← Quay lại trang sách

- 9 - CHIÊU VŨ HẦU NGUYỄN HỮU DẬT - MỘT TÀI NĂNG NỔI BẬT CỦA XỨ ĐÀNG TRONG

Có thể gọi Nguyễn Hữu Dật (1604 —1681) là một danh tướng hoặc một nhà thiên văn, lại cũng có thể gọi ông là một văn thần xuất sắc. Tài năng của ông bộc lộ rất sớm và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nay xin theo Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) mà lược kể về ông như sau:

Nguyễn Hữu Dật là con của Tham Tướng Chưởng Cơ Nguyễn Triều Văn, vốn người huyện Tống Sơn (Thanh Hoá). Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào Trấn thủ đất Thuận Hoá (vùng tương ứng với miền đất từ phía nam Hà Tĩnh đến hết tỉnh Thừa Thiên -Huế ngày nay), nhằm tạo lập cơ đồ riêng cho mình, Nguyễn Triều Văn là một trong số những người đầu tiên đi theo. Đến đất phương Nam, Nguyễn Triều Văn định cư tại vùng nay thuộc huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Và, Nguyễn Hữu Dật chào đời tại đó.

Sử cũ chép rằng:

“Lúc mới được vài ba tuổi, khi chơi với lũ trẻ cùng trang lứa, (Nguyễn Hữu) Dật thường bày trận giả, cờ xí và đội ngũ đàng hoàng, xong, còn tự nhận mình làm tướng. (Nguyễn) Triều Văn thấy thế thì mừng thầm, cho là con mình ngày sau ắt sẽ thành người tài, bèn quyết cho đi học. Ông may gặp được dị nhân, dạy cho binh phép, vì thế, (Nguyễn Hữu) Dật tiến tới rất nhanh.”.

Khoảng hơn mười tuổi, Nguyễn Hữu Dật đã nổi tiếng thần đồng, võ nghệ đã cao cường mà văn chương chữ nghĩa cũng khó có ai bì kịp. Năm Kỉ Mùi (1619), lúc vừa mới 15 tuổi, Nguyễn Hữu Dật đã được chúa Nguyễn Phúc Nguyên bổ làm Văn Chức. Đó là vị quan văn trẻ tuổi nhất của chính quyền họ Nguyễn lúc bấy giờ. Năm Quý Hợi (1623), do tâu việc trái với ý chúa, Nguyễn Hữu Dật bị chúa Nguyễn Phúc Nguyên bãi chức. Trở về nhà, thay vì buồn nản, ông lại dốc chí học tập, vì thế đúng ba năm sau, năm Bính Dần (1626), Nguyễn Hữu Dật lại được phục chức. Lần này, chỉ trong vòng một khoảng thời gian rất ngắn, ông đã được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tin cậy và yêu quý, khen ông là người thông thái về phép tắc chính trị, cho nên, tuy vẫn bổ ông làm Văn Chức, nhưng thăng quyền được dự bàn các việc cơ mật của phủ Chúa. Bấy giờ, trong số những người được quyền dự bàn các việc cơ mật của phủ Chúa, không một ai mới ngoài hai mươi tuổi như ông.

Năm Đinh Mão (1627), tức là năm vừa 23 tuổi, một bước ngoặt mới trong cuộc đời làm quan của Nguyễn Hữu Dật bắt đầu. Từ đây, cuộc nội chiến lâu dài và quyết liệt giữa họ Trịnh với họ Nguyễn đã diễn ra, Nguyễn Hữu Dật được chuyển sang ngạch quan võ. Dưới đây là bản lược kê mấy sự kiện liên quan đến cuộc đời làm quan võ của Nguyễn Hữu Dật:

-Năm 1627: Nguyễn Hữu Dật được trao chức Giám chiến. Thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chức Giám chiến là chức chịu trách nhiệm thông báo thường xuyên và trung thực về mọi diễn biến của chiến trường cho chúa, đồng thời, chuyển đạt nhanh chóng và chính xác các mệnh lệnh của chúa đến chiến trường. Ngoài ra, Giám chiến cũng có quyền được cùng với tướng cầm cờ Tiết chế (tướng tổng chỉ huy) bàn các việc về quân cơ.

-Năm 1631: Nguyễn Hữu Dật được cùng với Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ đi chỉ huy việc đắp luỹ Nhật Lệ (cũng tức là Luỹ Thầy). Đây là một công việc rất khó khăn, trực tiếp liên quan đến thành bại của chúa Nguyễn trong toàn bộ quá trình chống đỡ lâu dài với họ Trịnh sau này. Và, Nguyễn Hữu Dật đã hoàn thành xuất sắc công việc được giao.

-Năm 1633: Vì là người có kinh nghiệm chỉ huy đắp lũy, Nguyễn Hữu Dật được chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai cầm quân đi đắp luỹ Trường Sa. Ông đã hoàn thành công việc trước thời hạn. Cũng năm ấy, chúa Trịnh Tráng cho quân tràn vào đánh chúa Nguyễn lần thứ hai. Nguyễn Hữu Dật đã chỉ huy quân đắp luỹ, đánh cho quân chúa Trịnh một trận tơi bời ở ngay phía ngoài luỹ Trường Sa (Quảng Bình).

-Năm 1648: Chúa Nguyễn (lúc này là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần) đã thăng Nguyễn Hữu Dật làm Cai Cơ (là chức võ quan thuộc hàng cao cấp). Khi ấy, Nguyễn Hữu Dật 44 tuổi. Ngoài chức Cai Cơ, chúa Nguyễn Phúc Tần còn thăng Nguyễn Hữu Dật làm Kí lục dinh Bố Chính (Quảng Bình). Kí lục là chức cũng thuộc hàng cao cấp của quan văn. Bố Chính là vùng tiếp giáp với đất đai của họ Trịnh, nếu không phải là người vừa có tài, vừa được chúa Nguyễn tin cậy, quyết không thể nhận một lúc hai chức lớn như thế.

