PHẦN MỘT – BETH - Chương 1 Tháng Sáu, 1985
Em chỉ thích con bé con thôi,” Beth nói với chồng như thế khi cô chất lên xe hơi những túi nhựa, túi tã, túi đựng đồ bằng vải thật to, túi đựng máy ảnh, tấm hắt sáng to cũ hiệu Backfold đang nằm thành một đống trên hành lang. Cô ngạc nhiên khi Pat nhìn cô giận dữ; cô biết anh không muốn cãi nhau, không muốn rắc rối khi sắp tiễn cả nhà đi chơi cuối tuần. Theo Pat thì cô cực kỳ ngốc khi đưa cả ba đứa trẻ đi Chicago dự buổi họp mặt lần thứ mười lăm của trường trung học, đồng thời kết hợp luôn với công việc chụp hình. Nhưng một khi cô đã khăng khăng đòi như thế thì Pat không dám tranh cãi vì sợ Beth sẽ đổi ý để Ben hoặc Vincent ở lại; Pat luôn rất sung sướng khi được ở nhà một mình và có lẽ đang mong có bốn mươi tám tiếng đồng hồ làm một anh chàng độc thân: được ngủ trễ, được chơi bida ở quán Michkie kế bên nhà hàng sau khi nhà hàng đã đóng cửa. Tuy vậy, anh vẫn bực bội nhìn cô, và lần nào ánh mắt khi anh bị sốc bởi những lời cô nói cũng làm cô ngạc nhiên. “Sao vậy?” cuối cùng anh hỏi. “Sao em lại nói thế, Vincent có thể nghe thấy câu ấy đấy, em không cố ý nói như vậy chứ?” “Em cố ý đấy. Em thật sự muốn nói như thế đấy,” Beth đáp. Mình không chỉ hành hạ Pat mà còn thích khi nói như vậy nữa, cô nghĩ. Thật ra Vincent đã không nghe thấy gì. Nó đang ngồi thu lu nơi góc chiếc xô-pha xem cuốn phim Hàm Cá Mập mà Pat đã cố tình xóa đi những cảnh đẫm máu, mặt nó đanh lại, nhìn không giống một đứa bé bảy tuổi, nhưng cũng không xấu lắm vì nó chỉ cau có chứ không bĩu môi. Nó không muốn đi đâu bằng xe hết. Nó thấy chả có gì vui khi phải đi đến một khách sạn rồi bơi trong hồ bơi lớn với chị Jill trong khi mẹ gặp lại tất cả các bạn cũ của mẹ. Nó muốn được ở nhà chơi với Alex Shore; nó muốn được đi ra nhà hàng với bố. Nó đã nói với Beth như thế sáng nay, cả thảy tám lần. “Con không thể ra nhà hàng với bố được. Bố phải làm việc mà,” cô cáu kỉnh ngắt lời nó, và thắc mắc liệu cô có đánh nó không nếu nó cứ tiếp tục vòi vĩnh như thế. Vincent vẫn bướng bỉnh. “Con sẽ ngồi ngoan ngoãn ở phía sau nhà hàng. Con làm được như thế một lần rồi mà.” Cho đến nay, đó là trải nghiệm thú vị nhất trong đời Vincent - được ở cạnh bố Pat vào một tối thứ bảy tại nhà hàng Pat quản lý cho ông trẻ Augie. Nó đã được đến đó vì hôm ấy Beth bị cúm, Kerry chỉ mới mấy ngày tuổi, và cô trông trẻ cuối cùng của nước Mỹ thì đang dự buổi lễ tốt nghiệp trung học. Điều tuyệt vời nhất mà mẹ Beth đã làm cho Vincent (cô đã cho nó đi theo cô đến một cảnh quay phim trong khi cô chụp ảnh cho bộ phim đó và Paul Newman đã bắt tay nó) chả ăn thua gì với cái đêm huyền thoại ở nhà hàng Cappadora. Ông trẻ Augie tóc bạc trắng như bông đã kiệu nó trên vai đi khắp nhà hàng, còn bố thì đút cho nó ô-liu nhồi cá cơm trong khi nó ngồi ngất nga ngất ngưởng trên quầy rượu sạch bong. “Lúc đó mẹ bị ốm mà,” Beth kiên nhẫn giải thích. Cô chưa từng kiên nhẫn đến thế. Thật ra, cô hy vọng Vincent có thể hiểu lúc đó tinh thần cô đang bị suy sụp kinh khủng. “Giờ thì mẹ khỏe rồi và mình sẽ cùng đi Chicago, con sẽ được gặp dì Ellen, mẹ cần con giúp mẹ trông hai em Ben và Kerry.” “Con ghét Ben và Kerry, con cũng ghét phải làm mọi thứ, con cũng không thay quần áo đâu.” Vincent nằm úp mặt xuống xô-pha, và khi Beth cố gắng kéo nó lên, nó trì người lại khiến cô phải kéo lê nó trên sàn nhà cho đến khi thả được nó giữa phòng khách. Vincent ghét mẹ nó lắm. Beth biết thế và cho rằng đó là do cô đã để cho đến khi nó được hơn bốn tuổi mới sinh Ben, lúc ấy nó đã có trí khôn và rất sung sướng được là tình yêu duy nhất của mẹ. Vincent rất thích Ben, nó cũng bị hấp dẫn bởi sự nhỏ nhoi như một con ốc của Kerry, và thành tâm tôn sùng Pat với một tình yêu trai gái thật ngây ngô làm Beth thấy thương hại nó. Beth biết chắc đứa con trai lớn của mình chỉ xem cô như một nguồn cung cấp thực phẩm và như một món đồ chơi để nó thỉnh thoảng chạm tới thôi. Khi cô phạt nó, Vincent nhìn Beth với ánh mắt làm cô nhớ ngay đến câu nói của Pat về những con mèo nhà: chúng là các phiên bản thu nhỏ của loài dã thú; và nếu lớn hơn chút nữa thì chúng có thể ăn thịt em đấy. Mặt khác, Beth cũng bị Vincent thu hút với một sức mạnh rõ ràng. Cô không chỉ muốn yêu nó; cô còn muốn thu phục nó nữa. Và Beth nghĩ nó biết điều đó. Vincent không có lòng khoan dung còn Ben lại rất độ lượng. Ben rất vui khi được ra khỏi thành phố với mẹ và anh vào sáng hôm ấy, vui hệt như khi nó được đi đến tiệm bán đồ gia dụng hay được phân loại những đôi vớ sạch vậy. Ben không những dễ chịu; mà nó luôn cởi mở, dí dỏm và đem tin cậy đến bất cứ nơi nào nó hiện diện. Khi Ben còn bé, Beth đã phải đưa nó đi khám vì lúc nào nó cũng nhoẻn miệng cười và ngủ thật ngon lành với một vẻ mặt bình thản. Cô đã hỏi bác sĩ liệu nó có bị chậm phát triển không. Vị bác sĩ trẻ, một thanh niên Nga nhập cư, đã không chế giễu cô mà chỉ nhẹ nhàng nói cậu nghĩ đứa bé có thể bị khuyết tật - ai cũng có thể bị như thế mà - nhưng sao cô lại lo chứ? Ben có ngọ nguậy không, có đập đầu vào các thanh giường không, có nghe được những gì cô nói không, có nhìn vào mắt cô không? Beth đã trả lời rằng không, Ben không ngọ nguậy, cũng không tránh nhìn vào mắt cô. Cô tránh không nhìn vào mặt bác sĩ khi cô trả lời. “Nhưng Ben quá... quá trầm, và luôn mãn nguyện. Nó không la hét, thậm chí khi tã nó bẩn hay cả khi nó đói cũng vậy. Nó rất kiên nhẫn”. “Còn con trai lớn của chị thì sao?”