trai thứ hai của Hoàng Văn Hoán. Ngay từ thuở tấm bé, ông đã nổi tiếng thông minh. Chuyện kể rằng, lúc mới lên năm tuổi, ngày ngày, Hoàng Kim Sán vẫn thường theo cha đến trường, khi cha dạy học thì ông cũng ngồi nghe như tất cả những học trò khác. Thỉnh thoảng, ông lại lân la lần giở sách của học trò, hỏi và châm chú lắng nghe họ giảng giải từng chữ, từng câu một. Cứ như thế, đến năm lên mười tuổi, ông đã có thể làm thơ và ứng đối rất trôi chảy.

Một lần, Hoàng Văn Hoán mở tiệc chiêu đãi các bậc tao nhân mặc khách trong vùng. Tất cả vừa uống rượu vừa ngâm vịnh xướng hoạ với nhau. Hoàng Kim Sán cũng được cha cho ra hầu tiệc. Mọi người làm thơ vịnh Bút Sơn. Hoàng Kim Sán làm thơ hoạ lại. Bài thơ hoạ của ông có câu: “Vị dư thủ thự môn bảng" (nghĩa là: Vì ta viết lên đầu bảng cửa trời). Nhiều người khen câu này chứa khẩu khí của bậc có hoài bão lớn, nhưng, cũng có kẻ khó tính, mượn tích từ Kinh, Lễ, ra đề là Tịch thường trân (đấng Nho gia đại đức ung dung ngồi trên chiếu đợi người đến dâng lễ vấn kế), cốt lấy sự lắt léo để thử tài Hoàng Kim Sán. Chẳng dè, Hoàng Kim Sán hạ bút viết ngay một mạch. Bài viết của ông có câu: “Thúc Bạch nhất tòng nham huyệt bí; Cao Quỳ toạ thượng triển kinh luân ” (nghĩa là: bó Thúc Bạch, tức bó lụa người xưa dùng để làm lễ thỉnh người hiền tài, một lần mang tới hang núi là nơi đấng đại trí chọn là chỗ ẩn mình, ắt sẽ thấy có Cao Quỳ -nhân vật tượng trưng cho trí tuệ và đức độ cao khiết của đấng quân tử -đang ngồi giảng giải kinh luân). Đọc đến câu này, ai ai cũng phải phục tài của Hoàng Kim Sán.

Năm Hoàng Kim Sán hai mươi tuổi thì thân phụ của ông là Hoàng Văn Hoán cũng đã già việc giảng dạy học trò đều uỷ thác hết cho Hoàng Kim Sán. Và, ông đã tận tuỵ làm việc, xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao của cha. Học trò nhiều người còn lớn tuổi hơn cả Hoàng Kim Sán, nhưng, không ai không một lòng nể phục.

Năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm lại được Phú Xuân và xuống lệnh tìm người hiền tài để bổ làm quan. Thể theo lời khuyên của cha già, Hoàng Kim Sán đã ra dự tuyển, ông vượt qua cuộc sát hạch ở địa phương một cách rất nhẹ nhàng, vì thế, được bổ làm quan. Năm 1804, Hoàng Kim Sán là Tri huyện của huyện Lệ Thuỷ (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Nhờ nổi tiếng có tài xử việc nhanh chóng và chính xác, lại sống giản dị và tham liêm, chẳng bao lâu sau, ông được thăng chức Thiêm Sự của bộ Lễ. Năm 1824, Hoàng Kim Sán được vua Minh Mạng bổ làm Thự Tham tri, quyền cai quản Bộ Hình. Và, chỉ một thời gian rất ngắn sau đó, ông lại được thăng làm Thượng Thư Bộ Hình. Dưới thời Minh Mạng, Hoàng Kim Sán còn được trao nhiều trọng trách khác, như Thượng Thư Bộ Binh kiêm Tống đốc Nam Định và Hưng Yên. Ông nổi tiếng là người rất thanh liêm, suốt một đời làm quan chưa từng nhận của ai một chút quà biếu. Bọn tham quan ô lại đương thời, hễ nghe tiếng ông là kinh hồn bạt vía.

Tuy nhiên, Hoàng Kim Sán nổi tiếng với đời lâu bền hơn cả có lẽ vẫn là có ý chí tự học không ngừng. Khi đã có quyền cao chức trọng, dẫu công việc luôn luôn bộn bề, Hoàng Kim Sán vẫn không xao lãng việc học. Trong lịch sử các vị vua chúa nước ta, có lẽ Minh Mạng là người thuộc hàng nổi tiếng khó tính nhất, thế nhưng, cũng chính nhà vua này, trong khoa thi Hội năm 1829, đã quyết định cử Hoàng Kim Sán làm quan chủ khảo. Đây là một quyết định rất táo bạo, bởi năm này, vua Minh Mạng cho đổi gọi một loạt học vị cũ (như Sinh đồ thì đổi gọi là Tú tài, Hương cống hay cống sĩ thì đổi gọi là Cử nhân) và đặt thêm học vị mới là Phó bảng hay Ất bảng... mà Hoàng Kim Sán chỉ là người tự học, chưa từng đỗ đạt ở bất cứ một khoa thi chính thức nào, chưa hề có trong tay một học vị cụ thể nào. Thành bại của khoa thi này có ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ chế độ giáo dục và thi cử Nho học của nhà Nguyễn sau đó. Đáp lại niềm tin cậy lớn lao đó, Hoàng Kim Sán đã cố gắng hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình, ông đã thực sự chọn được những người có tài cho đất nước, được sử cũ hết lời khen ngợi. Theo ghi chép của sách Quốc Triều khoa bảng lục, thì khoa này Hoàng Kim Sán đã lấy đỗ những người cụ thể như sau:

-Hoàng Giáp: một người (Nguyễn Đăng Huân).

-Tiến sĩ: tám người (Bùi Ngọc Quỹ, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Tông, Trương Quốc Dụng, Phạm Thế Lịch, Ngô Thế Vinh, Phạm Quý và Trần Huy Phác.).

-Phó bảng: năm người (Phạm Văn Hợp, Dương Đăng Dụng, Phan Văn Nhã, Nguyễn Thường và Trần Ngọc Dao).

Tổng cộng khoa này có tất cả mười bốn người đỗ từ Hoàng giáp đến Phó bảng. Trong số mười bốn người này, có những người về sau rất nổi tiếng, như Nguyễn Đăng Huân, Phạm Thế Hiến, Trương Quốc Dụng, Ngô Thế Vinh... Quả là quan chủ khảo Hoàng Kim Sán đã nghiêm cẩn chọn đúng người tài.

Ngoài trí tuệ uyên bác và đức thanh liêm, Hoàng Kim Sán còn là tấm gương của lòng hiếu thảo. Sách Đại Nam liệt truyện cho biết thêm rằng, sinh thời, vì biết thân mẫu của mình rất thích ăn chuối và mít, vì thế, cả đời ông, không bao giờ dám đụng tới hai thứ quả này. Mỗi khi có việc cần thưa trình với cha là Hoàng Văn Hoán, ông rất cung kính và nói năng nhẹ nhàng đến nỗi lúc đó không ai có thể nhìn thấy răng ông.

Năm 1832, Hoàng Kim Sán qua đời khi đang tại chức, hưởng thọ 57 tuổi. Vua Minh Mạng sai quan đến tận nơi tế lễ rất chu tất. Về sau, vua Minh Mạng từng nhiều lần than phiền về sự bất cập của trí tuệ các bậc đại khoa, nhưng với Hoàng Kim Sán, người chỉ một đời tự học, thì nhà vua luôn ca ngợi một cách chân thành.

Tài học của Hoàng Kim Sán, kính thay!

MAI ANH TUẤN: ĐỖ VỚT THI HƯƠNG, ĐÔ ĐẦU THI ĐÌNH!

Trong lịch sử thi cử Nho học của thời Nguyễn, chỉ có hai người đỗ Bảng nhãn (Phạm Thanh và Vũ Duy Thanh), 9 người đỗ Thám hoa (Mai Anh Tuấn, Phan Dưỡng Hạo, Hoàng Xuân Hiệp, Vũ Huy Dực, Nguyễn Đức Đạt, Nguyễn Văn Giao, Nguỵ Khắc Đản, Đặng Văn Kiều và Vũ Phạm Hàm). Không một ai được đỗ Trạng nguyên bởi vì lệ của triều đại này là như thế.

Thám hoa đầu tiên của thời Nguyễn là Mai Anh Tuấn, đỗ khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ ba (1843). Ông sinh năm Ất Hợi (1815) tại làng Thạch Giản, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, mất năm Ất Mão (1855) vì bị thổ phỉ giết hại tại Lạng Sơn, hưởng dương đúng 40 tuổi. Truớc khi bị giết hại, ông là quan Án sát tỉnh Lạng Sơn.

Dân gian truyền rằng: Người họ Mai ở Nga Sơn xưa có tục hằng năm cứ đến ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch là vào động Từ Thức để viếng tổ tiên. Năm Giáp Tuất (1814), thân mẫu của Mai Anh Tuấn cũng theo họ hàng nhà chồng vào động Từ Thức. Thắp nhang khấn vái, xong, bà thấy hơi mệt, liền lần ra gần cửa động ngồi nghĩ. Thế rồi, bà thiếp đi. Trong cơm mơ màng, bà bỗng thấy có một cụ già râu tóc bạc phơ, đưa cho bà một cái nghiên mài mực và nói:

- Ta cho con cái nghiên mực này đem về để trẻ nhỏ dùng vào việc học.