-Năm 1655: Lần đầu tiên, chúa Nguyễn cho quân vượt sông Gianh tràn ra đánh thẳng vào đất đai của họ Trịnh. Năm này, Nguyễn Hữu Dật được trao chức Đốc Chiến. Với chức này, quyền ông chỉ dưới Tiết Chế Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến mà thôi.

-Năm 1661: Nguyễn Hữu Dật được thăng làm Chưởng Cơ. Đây là chức võ quan cao cấp, trên cả Cai Cơ. Năm ấy, ông 57 tuổi. Bấy giờ, tổng số người được thăng đến chức này đếm không quá mười đầu ngón tay.

-Năm 1664: Tức là năm vừa tròn 60 tuổi, Nguyễn Hữu Dật được thăng đến tột đỉnh của ngạch võ quan: Chưởng Doanh Tiết Chế. Cũng năm này, ông được phong tước Chiêu Vũ hầu.

Viết về Nguyễn Hữu Dật, sử cũ không bao giờ quên kể chuyện tài coi thiên văn của ông. Xin được theo bộ sách đã nói ở trên mà lược thuật lại hai trong số nhiều lần coi thiên văn đặc biệt của ông.

Lần thứ nhất xảy ra vào mùa thu năm Đinh Dậu (1657). Bấy giờ, Nguyễn Hữu Dật đang gữ chức Đốc Chiến, tham gia chỉ huy lực lượng quân chúa Nguyễn tiến đánh ra tận Nghệ An. Đó là những ngày nắng ráo, quân chúa Trịnh bí mật tập kết ở Đồng Hôn (Nghệ An), tình thế rất nguy cấp. Nghe quân do thám báo lại, Tiết Chế Nguyễn Hữu Tiến cũng không khỏi lo lắng, nhưng Nguyễn Hữu Dật lại nói, đại ý rằng:

-Tôi đã xem thiên văn, biết ngày Quý Hợi là ngày 25 tháng này thế nào cũng sẽ có mưa to lụt lớn. Giặc đóng nơi luỹ thấp, ta chỉ cần chờ đến ngày đó đốc quân ra đánh thì nhất định sẽ phá được.

Ngày 25, quả nhiên mưa như trút, nước dâng lênh láng khắp nơi, quân chúa Nguyễn chỉ dùng sức ít mà cũng cản phá được. Nguyễn Hữu Tiến phải khen Nguyễn Hữu Dật tính giỏi như thần!

Lần thứ hai xảy ra vào mùa thu năm 1658, cũng tại Đồng Hôn (Nghệ An). Lúc này, cuộc tranh chấp luỹ Đồng Hôn đang diễn ra rất quyết liệt, cho nên Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến rất lo. Nguyễn Hữu Dật liền cười mà nói đại ý rằng:

-Tôi xem thiên văn, biết đến ngày Mậu Thìn tức là ngày 11 tháng này thế nào cũng có mưa to lụt lớn. Hãy chờ đến ngày này sẽ cất quân, nhất định sẽ thắng lớn.

Ngây 11, quá nhiên có mưa to, và một lần nữa, quân của chũa Trịnh lại bị đại bại. Từ đó, tiếng tăm về tài xem thiên văn của Nguyễn Hữu Dật ngày một lan xa.

Mùa xuân năm Tân Dậu (1681), Nguyễn Hữu Dật bị bệnh mà qua đời, hưởng thọ 77 tuổi. Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần truy tặng ông là Tán thị Tĩnh Nạn Công thần. Đặc Tiến Phụ Quốc, Thượng Tướng Quân, Cẩm Y Vệ, Tả Quân Đô Đốc phủ, Chưởng Phù Sự, Chiêu Quận Công và ban cho tên thuỵ là Cần Tiết.

Vì sao Nguyễn Hữu Dật nhiều tài đặc biệt như thế? Tất nhiên là bởi nhiều lí do khác nhau, tuy nhiên, tác giả bài viết này xin được tiết lộ một trong những lí do đó: ông là hậu duệ của Nguyễn Trãi, là thân phụ của hai danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh và Nguyễn Hữu Hào! Cả nhà ông, cả dòng họ ông có rất nhiều người giỏi, chớ có phải riêng mình ông đâu.

LỘC KHÊ HẦU ĐÀO DUY TỪ - NHÀ BINH PHÁP LỪNG DANH CỦA THẾ KỈ 17

Đào Duy Từ (1572 -1634) sinh trưởng ở xứ Đàng Ngoài nhưng lại tạo lập sự nghiệp ở xứ Đàng Trong. Sinh thời, ông được Sài Vương Nguyễn Phúc Nguyên tôn làm thầy, ông là tác giả của bộ Hổ Trướng Khu Cơ, là nhà binh pháp lừng danh nhất lịch sử nước nhà thế kỉ 17.

Sách xưa cho biết, Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn (nay là xã Vân Trai, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá). Ngay từ lúc còn tấm bé, Đào Duy Từ đã nổi tiếng thông minh, qua tuổi thiếu niên, ông đã nổi tiếng là người thông minh và uyên bác kì lạ. Đến tuổi đôi mươi, sức học của Đào Duy Từ đã khó có ai sánh kịp. Trịnh Nguyễn diễn chí chép rằng:

“Cha mẹ mất sớm nhưng nhờ bẩm tính thông minh, tuổi mới hai mươi mốt mà ông đã thông hiểu kinh sử cổ kim, các sách kinh điển của Nho gia như Ngũ kinh (gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu -NKT), Tứ Thư (gồm Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử -NKT), cho đến Bấc sử (sứ Trung Quốc -NKT), Bách gia chư tử (sách của các nhà tư tưởng nổi bật ở Trung Quốc thời Đông Chu -NKT) và Tam giáo (Nho, Phật, Đạo -NK.T), Cửu lưu (Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia, Mặc gia, Tạp gia, Danh gia, Tung hoành gia, Nông gia -NKT) rồi văn chương, thi phú,... tất cả đều tinh xảo. Nếu không phải là bậc có tài xuất quỷ nhập thần hoặc là những đấng trí giả có tài phò vua giúp nước thì quyết không thể sánh nổi với ông. Người đương thời nhân đó, khen ngợi mà gọi ông là Gia Cát tái sinh (tức Khổng Minh Gia Cát Lượng sống lại -NKT).