. “Nó ... nhanh nhẹn hơn”. Khi còn nhỏ, Vincent gầy hơn, ngủ ít hơn, cảnh giác hơn, biết đi lúc chín tháng, biết nói khi mười tháng, một tuổi thì biết nói với mẹ “Con bực mình quá”. Cậu bác sĩ mỉm cười với cô. Beth vẫn còn giữ tờ giấy khám bệnh trên đó bác sĩ đã nguệch ngoạc mấy lời chẩn đoán: “Em bé khỏe mạnh. Bình thường”. Ben vẫn dễ chịu và vui vẻ. Beth không thể tưởng tượng được vì sao từ một người hay hoài nghi và thân thiện quá đáng như Pat kết hợp với một người luôn sầu muộn như cô lại có thể sinh ra một đứa trẻ như thế này. Beth yêu nó ít hơn Vincent nhưng cô không nói năng gay gắt với nó. Thậm chí khi Ben “dở hơi” - mà nó thì rất hay “dơ hơi” - như khi nó xuống ăn sáng với cái mặt nạ phẫu thuật trên đầu làm mũ bêrê với hai miếng băng vệ sinh giấu dưới bồn rửa tay trong nhà tắm mà nó lấy được khi cô sinh Kerry để dán nơi hai cánh tay thì Beth chịu thua, không thể mắng nó được. Hôm nay, trong khi chờ lên xe, Ben nằm trên sàn hành lang dùng hai chân đạp xe đạp trên không, dưới tia nắng chiếu rõ cả các hạt bụi đang lơ lửng. “Con đang ở dưới nước”, nó nói với cô, gương mặt nó chan hòa ánh nắng, trong khi con chó Beowulf nhảy sang một bên để tránh không bị Ben đụng phải. Sáng hôm đó Ben đã năn nỉ Beth cho nó làm “bánh mì mẹ” (thật ra là “bánh mì khỉ”, một loại bánh có mùi quế Beth chế ra từ bột nhào của cửa tiệm cuốn thành hình bánh pretzel và cho bất cứ thứ gia vị ngọt nào cô có thể tìm thấy). Nhưng khi cô nói rằng cô quá bận, nó đã không than van rên rỉ. Nó bỏ đi ngay, lúc nào nó cũng bận rộn, cũng mê mải. Pat nói: “Ben đang thi hành sứ mệnh.” Cô mẫu giáo của Ben đã từng nhẹ nhàng đề nghị Beth đưa Ben đi kiểm tra xem nó có mắc chứng hiếu động thái quá không. Nhưng Beth đã không đưa nó đi. Cô và Pat nghĩ Ben chỉ đơn giản giống một trong mấy con cún trên những mục quảng cáo không tốn tiền trên các phương tiện truyền thông: “Cần chỗ để chạy.” Nhưng giờ thì Ben quậy quá: nó vừa lôi hết mấy lọ thuốc và đồ trang điểm của Beth ra khỏi mấy cái túi rồi xếp tất cả mấy cái lọ ấy thành hàng dài như mấy thằng lính đồ chơi dọc theo cửa ra vào. Và cô giẫm phải một cái khiến nó vỡ tan làm mấy viên vitamin văng tung tóe. “Chúa ơi!”, cô rít lên. Rồi khi Pat đến để nhẹ nhàng giúp cô thì cô nói toẹt ra cho anh biết cái ý nghĩ vừa thoáng hiện trong đầu: cô chỉ thích Kerry thôi, đứa con còn bé, chỉ mới biết ngồi nên không tốn nhiều công sức để chăm sóc. “Em cứ đi đi,” Pat nói. “Không sao đâu. Chúng sẽ ngủ ngay ấy mà.” Đúng là chỉ có Pat mới nghĩ ngây thơ đến thế; hai thằng bé đã không ngủ trong xe từ khi chúng lên hai, và Pat vẫn nghĩ một cái quần Levi có giá chỉ 15,95 đôla. Nhưng Beth nghĩ mình cũng đã lớn tuổi rồi, không nên để lộ sự căng thẳng ra nét mặt; cô muốn càng duyên dáng, trẻ trung trong buổi tối nay càng tốt. Vì thế cô và Pat khiêng hết mọi thứ ra chiếc Volvo, cột Kerry và Ben vào ghế dành cho con nít, rồi lại đưa Vincent và Ben ra ngoài lần nữa cho chúng đi tiểu, vào nhà lấy bàn chải đánh răng, rồi bỗng nhiên Pat sực nhớ ra cuộn phim từ chuyến đi cắm trại của họ nên muốn chụp nốt cho hết. “Em không ra khỏi xe nữa đâu,” Beth nói. “Nếu anh muốn, em sẽ chỉ ngừng trước cửa, ngay trên cỏ thôi. Hay em sẽ kêu một người hàng xóm ra đứng bên cạnh mấy bụi tử đinh hương kia nhé.” “Thôi mà em,” Pat nài nỉ cô, với cái giọng càu nhàu gợi cảm làm cô nhớ đến cảm giác thèm muốn anh mà gần đây cô không hề có, ít nhất thì cũng không giống như cách đây mười năm. Nhưng để tỏ thiện chí của mình với những lời nài van của anh, cô đồng ý ra khỏi xe dù lúc này Vincent đang sắp khóc, còn Ben thì chỉ hát thật to mỗi một câu trong bài “House of the Rising Sun”, và cứ hát đi hát lại mãi. Họ đứng dưới vòm mấy cây tử đinh hương. Pat gắt lên một tiếng rồi bấm máy; Beth nhảy vào xe ngay. Cô không hôn anh. Dù sao thì hai ngày nữa họ cũng sẽ gặp lại nhau mà. Thật vậy, cô sẽ gặp Pat trước lúc mặt trời lặn, sau này Beth nhớ lại - cô đã không hôn anh vào lúc đó cũng như nhiều tháng sau này, để rồi khi cô hôn lại anh, răng họ lập cập va vào nhau như những cô cậu mới học cấp hai, và đó cũng là lần đầu tiên cô thấy lưỡi anh có vị cà phê - một điều mà trước đó cô chưa từng chú ý đến trong suốt bấy nhiêu năm trời, lưỡi anh trong miệng cô quen thuộc như thể nó là lưỡi cô vậy. Lái xe xuống đường 90 để đi Chicago chẳng có gì thú vị, dù cách đây nhiều năm cô và Pat thường hôn hít vuốt ve nhau trong chiếc xe Chevy Malibu cũ của họ khi lái từ trường đại học về nhà để dự lễ Giáng Sinh, về với hai gia đình quá vui mừng khi thấy họ yêu nhau. Những ngày đó, Beth chỉ chụp những trang trại chán ngắt, xấu xí nơi vùng đầm lầy và vùng ngoại ô trải dài vô tận đến hơn hai ngàn kilômét. Họ thường xuyên đi đi về về vì hầu hết các thành viên của hai gia đình đều sống ở Chicago. Mọi người đều cho là Beth và Pat mạo hiểm khi sống “tận trên phương Bắc”, ở vùng tiền đồn Madison nơi chú của Pat đã mở đường khai hoang vào năm 1968. Pat và Beth yêu nhau từ khi cô là sinh viên năm thứ ba của trường đại học Wisconsin - và nếu nói cho đúng thì đã lâu trước đó nữa, khi hai cô cậu nhóc luôn chơi bài xì phé với nhau trong các kỳ nghỉ lễ. Họ đã luôn có mặt bên nhau trong những buổi picnic, và trong những trường hợp khẩn cấp cần đến bạn bè. Họ có mặt trong lễ ban thánh thể đầu tiên của nhau, và cả các buổi tiệc kỷ niệm lễ tốt nghiệp trung học của nhau. Nhưng họ chưa bao giờ nhận thấy sự hấp dẫn của nhau mãi cho đến ngày tình cờ gặp nhau trong thư viện ở Madison, ba tiếng đồng hồ trước khi họ lên giường trong căn hộ áp mái bề bộn của Pat để rồi bỏ học cả hai ngày tiếp theo đó. Khi ấy Beth thấy sợ thật sự, cô đang học năm thứ ba còn Pat học năm thứ nhất để lấy bằng thạc sĩ. Trước đó cô đã bị sẩy thai vào tuần thứ sáu khi đang ngồi trong phòng đợi của một bệnh viện tư để chuẩn bị nạo thai. Sau khi chia tay, gã bạn trai cuối cùng của cô đã dùng kính viễn vọng theo dõi cô. Beth còn tin rằng những gã đàn ông xấu xa sẽ đổ xô vào thành phố để mời cô đi chơi. Lần làm tình duy nhất được cho là “tuyệt vời” mà cô từng trải nghiệm xảy ra thật chớp nhoáng trên chiếc ghế trước của một chiếc xe hơi với người yêu của bạn mình. Lúc đó cô đang phải làm hai công việc - vừa làm bồi bàn vào buổi sáng, vừa đi bán đồ sứ vào buổi tối, với cảm giác thật nhục nhã khi phải đi đến từng nhà để mời mọc các cô gái già trong hội nữ sinh của trường đại học mua hàng giùm. Cô không còn tiền để học năm thứ tư nữa, và đang rớt hai cua. Cô thấy mình thật già nua. Cô thấy mình bị lợi dụng. Và rồi cô gặp Pat. Ngay từ khi còn trẻ anh đã không đẹp trai. Anh có hai hàm răng trắng bóng, đều tăm tắp - “một kết hợp hoàn hảo” anh thường gọi như thế - nhưng anh thấp bé, gầy gò với mái tóc nâu quăn hơi bù xù và cặp mắt thật to. Vai anh rộng, nhưng anh lại có đôi chân vòng kiềng, lỏng khỏng lẻo khoẻo. Pat trông như một kẻ vô gia cư ốm đói, lúng ta lúng túng như gà mắc tóc khi ở cạnh mọi người, nhưng thật ra anh rất nhiệt tình giúp đỡ mọi người đến nỗi ai cũng tin anh là người thân thiện nhất họ từng gặp. Chỉ có mình Beth biết anh trong sáng đến thế nào, công bằng tuyệt đối đến cỡ nào. Thậm chí khi hai người đã thật sự thân thiết với nhau và khi anh đã có mắng cô vì tội quá thành thật, quá tế nhị và tự giác thì Beth vẫn tin mình ngủ với một phiên bản của một ông thánh. Cô chẳng kính sợ chồng - những điều cô rất khâm phục ở Ben thì ở Pat cô lại cho là rất đỗi bình thường. Nhưng khi bước xuống khỏi cái giường gỗ cứng ngắc đó cách đây hơn mười hai năm thì chính cô, chứ không phải Pat, biết chắc rằng họ sẽ lấy nhau. Cô biết rằng rốt cuộc thì mình cũng đã đáp cánh được an toàn. Cuộc hôn nhân đó nhanh chóng biến thành một huyền thoại trong gia đình: con gái duy nhất của bà Evie và ông Bill, con trai độc nhất của ông Angelo và bà Rosie. Beth thấy hạnh phúc cho bố mẹ họ. Pat đã học đại học ở Madison vì nhà hàng của chú anh ở đó, Pat lại muốn theo ngành kinh doanh; và thế là họ ở lại, cuối cùng cũng lấy được nhau sau vài năm gian khó vì phải chứng minh họ có thể sống được với nhau và buộc cha mẹ đôi bên phải chấp nhận. Khi cô nói với vị thẩm phán - lại một cuộc chiến đấu khác; bố mẹ họ đã đưa một vị linh mục đến buổi lễ với hy vọng cặp đôi trẻ này sẽ sẵn sàng chấp nhận lẽ phải vào phút chót - rằng cô hứa sẽ kính trọng và thương yêu Pat, thì rõ ràng là Beth đã thực lòng muốn thế. Ai lại không, nhỉ? Cô nghĩ thế và đang tiếc vì đã chia tay anh nhanh quá; cô tự hứa sẽ gọi điện cho Pat ngay khi đến khách sạn. Cô biết mình thường chỉ ân cần ngoài mặt vậy thôi và cô cũng có thể tỏ ra niềm nở khiến thậm chí những người lạ cũng thấy mình được để ý. Nhưng Pat vẫn vui vẻ dù anh không bằng lòng kia mà. Khi bị kẹt trong dòng xe dài cả bốn cây số chung quanh trung tâm thương mại đồ sộ ở Woodfield, Beth thắc mắc liệu Pat có căng thẳng vì lo lắng không, có giống một người luôn rít hết cỡ khi hút thuốc không, vì anh vẫn tin rằng mọi người luôn có thể tốt hơn, rằng họ có thể làm được tất cả nếu họ nỗ lực nhiều hơn nữa. Cô tưởng tượng xem giờ này Pat đang làm gì ở nhà một mình. Có lẽ anh đang dọn dẹp chỗ chiến trường bừa bãi bẩn thỉu do Beth bày bừa ra - đang kiểm tra lại xem còn bao nhiêu hộp thức ăn dự trữ, mở cả trăm cái ngăn kéo, bỏ đống đinh vít vào túi, mang mấy gói hạt giống ra nhà để xe, vứt mấy hộp kẹo cao su Chiclets đang ăn dở đi. Beth thường nghe thấy Pat làm việc này vào ban đêm, trước khi anh đi ngủ. Khi nghĩ đến việc lục lọi và sắp xếp