Bà đưa tay ra, chưa kịp nhận thì mọi người trong họ cũng vừa từ trong động đi ra về nhà, bà đem chuyện này kể lại cho chồng. Chồng bà suy nghĩ một lúc rồi nói:

-Đây hẳn là điềm tổ tiên ban phước cho mình, muốn con cái minh đỗ đạt, làm vinh hiển cho cả họ hàng nhà ta đây.

Nói rồi, hai người vui vẻ sắm sửa lễ vật trở lại động Từ Thức để tạ ơn tổ tiên. Hơn một năm sau, họ sinh hạ được một cậu con trai kháu khỉnh bụ bẫm, đặt tên là Mai Thế Tuấn. Mai Thế Tuấn lớn nhanh như thổi và sáng dạ lạ thường. Tròn một tuổi, Mai Thế Tuấn đã nói rất sõi. Lên bốn tuổi, Mai Thế Tuấn đã có thể nắm vững luật bằng trắc. Năm lên sáu, Mai Thế Tuấn được đi học. Đó là cậu học trò bé nhất trường làng nhưng sức học lại vượt trội hơn cả. Người trong thân tộc ai ai cũng nói rằng, mai sau, nhất định cậu bé này sẽ làm vẻ vang cho họ hàng làng nước.

Người xưa thường nói: “học tài thi phận”. Câu này có thể là sai với nhiều người, nhưng với Mai Thế Tuấn thì lại đúng. Năm Đinh Dậu (1837), Mai Thế Tuấn đi thi Hương, nhưng kết quả là cậu học trò nổi tiếng thần đồng này chỉ đậu vớt! Ai cũng lấy đó làm tiếc, nhưng Mai Thế Tuấn thì không nản. Ông vẫn miệt mài học tập, ngày cũng như đêm. Làng ông có khá nhiều đoạn tường bằng gạch, ngoài trát vữa, và quét vôi. Ông lấy bút viết chữ kín cả những bức tường ấy, cốt để có thể học vào bất cứ lúc nào, kể cả khi đi dạo trong làng. Thường thì bất cứ ai làm bẩn tường cũng đều bị la mắng, thậm chí là còn bị phạt, nhưng Mai Thế Tuấn thì không, bởi lẽ mọi người đều tin rằng, sẽ có ngày Mai Thế Tuấn làm vinh hiển cho làng.

Năm Canh Tí (1840), Mai Thế Tuấn lại vác lều chõng đi thi Hương lần thứ hai, và lần này thì ông đỗ thực sự. Năm ấy, ông 25 tuổi. Tuy nhiên, để bảo đảm chắc chắn hơn cho kì thi Hội, ông lại bỏ ra ba năm trời ôn luyện không ngừng. Khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ ba, Mai Thế Tuấn “lai kinh ứng thí", đỗ Đình nguyên, đệ nhất giáp, đệ tam danh (Thám hoa).

Trương truyền lúc bấy giờ, nhiều bậc đại khoa lấy làm tiếc, vì Mai Thế Tuấn đỗ Đình nguyên (tức đỗ đầu kì thi Đình), nhưng không được là Trạng nguyên đã đành, đến Bảng nhãn cùng chẳng được, cho nên đã đồng lòng dâng sớ lên Hoàng đế Thiệu Trị, xin cứu xét cho Mai Thế Tuấn. Và Hoàng đế Thiệu Trị đáp:

-Trẫm biết văn tài của Mai Thế Tuấn hơn hẳn những người khác, song, các bậc tiên Đế đã định lệ như thế rồi, không thể làm khác được.

Tuy nhiên, để ghi nhận và khích lệ tài năng của Mai Thế Tuấn, Hoàng đế Thiệu Trị cho đối gọi tên ông là Mai Anh Tuấn. Ta quen gọi là Mai Anh Tuấn kể từ đó.

Ngày vinh quy bái tổ, dân làng hồ hởi ra đón ông. Lời đầu tiên mà Mai Anh Tuấn nói vói dân làng là:

-Hôm nay tôi về để mua vôi quét lại tường cho dân làng đây!

Sau, nghe tin Mai Anh Tuấn bị thổ phỉ giết hại, dân làng vô cùng thương tiếc, bèn cùng nhau lập đền thờ, tôn làm thần, khói hương nghi ngút mãi.

Mai Anh Tuấn từng là một thần đồng, nhưng đời nhắc nhở tới ống mãi mãi không phái vỉ ông là thần đồng, mà vì ông là người có chí cả, biết nghiêm khắc tự rút bài học cho chính bản thân. Mới hay, bài học lớn nhất của mỗi cuộc đời chính là ở chỗ phải biết tự rút ra từ cuộc đời những bài học. Như Mai Anh Tuấn, như bậc đại khoa thuở nào...