Nghe tin triều đình (vua Lê, chúa Trịnh Tùng -NKT) sắp mở khoa thi để chọn người hiền sĩ, Đào Duy Từ thu xếp hành trang hăm hở định ngày lên đường ứng thí. Nhưng, Khảo quan ở trường thi, theo đúng luật định, rằng những ai là con của những người làm nghề hát xướng, thì dẫu thông hiểu kinh sử đến đâu cũng không được đi thi để rồi mong đỗ đạt mà liệt vào hàng cống cử (tức Cử nhân -NKT), nên không cho Đào Duy Từ tham dự (Đào Duy Từ là con của kép hát Đào Tá Hán, hành nghề ở đất Thanh Hoá -NKT). Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ đành nuốt hận trở về, ngày đêm nung nấu ý chí tìm kế lập thân. Chuyện này ông giấu kín, cả đến anh em, họ hàng cũng không ai hay biết.

Nghe đồn, chúa phương Nam là Thuỵ Quân Công (chỉ Nguyễn Phúc Nguyên, tức chúa Sãi hay chúa Phật -NK.T) thường rộng ban ân đức, phong độ không khác gì vua Thuấn, vua Nghiêu, chính sách cầu người hiền tài thì phỏng theo thời Đường (thời trị vì của vua Nghiêu-NK.T), thời Ngu (là thời trị vì của vua Thuấn -NKT), danh tiếng vang khắp nơi, hào kiệt ở khắp đâu đâu cũng tìm đến, đã thế, xứ ấy lại mưa thuận gió hoà, thiên hạ giàu có, cảnh tượng như có đấng đế vương mới dấy lên, tương lai ắt sẽ thành nghiệp lớn... cho nên, Lộc Khê Hầu tin là nếu vào đó, công danh của mình sẽ chẳng mấy chốc mà được như Trương Tử Phòng thuở xưa về với Hán, như Ngũ Tử Tư về với nhà Ngô... mai sau dẫu có thể nào cũng không uổng phí một đời. Và, nói là làm..

Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) chép rằng:

“Đào Duy Từ quyết chí vào Nam. Đến Vũ Xương, ở hơn một tháng mà vẫn chưa có ai biết ông là người thế nào. Nghe đồn ở Quy Nhơn có quan Thám Lí là Trần Đức Hoà đang rất được Chúa tin yêu, ông bèn vào Quy Nhơn và nương thân làm nghề đi ở chăn trâu cho một gia đình phú ông ở xã Tòng Châu. Một hôm, gia đình phú ông ấy đặt tiệc, mời các danh sĩ tới để uống rượu và ngâm thơ. Chiều ấy, Đào Duy Từ cho trâu về sớm rồi cầm roi chăn trâu đứng ở phía trước, cùng các danh sĩ bàn luận cổ kim kinh sử. Thấy ông thông hiểu sâu sắc, đám tiệc phải kinh ngạc. Phú ông lấy làm lạ, bèn đem việc ấy thưa với quan Thám Lí Trần Đức Hoà.

(Trần) Đức Hoà nói chuyện với (Đào) Duy Từ, thấy (Đào) Duy Từ học rộng, biết nhiều thì đem lòng yêu quý, bèn mời đến dạy học rồi gả con gái cho. (Đào) Duy Từ thường ngâm bài Ngoạ Long Cương, Trần Đức Hoà nghe được liền nói: (Đào) Duy Từ là Ngoạ Long (tức Khổng Minh Gia Cát Lượng -NK.T) đấy chăng.”.

Hai sách nói trên cho biết khá tỉ mỉ thêm rằng, một lần vào phủ chúa, Thám Lí Trần Đức Hoà đã đưa bài Ngoạ Long Cương của Đào Duy Từ cho Chúa xem. Lập tức, chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai đưa Đào Duy Từ tới yết kiến. Để thử, chúa Nguyễn Phúc Nguyên liền mặc áo trắng, đi hài xanh, ra đứng ở cửa nách để đợi. Vừa thoáng trông thấy, Đào Duy Từ liền dừng lại, có ý muốn quay gót trở ra. Chúa biết, liền vào mang mũ áo chỉnh tề ra đón. Bấy giờ, Đào Duy Từ mới chịu lạy chào. Sau một lúc đàm đạo, thấy Đào Duy Từ quả thật uyên bác hơn người, chúa Nguyễn Phúc Nguyên liền ân cần nói:

-Sao khanh đến với ta muộn thế?

Nói xong, liền phong ngay cho Đào Duy Từ chức Nha Uý Nội Tán, tước Lộc Khê Hầu, quyền quản quân cơ trong ngoài và tham dự chính sự, đồng thời, tôn kính gọi Đào Duy Từ là Thầy, thường mời vào phủ để bàn luận các việc. Với chúa Nguyễn, Đào Duy Từ đã có mấy công lao lớn, được sử sách xưa ghi lại như sau:

- Một là: Soạn sẵn các câu ứng đối cho mọi tình huống, giúp sứ giả của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Lại Văn Khuông hoàn thành xuất sắc chuyến đi Đàng Ngoài. Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) chép: “Lại Văn Khuông đến Đông Đô, chúa Trịnh Tráng cho triệu vào để hỏi, Lại Văn Khuông biện bạch trôi chảy, không chịu khuất, khiến chúa Trịnh Tráng cũng phải sợ tài, bèn tiếp đãi Lại Văn Khuông rất hậu. Lại Văn Khuông bèn đem mâm đồng đựng vàng và lụa dâng lên, xong là thừa dịp đi ngay, về phía chúa Trịnh Tráng, đến lúc mở đáy mâm ra, thấy có một đạo sắc và một tấm thiếp, trên ghi mấy chữ: Mậu nhi vô dịch; Mịch phi kiến tích; Ái lạc tâm thường; Lực lại tương địch. Chúa Trịnh Tráng đưa cho các quan xem, nhưng chẳng ai hiểu gì cả, duy chỉ có quan Thiếu Uý là Phùng Khắc Khoan thì giải theo lối Hán tự chiết ngữ mà nói rằng, đó chẳng qua là bốn chữ Dư bất thụ sắc (Ta không nhận sắc). Chúa Trịnh Tráng giận lắm, sai người đuổi theo thì Lại Văn Khuông đã đi xa rồi. Chúa Trịnh Tráng muốn đem quân vào đánh, nhưng lúc ấy đất Cao Bằng và Hải Dương loạn lạc, đành thôi. Lại Văn Khuông về đến nơi, chúa (Nguyễn Phúc Nguyên) mừng mà nói rằng:

-Đào Duy Từ đúng là Tử Phòng, là Khổng Minh ngày nay vậy.

Nói rồi, ban thưởng cho hai người rất hậu, lại còn cho Lại Văn Khuông được thăng chức Cai Họp.”

-Hai là: Vạch kế hoạch và trực tiếp chỉ huy việc xây dựng luỹ Trường Dục và luỹ Nhật Lệ. Lũy Trường Dục nối núi Trường Dục với bãi Hạc Hái, cò tầm quan trọng vô cùng đặc biệt ở phía bắc xứ Đàng Trong. Luỹ Nhật Lệ nối cửa biển Nhật Lệ với núi Đâu Mâu. Luỹ này cũng gọi là luỹ Thầy. Cùng với luỹ Trường Dục, luỹ Nhật Lệ đã góp phần bảo vệ vững chắc vùng tiếp giáp với Đàng Ngoài của họ Trịnh.

-Ba là: Kén chọn và giới thiệu người hiền tài cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Bình sinh, Đào Duy Từ là người biết kính trọng và tận dụng tài năng của người khác, cho dẫu đó là người trẻ tuổi hơn mình rất nhiều. Trong số những người được ông tiến cử, nổi bật hơn cả là danh tướng Nguyễn Hữu Tiến (sau được phong là Thuận Nghĩa Hầu) và danh tướng Đào Duy Từ (sau được phong là Chiêu Nghĩa Hầu).

-Bốn là: Trên cơ sở tham khảo để kế thừa những tinh hoa khoa học quân sự cổ đại của Trung Quốc và của tổ tiên ta, đặc biệt, trên cơ sở phân tích và tổng kết một cách thiên tài tất cả những hoạt động quân sự của thời đại mình, Đào Duy Từ đã tiến hành biên soạn binh pháp. Ông không phải là tướng trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc, nhưng Đào Duy Từ thực sự là một nhà chiến lược có tầm vóc lớn, nhà binh pháp lừng danh nhất thế kỉ 17 của dân tộc ta. Bộ binh pháp mà Đào Duy Từ để lại cho hậu thế có tên gọi là Hổ trướng khu cơ.

Truớc Đào Duy Từ hơn ba trăm năm, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cũng từng biên soạn binh pháp. Với Binh thư yếu lược, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã có công xây dựng nền tảng lí luận quân sự vững chắc cho cuộc chiến đấu quyết liệt, chống quân xâm lược Mông -Nguyên thiện chiến và khét tiếng tàn bạo. Với Binh thư yếu lược Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã có công khai sinh nền khoa học quân sự nước nhà. Tuy nhiên, bởi nhiều lí do lịch sử khác nhau, bộ Binh thư yếu lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn nay không còn nguyên vẹn nữa. Công tác thẩm định văn bản đối với tác phẩm vô giá này gặp rất nhiều khó khăn.

Khác với Binh thư yếu lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ hiện vẫn còn lưu giữ được gần như nguyên vẹn. Đọc Hổ trướng khu cơ ai ai cũng có thể dễdàng nhận thấy Đào Duy Từ vừa có trình độ lí luận rất uyên thâm lại vừa có vốn hiểu biết thực tiễn rất phong phú. Ông không chỉ giỏi về chiến lược, chiến thuật mà còn nắm vững kĩ thuật chế tạo cũng như sử dụng các loại vũ khí và trang thiết bị quân sự.

Năm 1634, Đào Duy Từ qua đời, hưởng thọ 62 tuổi. Đào Duy Từ bị chế độ vua Lê chúa Trịnh Đàng Ngoài chối bỏ, nhưng lại được chúa Nguyễn của Đàng Trong ân cần tiếp nhận. Mới hay, đấng chân tài bao giờ cũng là đấng chân tài, sớm muộn thế nào cũng sẽ được đời biết đến và trọng dụng, ôi, phải chi thời Đào Duy Từ chẳng phải là thời loạn li!

GIA GIÁO CỦA TIẾN SĨ NGUYỄN ĐĂNG MINH

Nguyễn Đăng Minh là người làng Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay là thôn Hoài Bảo, xã Liên Bão, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Khoa Bính Tuất (1646), triều đình Lê Chân Tông chỉ lấy đỗ một Thám hoa và 16 Tiến sĩ, thì Thám hoa là Nguyễn Đăng Cảo và một trong số 16 Tiến sĩ là Nguyễn Đăng Minh (em ruột của Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo). Đương thời ai cũng cho là hiển vinh hiếm thấy. Tuy nhiên, hiển vinh trong khoa bảng của dòng họ Nguyễn Đăng không phải chỉ có vậy. Xin lấy gia đình Nguyễn Đăng Minh làm ví dụ: Khoa Quý Sửu (1673), con trưởng của Nguyễn Đăng Minh là Nguyễn Đăng Tuân đỗ Tiến sĩ. Mười năm sau, khoa Quý Hợi (1683), đến lượt con thứ của Nguyễn Đăng Minh là Nguyễn Đăng Đạo (cũng tức là Nguyễn Đăng Liên) đỗ Trạng nguyên.