lại mọi thứ cho ngăn nắp, cô thường liên tưởng đến các vị tổ tiên người Ý, có lẽ vì bố chồng cô, ông Angelo, hay làm thế. Vì bận rộn suốt ngày không làm hết mọi việc nên họ luôn tất bật và cáu kỉnh nhặng xị mãi tận một hai giờ sáng. Bà Rosie mẹ chồng cô cũng thế, dù bà biết mình cứ khua lạch cà lạch cạch khắp nhà như thế là làm phiền người khác. Bà gấp quần áo mới giặt, tính toán mấy tài khoản kinh doanh cho khớp với nhau, viết thư cho người chị họ ở Palermo. Bà là người tất bật âm thầm, một con ma bận rộn mặc áo choàng dài màu trắng. Giáng Sinh đầu tiên khi Beth và Pat mới lấy nhau, bố mẹ anh và mấy ông anh của Beth đã ngủ lại hai đêm ở căn nhà thuê bẩn thỉu rất xa đường Park của cặp vợ chồng mới cưới. Anh trai Ben của Beth, còn gọi là Bick, đã gọi gia đình Pat là “những kẻ vụng trộm lúc nửa đêm”. Họ thức rất khuya, rồi họ đi lang thang. “Có lẽ vì họ là những người La Mã”, Bick nói với cô. Beth đã không mời Pat đi dự buổi khiêu vũ và bữa ăn tối - hai sự kiện chính trong buổi họp lớp của cô. Anh biết nhiều người trong nhóm bạn cũ của Beth ở trường trung học Immaculata; anh học cùng trường nhưng trên cô hai lớp. Thế nào anh cũng tỏ ra rất thân thiện với các bạn cô để rồi sau đó anh kiệt sức, vật ra ốm cả tuần lễ vì quá căng thẳng. Thế nào đầu óc anh cũng sẽ nghĩ đến mấy cuốn sách sử mà anh luôn nghiền ngẫm, đến những đoạn đắc ý mà anh gạch dưới bằng bút dạ màu vàng, y hệt một sinh viên cao đẳng. Thế nào anh cũng phát chán, rồi nghĩ đến mớ ngăn kéo lộn xộn mà anh sợ phải dọn dẹp. Thế nào anh cũng thấy mấy chuyện tiếu lâm đó dở quá, phải rặn ra mà cười, hay thấy những dịp được kể chuyện cũ và những trò chơi khăm đám kẻ thù xưa là vớ vẩn và ác độc. Nhưng Beth thì ngược lại, rất nôn nóng. Cô tắt máy trong khi chủ nhân của một trong bảy chiếc xe phía sau nhấn còi inh ỏi vì đang sợ bị trễ giờ. Cô nhìn vào kính chiếu hậu. Ben đã lôi hết giăm-bông ra khỏi miếng xăng-uýt Jill đã làm và đang chà lên cửa xe phía sau. “Benbo,” cô gay gắt gọi. “Giăm-bông để ăn chứ không phải để lau kính.” Ngay lập tức Ben nhăn mặt tọng miếng giăm-bông bẩn đó vào miệng. Beth đã có thể ngăn nó lại - nhưng miếng giăm-bông bẩn đó có ăn thua gì chứ? Ngày nào Ben lại chả nhặt thức ăn dưới đất mà cho vào miệng; đôi khi nó còn bỏ cả cái bát ngũ cốc xuống sàn rồi bắt chước ăn như chó nữa mà. Jill sẽ tắm rửa cho lũ trẻ. Hồ bơi của khách sạn sẽ làm chúng sạch. Beth sẽ không phải nổi giận mà la hét nữa. Xe cộ cứ nhích lên từng chút, từng chút một, và cô khởi động lại xe. Lúc đó Vincent đang liên tục chọc vào cổ Ben, có lẽ đau lăm, bằng một cục gôm màu vàng có hình một tù trưởng da đỏ. Cô đã có thể ngăn không cho nó làm nữa; nhưng nhỡ nó chuyển sang làm chuyện gì khác thì cũng quá tội. Ben không có phản ứng gì; nhưng rồi bỗng dưng nó khóc thét lên khiến Beth phải mắng Vincent không được ác với em như thế nữa. Hôm nay cô sẽ lờ Vincent đi trừ khi nó có thể làm Ben chảy máu. Cô ngắm mái tóc mình trong gương - mái tóc mới căt được đánh rối lên thật đẹp, và cô đã thay màu tóc xám cũ bằng màu hạt dẻ. Nếu không bị tiếp tục kẹt xe thì chỉ khoảng nửa tiếng nữa là họ đến khách sạn gần trường trung học cũ của cô ở Parkside, tiêu bang Illinois. “Hát bài ‘Comin’ Through the Rye’ đi, mẹ,” đột nhiên Ben nói với cô, nó lơ đi những cú Vincent chọc vào người nó ngày càng mạnh hơn. Sao nó lại có thể làm thế được nhỉ? Beth thắc mắc. Sao Vincent lại có thể chọc vào Ben, đứa em yêu nó đến thế chứ? (Cô xấu hổ nghĩ Sao mình có thể bóp chặt cánh tay Vincent hay có thể mặt kề mặt mắng nó được nhỉ?) Và Beth bắt đầu hát ư ử không chủ đích. “Nếu một người bắt được một người....” Ben hỏi: “Bắt được một con thỏ à?” “Không phải, đồ ngu, một thằng bạn! Một thằng bạn!” Vincent khó chịu hét lên. Beth nhắm mắt lại mơ màng về tối nay - cô sẽ gặp tất cả mọi người từ khắp các nơi, tất cả đều giàu có hơn cô, nhưng không “sáng tạo” bằng cô, không đẹp bằng cô, và chắc chắn là không có những đứa con xinh xắn như mấy đứa con cô. Mình cũng dễ coi đấy chứ, Beth nghĩ. Dễ coi. Không xinh, nhưng khách quan mà nói thì cô cũng dư sức đạt điểm bảy trên mười. Khi Beth nghĩ về bề ngoài của mình thì từ “vuông” luôn xuất hiện trong đầu cô. Cô có đôi vai vuông vức - một nỗi khổ với cô, cho đến khi nó lại trở thành mốt - và một cái cằm vuông. (Một trong những câu chuyện cha cô thích kể nhất vào bữa ăn tối là chuyện lần đầu tiên ông nhìn đứa con gái độc nhất của mình rồi phê: “Con bé này có cái cằm của O’Neil. Ta có thể dùng nó để đo các góc vuông đấy.”) Thậm chí tóc Beth khi xõa ra cũng vuông, và tương tự thế, mặc cho nỗi thất vọng cùng cực của Beth, đến hông cô cũng vuông nốt. Khi cô được mười hai tuổi, vị bác sĩ khoa nhi đã vui vẻ nói với mẹ cô rằng cô sẽ “tôi ra thật dễ dàng một, hai, ba đứa với cái xương chậu rộng đến thế”. Và thậm chí cho đến khi sinh Kerry thì Beth đã lập kỷ lục với mọi người trong gia đình về việc sinh dễ như gà, tuy thế mỗi lần nghĩ đến những lời bác sĩ Antonelli nói, cô luôn cảm thấy như thể mình đã được lập trình về gien để mạnh mẽ như một con ngựa Clydesdale. Ngoại hình của Beth không thể so sánh với Ellen được, dù Ellen, người bạn thân nhất thời thơ ấu của cô cứ nói với cô cả hai mươi năm nay rằng: “Không ai nhìn mông cậu đâu, Bethie ạ. Làm sao họ chịu nổi cặp mắt xanh mê hồn của cậu chứ.” Chà, chà, Ellen. Theo Beth thì tất cả mọi người trong cuộc họp mặt cuối tuần này đều tập trung vào Ellen. Ellen cao hơn Beth gần mười phân, và nặng hơn cô khoảng mười lăm ký, típ người tóc vàng, hấp dẫn vẫn luôn làm cho cánh đàn ông phải ngoái lại đến nỗi va vào các cây cột ở sân bay. Ellen đang chờ Beth ở khách sạn. Cô cũng sống ở khu phía tây nơi tất cả đã lớn lên cùng nhau, chỉ cách căn nhà cha Beth vẫn đang ở một con đường. Ellen đã đặt một phòng cho riêng hai cô và một phòng cho Jill và lũ trẻ. Cô đã bỏ lại chồng, con trai và một xoong cá ngừ đã được hâm nóng ở lại trong một lâu đài nho nhỏ ở vùng ngoại ô phía Bắc để đi mua một cái áo đen rất hợp thời trang bằng tơ nhân tạo. Cô có kèm theo một bức vẽ cái áo trong thư gửi cho Beth. Viễn cảnh về mấy ngày cuối tuần đã làm cả hai trẻ lại như chỉ mới mười bảy. Ellen viết phía dưới bức vẽ: “Tớ nghĩ nếu Nick đề nghị mình ngồi chung với hai vợ chồng hắn thì mình nên làm thế nhé. Vợ hắn sẽ không có ý kiến gì đâu - rốt cuộc thì cậu đã tác hợp cho hai đứa nó mà.” Mối tình đầu của Beth - chàng trai đẹp nhất cô từng gặp, với những kỷ niệm luôn làm lòng cô quặn thắt - rất thường gặp Ellen và các anh của cô, và thỉnh thoảng cũng làm việc với chồng của Ellen về các hợp đồng phát triển nhà đất. Đã mười năm nay Beth không gặp Nick; lần cuối cùng họ gặp nhau là tại đám tang một người bạn của cả hai, một thanh niên đã đến Việt Nam hai lần rồi sau đó tự tử bằng cách tông xe mình vào đầu một xe lửa chở hàng hóa đang lao tới. Trong một điều kiện như thế, dù Beth vẫn còn thả hồn bay bổng tơ tưởng đến Nick, thì họ chỉ chạm sơ má nhau nơi cỗ quan tài thôi. Và lúc đó Beth đã tự hỏi, như cô vẫn thường tự hỏi: lẽ ra mình phải lấy anh ấy chứ. Trước đây Nick Palladino là một cậu con trai hung bạo, không phải típ học sinh, mà là típ trẻ con thích kinh doanh, thường xuyên tập tạ và hẹn hò những “em gái gợi tình hấp dẫn” từ Biệt thự Playboy ở dưới phố. Nhưng mười năm sau, khi Beth chỉ là một nhiếp ảnh gia báo chí, chỉ có đủ tiền để mua thuốc lá thì Nick đã sở hữu một công ty riêng. Mười lăm năm sau, khi Beth là một nhiếp ảnh gia báo chí đã bỏ thuốc lá thì Nick đã bán công ty xây dựng của mình với giá cao ngất ngưởng hơn giá trị thật của nó để mua toàn bộ khu nhà của Beth ở Madison. Anh kết hôn với Trisha, cô vợ tuyệt vời, mảnh mai như công chúa của anh, từng sống đối diện với trường đại học của Beth. Ngày xưa, trên sàn nhà trong sảnh Kale đó, Beth vẫn thường viết thư cho Ellen, cô thấy mình đơn độc giữa một bầy những cô gái tóc vàng Bắc Âu. Và Ellen đã viết trả lời rằng dù chuyện gì xảy ra đi nữa thì Nick cũng sẽ không yêu ai khác, rằng anh sẽ tha thứ cho Beth mọi chuyện nếu Beth quay về lại với anh. Ngồi trong xe, Beth hát nho nhỏ và nhớ về Trisha. Trisha từ Maine đến, và cô nàng chưa từng tham gia một lễ hội đường phố để vinh danh Đức Mẹ Núi Carmel. Pat và Beth đưa Trisha đến đám rước nơi những người ăn xin khiêng tượng Đức Mẹ Đồng Trinh đi khắp phố phường; thiên hạ tranh nhau dán những tờ mười và hai mươi đôla vào chiếc áo choàng bằng gốm của Mẹ. Hai người mua cho Trisha một cốc giấy đầy đậu lupini lạnh và đứng với cô bên cạnh bục của dàn nhạc, và bỗng nhiên Beth cảm nhận được sự có mặt của Nick trước khi cô thấy anh. Anh mặc chiếc áo choàng bằng da màu nâu óng đẹp nhất; và anh khiêu vũ với Beth trước, trong khi Pat đứng đó, đầy cam chịu, chiếc nhẫn của anh trên ngón tay Beth. Và rồi anh nhảy với Trisha; anh nhảy đẹp quá, Beth thấy thật ganh tị; ở khu phía Tây Chicago này không có những cô gái tóc nâu mượt mà, cổ tay thanh mảnh như Trisha. Sau một tiếng đồng hồ, Beth thấy không thể trở lại như xưa được nữa rồi. Khi Trisha kết hôn với Nick, Beth đứng trong buổi lễ cưới, say khướt, và nôn đầy ra cái áo vải bông mịn hơi dày màu be của mình. “Mọi người ai cũng có một ai đó cho mình - không, họ nói, tôi có...” Beth hát và băng qua ba làn xe để đi về phía cuối đường cao tốc liên bang 290. “Con thích khúc đó”, Ben nói. “Tao ghét khúc đó”, Vincent nói. “Thật ra là tao ghét cả bài hát đó”. Cô sẽ không nôn nữa, nhưng Beth muốn được say với Ellen, được say, được cười khúc khích, được thầm thì rồi chạy vào phòng tắm như thể họ có rất nhiều điều quan trọng cần kể cho nhau nghe ở trong đó. Cô muốn, từ nay cho đến Chủ Nhật, được quên rằng cô đã có ba con và gần đây lại có một vết thẹo nơi bụng vì sinh mổ. Beth đã cai sữa cho Kerry dù cô không muốn thế chút nào - tất cả chỉ vì buổi họp lớp ngắn ngủi ấy thôi. Cô đã đi tiệm cho thợ giũa và sơn lại mấy cái móng tay nham nhở của mình. Và cái hông to bè của cô đã giảm được hơn hai xăngtimét nhờ những bài tập thể dục dành riêng cho đôi chân. Lúc Beth đưa được xe mình vào dưới mái cổng của khách sạn Tremont trên đường School thì Ellen đã vồ ngay lấy vai cô và líu lo: “Cậu đây rồi! Cậu đây rồi!”