Nguyễn Đăng Minh được đại phước của trời ban cho chăng? Xét sự nghiêm cẩn răn mình của chính ông mới hay là ông và các con của ông không rạng danh mới lạ, chứ để tiếng thơm cho muôn thuở thì có gì là lạ đâu. Xin theo sách Công dư tiệp kí (quyến 3) của Tiến sĩ Vũ Phương Đề và một vài bộ dã sử khác, lược kể về Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh như sau:

Suốt đời, Nguyễn Đăng Minh luôn bày tỏ sự đặc biệt cung kính đối với anh mình. Ông không bao giờ cãi lại hay làm bất cứ điều gì trái ý anh. Khi ông còn nhỏ, mọi người khen ông vừa ngoan vừa lễ độ, nhưng đến khi ông đã đỗ Tiến sĩ, đã thuộc hàng cao niên, có người thấy thế thì chê ông rằng:

-Cớ gì cứ phải sợ anh và nhút nhát như thế?

Ông điềm tĩnh đáp:

-Trên thì các quan, dưới thì trăm họ, ai nghe tên anh tôi là Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo cũng đều cung kính, tôi may mắn được trời cho làm em, lại may mắn được anh thương yêu mà tận tình dạy bảo, thế thì bảo không giữ lễ với anh làm sao được?

Với con trai trưởng là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân, ông nói năng rất thận trọng, thoạt nghe, cứ tưởng là ông đang nói chuyện với một vị quan lớn trong triều chứ không phải là đang nói chuyện với con. Có kẻ biết, tìm cách khích bác ông, ông nói:

-Con tôi đã làm rạng danh cho cả gia tộc, trọng con cũng chính là trọng cả gia tộc vậy. Vả chăng, trong nhà không biết trọng nhau, bảo người ngoài trọng mình thế nào được?

Đối với con thứ là Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, ông càng bày tỏ sự quý trọng đặc biệt hơn. Mỗi khi Nguyễn Đăng Đạo cung kính chấp tay vái chào thì ông luôn nở nụ cười đôn hậu và khiêm nhượng đáp:

-Không dám! Không dám!

Đến thăm con ở tư dinh, bao giờ ông cũng từ tốn thưa gửi với lính gác cổng rồi điềm đạm ngồi chờ chứ không cậy thế mà đi thẳng vào ngay. Ra đường, nếu tình cờ gặp con, ông tránh hẳn sang một bên để nhường đường. Có kẻ lấy làm lạ, hỏi rằng:

-Tại sao lại phải làm như thế?

Ông cười đáp:

-Đó là bậc Khôi nguyên của thiên hạ mà trời sai xuống đầu thai vào nhà tôi, dám đâu tôi lại không cung kính?

Sinh thời, Nguyễn Đăng Minh sống rất đạm bạc và giản dị. Với dân, ông thường dùng đức để thu phục, hầu như không dùng quyền để bất tuân theo. Xin được trích dịch nguyên văn một đoạn trong sách Công dư tiệp kí để minh chứng:

“Phần mình, ngày thường ông vẫn đi giày cũ, mặc áo cũ, ít khi dùng đến xe ngựa. Có người chẳng biết ông là quan, lỡ xúc phạm đến, ông cũng chẳng hề để tâm. Một hôm, ông từ trong triều đình ra về, khi đi qua hàng thịt ở Cửa Nam, một người hàng thịt thấy ông có dáng vóc giống y tên xã trưởng còn nợ tiền thịt, bèn níu lại để đòi. Ông phân trần mãi, hắn cũng không nghe, cứ lôi xềnh xệch về nhà rồi đem trói vào cột cửa trước nhà. Lúc ấy bỗng có quan Phó Đô Sử là Nhữ Đình Hiền, cũng vừa trong triều về ngang qua. Ngày thường, (Nhữ Đình Hiền) vẫn kính trọng ông như bậc cha chú của mình, nên thấy ông bị trói thì lập tức xuống cáng, đỡ ông dậy và hỏi duyên cớ vì sao. Ông cứ tình thực mà nói lại. Nhữ Đình Hiền liền sai lính bất trói tên hàng thịt giải đi, còn mình thì nhường cáng cho ông. Tới nhà mình, Nhữ Đình Hiền liền mời ông ngồi và xin phép vào trong để thay quần áo. Nhưng, cũng ngay lúc đó, ông đứng dậy, cởi trói cho tên hàng thịt và nói:

-Ngươi hãy tìm lối mà trốn mau. Ta cũng đi đây.

Nhữ Đình Hiền thay áo xong, trở ra thì chẳng thấy ông đâu và tên đồ tể cũng đã mất dạng, sai người nhà chạy đi mời ông lại nhưng không kịp, đành ngồi than thở mà thôi.”

Hoá ra, cái gốc trong gia giáo của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh chính là giữ lễ và trọng đức. Có được cái gốc vô giá ấy là có được tất cả. Ngẫm mã xem. 