. “Cậu tin nổi không,” Ellen thì thầm vào tai cô, “Diane Lundgren cũng có mặt nữa, mà chắc nó phải lên cả trăm rưỡi ký lô. Tớ nói nghiêm túc đó.” “Ai nữa? Còn ai nữa?” Beth vừa hét vừa bế Kerry ra khỏi ghế dành cho trẻ con. Nhưng lúc đó Ellen đã vồ vập lấy lũ trẻ, hít hít chỏm tóc của Kerry làm Kerry nhai nhai mấy cái hột của chiếc vòng đeo cổ bằng bạc của cô. “Mẹ đỡ đầu của con đây mà, Kerry Rose Cappadora,” Ellen thủ thỉ rồi lần lượt đưa tay kéo hai thằng nhóc thật mạnh vào lòng rồi hôn chúng thật kêu. Hai thằng bé, lúc nào cũng nghĩ chúng là cháu của cô, để cô hôn thoải mái; chúng rất thích Ellen, một người rất tự tin và tràn đầy sức sống so với mẹ Beth luôn thiếu tự tin và bi quan của chúng, như một hiện tượng tự nhiên, như cầu vồng và nhật thực vậy. Ellen hét toáng lên: “Vincent, con bơi được không? Răng con đâu mất rồi?” Cô hôn Jill - người cô vẫn gọi là biểu tượng thời trang của Chicago “Jilly” - rồi khoác lên vai năm sáu cái túi và giỏ của Beth. “Ta đi cất đồ cho gọn ghẽ nào, đồng ý chứ? Rồi Jill có thể đưa lũ trẻ đi tắm hay ăn trưa hay làm gì đó, còn mình thì đi uống chút gì để giải khát.” “Một giờ trưa rồi, Ellie!” Beth nói, vẫn hơi bối rối thậm chí trước mặt Jill. “Nhưng mình được tự do mà!” Ellen nhắc cô. “Mình được miễn các trách nhiệm mà. Mình không phải lái xe. Cũng không phải trông trẻ con.” Beth liếc thấy Vincent đang trừng mắt nhìn. Nó thật sự ghét cô. Với mặc cảm tội lỗi, cô đưa tay kéo nó vào lòng. “Không biết tớ có được hai phòng thông nhau không,” Beth nói với Ellen. “Có mà. Tính hết vô thẻ của tớ rồi.” Beth hết hồn. “Ellen! Làm thế không được!” Ellen có tiền - theo như Beth biết thì mọi người trong ngành xây dựng đều giàu kếch sù. Và dù Pat mơ một ngày nào đó sẽ được làm chủ một phần nhà hàng, còn Beth mơ được thật sự quản lý một tiệm chụp ảnh, có người làm công hẳn hoi, thì giờ đây họ vẫn nghèo. Theo như họ nhớ thì từ hồi nào đến giờ họ vẫn nghèo kiết xác. Có lần, anh Bick của cô đã kể huỵch toẹt với Beth rằng anh ấy và vợ đang gặp khó khăn về tài chính, rằng họ phải “sống lây lất nhờ tiền lương tháng này và mong chờ tiền lương tháng sau”, Beth đã thấy bụng quặn thắt vì hoảng sợ. Mọi người ai cũng làm thế hết à? Chẳng lẽ cô và Pat đã phải bắt đầu để dành rồi sao? Vào cái tuổi ba mươi này ư? Những người khác có như thế không? Khoảng cách kinh tế giữa Ellen và Beth thường không thành vấn đề. Ellen gửi qua bưu điện cho Beth những thứ rất ầu ơ - khăn trải giường mua ở tiệm Bloomingdale, hàng ký sôcôla, có lần lại còn gửi cả năm trăm đôla khi Beth khóc lóc kể lể qua điện thoại vì không có tiền để mua quần áo mới cho hai thằng con trong dịp Phục Sinh. Beth gửi cho Ellen những tấm ảnh đẹp nhất cô đã chụp, những bức có chất lượng như ảnh để treo ở phòng trưng bày, những bức ảnh rất đắt tiền, được đóng khung cẩn thận và được treo khắp nhà của Ellen. Ellen trả tiền ăn tại các nhà hàng khi họ đi ăn với nhau; cô còn gửi cho Kerry những trái phiếu tiết kiệm cứ như thể đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh không bằng. Nhưng có nhiều lần Beth từ chối không nhận. “Cậu không thể trả tiền cho tớ được,” cô đang nói với bạn mình. “Có..., bao nhiêu nhỉ, có bảy mươi đôla gì đó thôi mà,” Ellen đáp. “Có nhiều nhõi gì cho cam.” Beth cố làm ra vẻ hãnh diện nói: “Dù gì thì tớ cũng tự trả được vì tớ đang có việc làm thêm vào ngày Chủ Nhật mà. Tớ đang chụp tượng linh dương ở thảo cầm viên để làm sách quảng cáo.” Ellen đổi thái độ ngay lập tức. Xét cho cùng thì cô là người đồng sở hữu công ty của chồng mình; nợ vẫn là nợ, ai trả cũng vậy thôi. “Vậy thì cậu cứ lên chỗ cái đống lộn xộn kia mà sắp xếp lại đi,” Ellen bảo Beth. Họ đi theo những người khác vào tiền sảnh. Tiền sảnh đầy người; hầu hết tất cả những người từ xa về dự họp mặt đều đăng ký ở đây. Beth chịu thua. Hàng chục người cô nhận ra đi qua trước mặt cô, giống như xem một bộ phim có các ngôi sao từ hàng kỷ nguyên trước - tất cả những gương mặt quen thuộc, tất cả đều đã thay đổi, với những cái tên cô không thể nào nhớ nổi. Cô có thật sự muốn bỏ qua những giây phút tuyệt vời để thương thảo, trong tiếng sập cửa rầm rầm nơi đại sảnh, một vụ giao dịch thẻ tín dụng với một gã hai mươi hai tuổi không? Beth thấy rõ ràng là gã này sẽ chả làm nên cơm cháo gì trong vụ giao dịch đó cả. “Elizabeth - Elizabeth Kerry xinh đẹp đây rồi!” người đàn ông cao nhất trong tiền sảnh nhấc bổng Beth lên. Wayne Thunder là người Mỹ da đỏ đầu tiên và cũng là người đồng tính đầu tiên Beth quen. Có lần anh ta nói với cô: “Anh bị đồng tính là vì em đó. Vì em không xem anh như một đối tượng quan hệ.” Wayne là người huấn luyện về kỹ năng quản trị, điều hành cho công ty điện thoại; anh rất thành công, đang sống ở Thị Trấn Cổ, và đến ăn mừng lễ Tạ Ơn ở nhà Beth hằng năm. “Em có đưa mấy đứa nhỏ đến...” - Wayne đổi giọng ngay. “Mấy nhóc này là ai vậy nhỉ?” Ben và Vincent nhảy tưng tưng lên. Chúng rất mê chú Wayne, người hay lén đem đến cho chúng những hộp pháo bông làm hàng xóm của Beth và Pat đã đề nghị họ dọn đi chỗ khác sau khi Wayne làm cháy hàng rào của nhà bên cạnh. Vừa bế Ben, Wayne vừa bí mật nói khẽ với Ellen và Beth: “Anh gặp Cecil Lockhart rồi. Cô ấy trông giống Gloria Swanson lắm. Tóc bạc trắng - cô ta cố tình nhuộm như thế đó.” Beth ngạc nhiên khi thấy mình vẫn khó chịu y như ngày xưa mỗi khi nghe đến tên Cecil Lockhart. Cô thấy mình đã mong rằng Cecil - cô gái mắt xám, đẹp như một con thiên nga, lớn lên ngay sát bên nhà Ellen, đối thủ chính và thường xuyên của Beth, người luôn giành được làm đứa bạn thân nhất của Ellen - sẽ không có mặt trong dịp này. Beth cho rằng Cecil (tên thật là Cecilia), nghiên cứu sinh duy nhất của trường đại học Immaculata từ năm cô còn học ở đó, đã gặt hái được nhiều thành công trong lãnh vực sáng tạo hơn mình. Và điều đó luôn làm cô đau khổ. Cecil là một diễn viên, từng dạy môn kịch nghệ tại nhà hát Guthrie ở thành phố Minneapolis và nhà hát Goodman ở thành phố Chicago - cô đã kết hôn với rất nhiều người. Giờ thì Ellen kể với Beth rằng Cecil vẫn mặc quần áo cỡ nhỏ số sáu, với một cái thắt lưng. Ellen biết thế, vì cô đã gặp Cecil hồi năm ngoái tại một buổi khiêu vũ nghệ thuật. Cecil còn là người đầu tiên trong đám các cô từng làm tình - lúc mười lăm tuổi. Cô ta thích chuyện đó. Có lần, khi còn là sinh viên năm thứ ba, cô ta nói với Beth rằng mình không tưởng tượng nổi làm sao có thể nhịn được cả tháng mà không làm chuyện đó. Thình lình Beth thấy những cô hoạt náo viên. Họ đứng tụm lại nơi bàn giấy, mỗi nhóm tám người, vẫn là một nhóm, như thể họ đã trưởng thành thật êm thắm theo hình kim tự tháp. Chồng họ, những người cổ to bè, điềm tĩnh, đứng sau lưng họ. Khi thấy Beth và Ellen, họ lao tới. “Bethie!” Jane Augustino, Becky Noble, Barbara Kelliher đều hét lên. Họ ôm chầm lấy Beth, người họ nhớ chỉ vì là cô bạn nối khố lùn tì của Ellen, cô đồng nghiệp người vùng Amazon của họ, và vì cô không thừa hưởng được chút gì từ người cha vùng Sicily ngoại trừ cái tên. Ellen, một nhà cách mạng từng đọc cuốn Manchild in the Promised Land, thực sự chưa bao giờ thích chuyện nhảy tưng tưng để cổ vũ; cô tâm sự với Beth rằng mình đã từng làm chuyện ấy chỉ vì nó là thứ để mồi chài bọn con trai rất đạt. Thậm chí cách đây mười lăm năm, Beth còn không chịu tập nhảy lộn vòng dù chỉ để kiếm tiền. Nhưng giờ thì cô sung sướng ôm tất cả các bạn gái, những cô bạn thuộc hàng nổi tiếng nhất trường, cẩn thận chú ý đến cặp đùi lùn tịt, chắc nụi của Barbara, đến mái tóc vàng hoe cứng đơ của Becky, đáp lại lời khen của họ về nụ cười tươi như hoa phô một cái răng của bé Kerry. Và khi cô quay lại với chiếc xe đẩy hành lý, cô loạng choạng ngã dúi dụi vào ngực Nick Palladino. “Sao em có được mấy nhóc tì này hay thế?” anh hỏi. Và Beth thấy chao đảo. “Em chỉ tạo ra chúng với những thứ tụi em có thôi,” cô đáp. Cô và Nick ôm chào nhau; rồi Trisha tiến đến ôm cô. Nick và Trisha mặc hai bộ đồ vải bông trắng mà nếu một ai khác mặc thì trông sẽ rất buồn cười. Trên người họ, hai bộ quần áo trông giống như trang đôi quảng cáo trên tờ Town and Country vậy. Beth kéo Jill lại gần. “Nick này, đây là Jill, cháu họ của Pat.” Ellen ôm chào Nick. Rồi Nick quay sang Vincent bắt tay nó. “Chú suýt là bố cháu rồi đó,” anh nói nhỏ với Vincent, vừa không để Trisha nghe nhưng cũng để làm vui lòng Beth. Cô khúc khích cười và đến xếp hàng để vào quầy lễ tân. “Bố cháu là Patrick Cappadora,” Vincent dữ tợn đáp lời Nick. “Jill này,” Beth nói. “Đẩy cái xe này tới thang máy rồi lấy chìa khóa đi đậu xe đi cưng.” Cô giao Kerry cho Ellen rồi đặt Vincent lên xe đẩy hành lý. “Vincent, mẹ muốn con nắm tay Ben. Nắm thật chặt đấy. Con có thể nhìn khắp chung quanh khi đứng trên cái xe buồn cười này. Nhưng nhớ nắm tay em khi mẹ trả tiền cho bà kia nhé. Rồi sau đó thì con có thể đi bơi.” Vincent hờ hững nắm tay Ben. “Em thương anh lắm, Vincent à,” Ben vừa nói vừa cố đến gần mấy món đồ chơi trên kệ đựng báo. Vincent cười gượng. “Em nói thương con đó,” Beth nhắc. “Con không dễ thương với em được một tí sao?” “Anh cũng thương em, Ben,” Vincent mệt mỏi nói. “Con nóng quá, mẹ. Cổ con ngứa muốn chết đây.” Và lúc đó - Beth sẽ không bao giờ có thể xua tan hình ảnh này khỏi tâm trí, dù cô có thể xua được những cảnh tượng quý giá lộn xộn khác - Vincent đã có một trong những giây phút rất ân cần lạ lùng mà nó chỉ thể hiện với Ben hay Kerry chứ chưa bao giờ với Beth. Và thậm chí cũng chưa bao giờ với Pat nữa, vì tình yêu Vincent dành cho Pat là tuyệt đối. Vincent đưa tay ra ôm chặt ngang bụng Ben và giả vờ đưa một ngón tay vào nách Ben. “Cù nách này, cù nách này, cu Ben tóc quăn già khú này.” Nó nói thế, còn Ben vặn vẹo người vì khoái chí. Ừ, được