HOẠN LỘ CỦA TƯỚNG CÔNG ĐINH VĂN TẢ

Đinh Văn Tả sinh năm Tân Sửu (1601) tại Hàm Giang, nay, đất làng quê ông thuộc huyện Cẩm Giang, tỉnh Hải Dương. Dã sử cho hay, thuở thiếu thời, Đinh Văn Tả tuấn tú và thông minh khác thường, võ công cũng rất tinh thông, chỉ tiếc là ông hay giao du với đám vô lại, thành ra bị coi là kẻ có tài mà thất đức. Sách Tang thương ngẫu lục chép rằng:

“Trước làng ông ở có một con sông to, rộng ước chừng hơn một dặm, ông thường ra đó bơi lội, lâu ngày thành thói quen. Một hôm, ông cùng lũ bạn ra bờ sông ngồi uống rượu, chợt nghe bên kia bờ sông có tiếng chiêng cúng đình vang lên, bèn khích nhau thử xem ai có tài vượt sông sang bên kia lấy trộm cái chiêng mang về. Ông nhận lời, và ngay đêm ấy, bơi sang bên kia sông lấy trộm chiêng. Trên đường trở về, ra đến giữa sông, ông đấm cho chiêng kêu vang, khiến dân làng bên kia sông phải thức dậy đuổi theo, nhưng không kịp nữa, đành quay về. Sau, ông phạm tội, phải giam ở ngục Đông Môn.

Bấy giờ là lúc đang chiến tranh ở biên thuỳ phía Nam, chúa Trịnh sai các tướng cho quân đắp ụ ở trước lầu Ngũ Long để luyện tập bắn súng, ông cùng bọn tù nhân có việc phải đi qua. Ông đứng lại xem rồi cười mà nói rằng:

-Bắn có thế mà cũng sai. Chẳng hiểu triều đình dùng bọn họ để làm gì?

Người lính tức giận, đưa súng cho ông, bắt phải bắn trúng, ông lấy một khẩu súng lớn, áp má bắn luôn mấy phát liền, trúng hết cả ba cái đích. Người lính lấy làm lạ và cảm phục lắm. Các tướng võ sai ông bắn lại cho họ xem. Ông bắn tiếp, phát nào trúng phát ấy. Việc này đến tai Chúa, Chúa bèn tha tội cho ông và bắt làm lính đi đánh ở phương Nam. Quan quân đóng giữ trên núi, địch vừa tới đánh là họ đã tháo chạy, chỉ mình ông ở lại núp trong bụi rậm, đợi cho quân địch tới gần, chĩa súng bắn tới tấp. Địch tưởng có mai phục, bèn sợ hãi tháo lui. Quan quân quay lại đánh, khiến địch phải thất bại.

Sau nhiều lần lập công, ông được phong tới tước Quận Công, nhưng ông giao trả lại hết sắc phong để xin xoá trên trong sổ tội nhân. Lập thêm nhiều chiến công nữa, ông được phong tới hàm cực phẩm.”.

Sách trên còn cho biết thêm rằng, vào năm 80 tuổi, Đinh Văn Tả bị bệnh nặng. Chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Sâm đã thân đến tận nơi để thăm. Khi nghe Chúa hỏi về nguyện vọng, ông nói:

-Nếu có thể được, xin cho tôi được làm phúc thần ngay lúc này. Được hưởng ân huệ ấy của Chúa thì tôi dẫu có nhắm mất cũng chẳng còn có gì để tiếc nuối nữa.

Chúa Trịnh Sâm ưng thuận, liền sai người tuyên đọc sắc phong ngay tại giường bệnh, nhưng chẳng bao lâu sau thì ống khỏe mạnh, sống thêm được mấy năm nữa mới mất.

Như Đinh Văn Tả, tuổi trẻ mà đã quen thói bê tha rượu chè, lại còn dám cả gan ăn trộm chiêng đình của làng bên cạnh, thì tội ấy, quả đúng là... tày đình! Nhưng xét cho cùng thì dẫu từng đi ăn trộm, Đinh Văn Tả cũng không phải là kẻ sống bằng nghề ăn trộm. Chút nho nhỏ này xem ra cũng rất đáng để cho đời lưu tâm.

Ông là người có tài. Thoạt tiên, ông chinh phục tất cả tướng sĩ của triều đình bằng tài bắn súng, sau, ông chinh phục tướng sĩ của triều đình bằng sự quả cảm và ứng phó thông minh trước tình huống éo le của trận mạc. Mới hay, những người được đời biết tiếng tài ba, trước hết là bởi họ thực sự có tài, và sau đó là bởi tài năng của họ có điều kiện để nảy nở. Nếu chẳng có thời loạn, ai dám bảo là Đinh Văn Tả sẽ là... Đinh Văn Tả như sử sách đã nói tới ở trên!

Hoạn lộ của Đinh Văn Tả khởi đầu bằng sự bất ngờ nhưng kết thúc lại bằng sự hẳn nhiên: thời ông, người cỡ như ông, được phong tới tước Quận Công là chí phải. Tiếc thay, người ban sắc phong lại là chúa Trịnh Sâm. Đinh Văn Tả có tài cầm quân, còn chúa Trịnh Sâm thì có tài... ban sắc, hậu thế chỉ còn biết vừa cười vừa gạt nước mắt mà khen Chúa rằng: Tài! Rất tài! Chẳng hay là nếu biết trước điều này, tướng quân Lộc Quận Công Đinh Văn Tả có dám bước lên hoạn lộ hay không.

NGUYỄN QUỐC TRINH PHẪN CHÍ MÀ THÀNH TÀI

Nguyễn Quốc Trinh nguời làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì (nay là thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội), sinh năm 1625, mất năm 1674, hưởng dương 49 tuổi. Ông là anh của Tiến sĩ Nguyễn Đình Trụ (đỗ khoa Bính Thân, 1656), bác của Tiến sĩ Nguyễn Đình Bách (đỗ khoa Quý Hợi, 1683) và Thám hoa Nguyễn Đình Ức (đỗ Khoa Canh Thìn, 1700).

Nguyễn Quốc Trinh đỗ Trạng nguyên khoa Kỉ Hợi, năm Vĩnh Thọ thứ hai, đời vua Lê Thần Tông (tức là năm 1659), tiếng tăm lừng lẫy một thời, tuy nhiên, ít ai ngờ rằng vị Trạng nguyên này, mãi đến năm 17 tuổi vẫn còn gần như mù chữ.