đấy, Beth nghĩ. Cô nói: “Giờ thì chỉ cần một phút nữa thôi nghe con. Chị Jill đang lấy mấy túi xách. Con đứng đây nhé.” Nick đã bỏ đi chỗ khác. Cô có thể thấy Ellen đang bị cánh đàn ông vây kín, với vòng hoa màu hồng trên đầu cao hơn hẳn mấy phụ nữ khác, đang cầm tay Kerry vẫy vẫy tạm biệt. Beth tiến đến quầy tiếp tân. Cô gái đứng nơi quầy đang nói điện thoại với ai đó ở sân bay, cô giải thích một cách gay gắt rằng không, không có chiếc xe buýt nào như thế cả, và không, cô ta không biết một công ty tắc-xi nào đang hoạt động ở vùng này cả, và dù sao thì cô ta cũng đang rất bận. Quá mệt mỏi, cuối cùng cô nàng quay sang Beth, chật vật lắm mới thấy được Vincent đang nhô lên thụp xuống trên chiếc xe đẩy hành lý, và gọi: “Thưa bà?” Beth đang lướt nhìn mấy cái cửa để tìm bóng dáng Jill; đậu một cái xe phải mất bao lâu nhỉ? Bị hỏi bất thình lình, Beth giật mình làm rơi ví lên quầy, suýt đổ tràn các thứ trong ví xuống đùi cô gái. Có lẽ chỉ mất năm phút. Dù cô gái quá chậm chạp, dù lúc đầu do nhầm lẫn, Beth đã đưa cô thẻ mua xăng, và cô ta đã quẹt nó mà chẳng để ý đó không phải là thẻ Visa. Chắc chắn không phải là mười phút, sau này Beth thường nói với cảnh sát như thế, dù Beth tình cờ gặp một người em họ của Pat, và là người cùng làm những bài thí nghiệm khi xưa với cô khi còn học trung học, Jimmy Daugherty, bây giờ làm cảnh sát ở Parkside. Tối đa là mười phút, không hơn. Cuối cùng, tay cầm một xấp giấy than, với cái ví, và núm vú giả của Kerry, Beth đi về phía thang máy. Vincent đang đứng ủ rũ dựa vào tường, lấy chân chầm chậm đẩy tới đẩy lui chiếc xe đẩy hành lý. “Em Ben đâu con?” Beth hỏi. Vincent nhún vai rất điệu nghệ. “Nó không cho con nắm tay. Nó muốn dì Ellen cơ. Cổ con ngứa muốn chết đây mẹ à. Con bị rôm cắn.” Beth lơ đãng kiểm tra cổ nó, đầy vết mẩn đỏ. “Chờ chút nghe con.” Cô tìm Ellen trong tiền sảnh; cô ấy kia rồi, thật dễ tìm. Beth huýt sáo. Ellen, tay bế Kerry, đang khó nhọc len tới phía cô. “Cậu có giữ Ben đó không?” Beth hỏi; sau này cô thường nhớ lại rằng lúc đó cô không hề hoảng loạn. Không giống cái cách cô đã cảm nhận ngay lập tức tại một hội chợ của tiểu bang khi Ben mới lên hai, đi lang thang, rồi đám đông khép lại chung quanh nó. Cô không có cái cảm giác chới với tiếp theo là mê loạn đó. Ben đang ở trong tiền sảnh mà. Tiền sảnh chật ních những người, toàn là người tốt, những người trưởng thành biết Beth, những người sẽ hỏi một đứa bé rằng mẹ nó đâu. “Ellen, Ben đi mất rồi. Mình phải tìm nó trước đã.” Ellen đảo mắt rồi đi về phía kệ đựng báo. Có đồ chơi trên những cái giá quay quay - những miếng mồi nhử con nít. Beth đi ra ngoài kiểm tra cẩn thận cả hai phía dọc theo con phố rực nắng, rồi quay trở lại, đi vòng quanh khu thang máy, và lao thẳng vào quán cà phê đang vắng khách. Có phải cô hầu bàn duy nhất kia đã thấy một thằng bé đội mũ bóng chày đỏ? Không. Beth quỳ xuống trên hai đầu gối rồi nhìn qua đám đông cỡ chiều cao của Ben. Nhưng chỉ thấy những đôi chân mang giày cao gót hay đế thấp. Cô chạy trở lại thang máy. “Vincent, con nghĩ kỹ lại xem, Ben đi về phía nào?” “Con không biết.” “Con không trông chừng em à?” Chính lúc đó Beth mới thở hổn hển, và hai bàn tay cô ngứa ran, y hệt như lần cô suýt đụng phải một xe hơi khác và suýt bị trặc mắt cá chân. Ben ơi! Cô nhủ thầm. Dùng tâm trí mà nghe tiếng mẹ đi con. Ellen chầm chậm len lỏi qua đám đông, nhìn Beth dò hỏi. “Nó không ở đằng kia.” “Ellenie...” “Tụi mình phải báo cho người quản lý khách sạn.” “Tớ không biết; có lẽ mình nên chờ...” “Không, mình phải báo cho người quản lý.” Cô gái nơi quầy nói ông quản lý đang ăn trưa, và nếu họ muốn thì họ có thể điền vào một cái đơn tả những gì họ mất. “Những gì chúng tôi mất là một đứa bé!” Ellen hét vào mặt cô ta. “Gì cũng được. Ông quản lý sẽ trở lại lúc...” cô gái nói. Ellen chạy nhanh qua sảnh chờ và nhảy lên một xe đẩy hành lý. Cô ấy cao gần một mét tám, và thậm chí trước khi cô hét lên “NGỪNG LẠI!” thì cả đám bạn cũ đã quay lại nhìn cô rồi. Và khi cô hét lên thì tất cả mọi người đều ngừng lại như thể một công tắc đã được bật. Điện thoại reo vang. Một nhân viên trực tầng ở phía ngoài gọi: “Ông Chuck!” “Tất cả chúng ta cần phải tìm đứa con trai nhỏ của Beth Kerry,” Ellen nói. “Cháu ba tuổi, tên là Ben, và vừa có mặt ở đây cách đây một phút. Chắc cháu đang ở trong phòng. Vậy hãy chia nhau đi tìm chung quanh chỗ các bạn đang đứng đi. Và nếu bạn nào tìm ra cháu thì hãy bế cháu lên và đứng yên nhé.” Và tất cả đã làm như thế. Họ để những cái túi xuống chân, tiền sảnh òa lên như một ban hợp xướng gồm nhiều giọng hát với những âm vực khác nhau: “Ben ơi. Ben.” Beth là người hét to nhất. Jimmy Daugherty chia tiền sảnh ra làm hai và phân chia mọi người ra thành bốn nhóm. Nick chạy xuống hành lang tầng một. Hai mươi phút sau, có vài nhóm mới đến đang chào nhau, nhưng hầu hết những người đứng gần Beth đều dõi theo cô, mắt họ ánh lên vẻ thương hại lẫn bối rối. Ben đã biến mất.