Dã sử chép rằng, chẳng may cha mẹ đều qua đời sớm, mấy chị em Nguyễn Quốc Trinh phải sống nương nhờ ở ông bà nội. Gia cảnh tuy rất nghèo khó, nhưng ông bà nội Nguyễn Quốc Trinh bao giờ cũng nhân ái với mọi người và luôn luôn giữ đức trong sạch. Có lần, cụ nhặt được một gói vàng lớn, liền tìm đến trả lại cho người mất. Người ấy mừng quá, bèn lấy một nữa số vàng ấy kính biếu, gọi là để tạ ơn. Nhưng, cụ cười và nói:

-Nếu ham của thì tôi đã lấy cả gói chớ lấy nữa gói mà làm gì? Phàm cái gì không phải do minh làm ra, cho dẫu là một mảy may, tôi cũng quyết không màng đến.

Người được trả của vốn là một thầy địa lí, thấy tạ ơn bằng vàng không xong, liền cất công tìm giúp cho cụ một huyệt tốt ở ngay trong làng. Cụ vui vẻ nhận. Từ đó, mọi chuyện lạ mới bắt đầu. Tương truyền sau khi cụ mất, anh rể của Nguyễn Quốc Trinh (là một vị Tiến sĩ) đến lo sửa từ đường cho gia đình ông. Thấy Nguyễn Quốc Trinh đã 17 tuổi rồi mà học hành chẳng đâu vào đâu, bèn nói khích rằng:

-Bên nội nhà em liệu có ai đứng ra cáng nổi các việc cho tổ tiên, đại loại như thế này không?

Nguyễn Quốc Trinh nghe vậy thì lấy làm tức, bèn quyết chí học hành cho bằng được mới thôi. Sau ngày tu sửa từ đường, lúc nào người ta cũng thấy Nguyễn Quốc Trinh miệt mài học tập. Ngày ra đồng, ông cũng mang theo sách, vừa làm vừa lẩm nhẩm học. Hễ quên thì lại mở sách ra xem. Đêm về nhà, không bao giờ ông chịu đi ngủ trước canh ba. Nhờ sáng dạ lại cần mẫn hơn người, Nguyễn Quốc Trinh học hành tấn tới rất nhanh. Ông thường nói với em ông là Nguyễn Đình Trụ rằng:

-Ta quyết phải học và đỗ cao hơn anh rể mới được.

Sau khi đỗ Hương cống, đến khoa thi Hội năm Bính Thân (1656), hai anh em cùng đi thi. Vào đến kì làm bài thứ tư, chẳng dè, ông quên hẳn một đoạn của cổ thư, không sao làm được nữa. Em ông là Nguyễn Đinh Trụ nói:

-Em nhớ, để em giúp cho.

Nguyễn Quốc Trinh nghiêm mặt trả lời:

-Có ai muốn đỗ Trạng nguyên mà lại đi xin chữ bao giờ.

Khoa ấy, quả nhiên em ông đỗ Tiến sĩ, còn ông thì chịu hỏng. Khoa Kỉ Hợi (1659), ông lại đi thi và lần này thì đỗ Trạng nguyên thật. Thế là, anh thì Trạng nguyên, em thì Tiến sĩ, cùng xuất thân từ một cửa nhà nghèo, người đời ai cũng cho là hiếm thấy.

Sau khi đỗ đạt, ông làm quan, trải thăng dần lên đến hàm Á Khanh, chức Bồi Tụng, Nguyễn Quốc Trinh từng được cử đi sứ sang Trung Quốc và từng được triều đình tin cậy, giao cho việc biên soạn chính sử của quốc gia. Sinh thời, ông là người rất cương trực và thanh liêm. Bạn đồng liêu thường nói, ấy là nhờ ông được thụ bẩm một nền gia giáo rất tốt đẹp. Tiếc thay, vào tháng 5 năm 1674. ông bị giết hại bởi cuộc nổi loạn của kiêu binh. Triều đình thương tiếc, truy tặng ông chức Binh Bộ Thượng thư, tước Từ Quận Công, lại ban cho tên thuỵ là Cương Trung và phong cho làm Thượng Đẳng Phúc thần.

Vì sao Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh không được hưởng phúc lâu dài? cắt nghĩa điều này, dân gian có lời bàn về ngôi huyệt mà thầy địa lí đã tìm hộ cho cụ nội tổ của ông như sau: Ngôi đất ấy hình tựa như cái khánh bằng gỗ và huyệt nằm ngay giữa cái khánh gỗ ấy. Tiếng khánh ấy mà đã vang lên thì muôn người sẽ về tụ họp, tức là đại phát đến Trạng nguyên. Hiềm một nỗi, gỗ làm khánh thì không bền, chết khi đang ở tột đỉnh vinh quang là chí phải.

Thế đấy. Nhưng biết làm sao được. Xưa mà!

CHUYỆN CÁI ĐẦU CỦA VŨ ĐÌNH PHƯƠNG

Thời các chúa Nguyễn, tuy quy chế chưa thật chặt chẽ, thể lệ cũng chưa thật rõ ràng, nhưng, dầu sao thì các khoa thi Hương cũng đã được tổ chức khá nhiều. Bấy giờ, người đỗ chính thức ở trường Hương thì gọi là Hương cống hay Cống sĩ. Và một trong số những cống sĩ của giai đoạn lịch sử này là Vũ Đình Phương.

Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) cho biết Vũ Đình Phương người huyện Lệ Thuỷ (nay thuộc tình Quảng Bình), con trai của Vũ Đình Thế (đỗ cống Sĩ, làm quan đến chức Tri phủ). Ngay từ thuở thiếu thời, Vũ Đình Phương đã nổi tiếng thông minh, văn hay chữ tốt khó ai sánh kịp. Vào khoảng thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 -1648), Vũ Đình Phương dự thi Hương và đỗ thủ khoa. Năm ấy, ông mới 18 tuổi. Bấy giờ, ai cũng cho đó là bậc tuổi trẻ mà tài cao hiếm thấy. Theo lệ, tất cả tân khoa cống sĩ đều được vào bái yết Chúa, đồng thời được dự bữa tiệc do Chúa ban. Nhưng, vừa thoáng trông thấy Vũ Đình Phương, chúa Nguyễn Phúc Lan đã thất vọng. Lí do là: Vũ Đình Phương vừa nhỏ tuổi lại nhỏ con, đầu đã to mà mặt lại rỗ chằng rỗ chịt. Do không thể tự kiềm chế được, chúa Nguyễn Phúc Lan đã buột miệng mà nói rằng:

-Tiếc là ngươi có tài mà không có tướng!

Nói xong, Chúa cho ông về, không bổ làm quan như các vị tân khoa khác. Vũ Đình Phương đành phải lẳng lặng về nhà. Để quên nỗi buồn, ông đóng của đọc sách. Trải nhiều năm liền, Vũ Đình Phương chẳng những uyên thâm về Nho học mà cả thiên văn, địa lí và binh thư... cũng rất thông hiểu. Tiếng tăm về tài học của ông ngày một vang xa. Dầu vậy, chúa Nguyễn Phúc Lan cũng chẳng chút đoái hoài đến ông. Ông sống bình thản và thầm lặng như một ẩn sĩ.

Thế rồi 32 năm sau, khi ông vừa 50 tuổi, Vũ Đình Phương... bất ngờ mà được dùng. Bấy giờ, chúa Nguyễn Phúc Lan đã mất, chúa Nguyễn Phúc Tần lên nối nghiệp (1648 - 1687). Ở Đàng Ngoài lúc này, Chúa cầm quyền là Trịnh Tráng (1623 -1657). Để thử xem xứ Đàng Trong còn có người tài hay không, Trịnh Tráng đã sai sứ vào Nam. Sứ giả đem đến tặng chúa Nguyễn một cái trống lớn và một miếng ván dài chừng một thước (non 40 cm), trên ván ấy có ba chữ Hán (phiên âm) là Hồ bất thực. Cả ván lẫn chữ đều được sơn son thếp vàng rất đẹp. Chúa Nguyễn Phúc Tần và bá quan văn võ đều rất băn khoăn vì không sao hiểu nổi ý nghĩa của mấy chữ này, mà nếu không hiểu được thì cũng có nghĩa là bị hạ nhục. Và, phải đợi đến lúc này, người ta mới nhớ đến thủ khoa Vũ Đình Phương, người tài cao học rộng. Chúa Nguyễn Phúc Tần lập tức cho người về quê Vũ Đình Phương. Cũng phải vất vả lắm sứ giả của chúa mới tìm được nhà của ông, bởi vì, suốt mấy chục năm liền, dân địa phương quen gọi Vũ Đình Phương là ông cống Đầu (vừa có nghĩa là người đỗ đầu thi Hương, lại cũng vừa có nghĩa là ông cống sĩ có cái đầu rất to), mà quên mất cả tên thật của ông. Vũ Đình Phương tới nơi, cầm dùi đánh trống, chăm chú lắng nghe, xong thì cầm tấm ván nhỏ lên, lật đi lật lại rồi mỉm cười thưa:

-Đây chi là cái trống thường, không có gì đặc biệt, họ chỉ cốt làm cho ta mất công suy nghĩ chơi vậy thôi.

-Thế tấm ván nhỏ và mấy chữ trên đó là gì?

-Ấy là họ thử xem ta có biết nói lái theo kiểu của người Bắc hay không mà thôi. Hồ bất thực nghĩa là cáo không ăn (hồ là cáo, bất là không, thực là ăn). Cáo không ăn thì cáo gầy, và cáo gầy nói lái theo kiểu của người Bắc là cây gạo. Đại để, họ muốn nói rằng đem cái trống này treo lên cây gạo mà đánh thì hiệu lệnh sẽ vang xa.

Chúa Nguyễn Phúc Tần nghe xong thì cả cười, ban thưởng cho Vũ Đình Phương rất hậu.

Ngay ngày hôm đó, bổ ông làm Kí lục Quảng Bình, kiêm chức Tham Mưu, cho được quản lĩnh hai vệ binh, đặt dưới quyền Tiết chế của Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Tiến, vượt sông Gianh đánh thẳng ra xứ Đàng Ngoài. Trong cuộc tấn công này, Vũ Đình Phương đã có nhiều ý kiến xuất sắc, được chủ tướng Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Tiến nghe theo.

Sau Vũ Đình Phương qua đời hưởng thọ 90 tuổi, được truy tặng hàm Thái Thường Tự Khanh. Sử cũ cho biết là ông không có con trai nối dõi, còn như con gái thì bao nhiêu người thì chưa tra cứu được.

Cuộc đời của Vũ Đình Phương là cuộc đời của một nhân tài, chỉ tiếc là ông sinh vào thời đất nước loạn li, càng tiếc hơn nữa là chúa Nguyễn Phúc Lan nhìn người sao mà hời hợt quá. Chúa chỉ thấy gương mặt rỗ chằng rỗ chịt mà không thấy được trí tuệ ngời sáng. Chúa chỉ thấy một người to đầu mà mình thấp chớ chẳng thể thấy được hoài vọng lớn. Tạo hoá sinh ra hai con mắt và hai lỗ tai ở gần ngay trí não để thấy là nghĩ, nghe là nghĩ, nghĩ thật nhanh, nghĩ thật thấu đáo. Ai đó chỉ thấy và nghe mà không hề nghĩ, thì... có khi thần kinh và trí não của họ nếu có cũng nằm ở vị trí khác. Lạy Chúa, không rõ sinh thời, trí não của chúa Nguyễn Phúc Lan ngụ ở chỗ nào!