← Quay lại trang sách

Chương 22 ---

Họ của ông cảnh sát trưởng lâu đời của Parkside là Bastokovitch. Đã nhiều năm nay, Candy thường kể cho Pat và Beth rằng cảnh sát đã chế ra một lô một lốc những từ tục tĩu dựa trên cái họ đó. Beth chưa từng gặp ông ta trước khi chiếc xe không đèn không biểu tượng của ông chạy theo xe của Candy trên lối vào nhà.

Candy đã báo trước rằng ông sẽ đến để khuyên nên cẩn thận. Cô vừa gạt tấm rèm ra vừa nhìn chiếc xe của người đàn ông nổi tiếng đó chạy chầm chậm về phía nhà Beth và nói: “Mọi người thường tin rằng chỉ khi ta đứng dậy thì ta mới biết mình đã ngồi quá lâu. Điều này hiển nhiên là một sai lầm.” Cô mở cửa ra.

“Xin chào thủ trưởng.”

“Chào thám tử.” Rồi ông tiếp: “Candace.”

“Tôi rất vui khi anh đến như thế này. Đã đến lúc phải tiến hành rồi. Tôi biết thế nào anh cũng đồng ý mà.”

“Bliss này, đứa trẻ còn đang trong độ tuổi được giám hộ mà; nó sẽ không biến mất đâu,” Bastokovitch nói nhỏ và cười buồn đỡ lấy ly cà phê Beth mời.

Candy biện hộ: “Nhưng cái xe của công ty xây dựng vẫn còn đậu ở đằng kia, Ed. Điều đó có nghĩa là cha mẹ... ồ, xin lỗi Pat nhé, những kẻ tình nghi vẫn còn ở đó. Anh biết tôi mà Ed. Tôi không phải loại người luôn tiền trảm hậu tấu. Nhưng ai biết tay hiệu trưởng chết tiệt đó đã làm gì rồi? Ông ta có thể gọi điện cho họ lắm. Anh phải biết là nếu ông ta gọi họ, họ có thể đi lấy hộ chiếu ngay ấy chứ.”

Bastokovitch thở dài. “Có một cái xe cảnh sát không đèn không biểu tượng ở đằng kia kìa. Họ đứng đó để lừa thiên hạ đấy. Tụi tôi đã tìm thông tin của hai người đó rồi, Candace. Họ sống trong ngôi nhà đó đã được bảy năm. Người đàn ông, bà vợ và đứa nhỏ. Bà vợ bị... bị ung thư hay gì đó. Bà ta ốm suốt. Hằng ngày ông chồng phải đi làm xa nhà. Vụ này sẽ kéo dài rất lâu và nghiêm trọng đây, Candace. Tụi tôi không muốn ra tay một cách hàm hồ. Nhất cử nhất động của chúng ta sẽ bị săm soi kỹ lưỡng. Cô cũng biết rồi đấy. Vì thế tôi đề nghị hãy xuống đó thật êm ả, có lẽ chỉ cần một xe cảnh sát thôi, và chúng ta nữa, rồi mình sẽ nói: ‘Thưa quý ông bà, chúng tôi cần hỏi quý vị vài câu.’”

Ngay lúc đó Bender xộc vào mà không nhấn chuông cửa. Candy khó chịu nói: “Đây là nhà riêng mà Bender. Anh có biết là phải gõ cửa không?”

Anh ta lờ đi rồi gật đầu chào Pat. “Có thật như vậy không?”

Candy đáp: “Tụi tôi cũng chưa biết nữa. Cảm ơn anh đã quan tâm đến vụ này mà tới đây.”

“Sao cô hằn học thế, thám tử Bliss?”

“Tôi thế đấy, đặc vụ Bender. Càng già tôi càng khó chịu. Đến sáu mươi tuổi thì có lẽ tôi sẽ nhổ bã thuốc lá lên giày anh đấy.”

Pat đi ra nhà để xe lấy thêm ghế, mấy cái ghế xếp màu xanh biển họ dùng trong những lễ cưới hay những buổi tối thứ Bảy đông khách của nhà hàng Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ.

Bender hỏi: “Anh mua mấy cái ghế xếp màu này ở đâu thế?”

Bastokovitch có vẻ đăm chiêu. “Có một cái trát cũng không thừa đâu. Anh kiếm được không?”

“Tôi nói chuyện với bên văn phòng luật sư thành phố rồi. Tôi đã nói chuyện với Kelly Clark. Anh ta đã làm sẵn cho rồi.”

Bastokovitch nhìn Pat và Beth thật lâu. “Tôi ngạc nhiên thật đấy, quý vị ạ... hai quý vị tội nghiệp. Quý vị đã sẵn sàng đối mặt với việc này chưa?”

“Không ai muốn chuẩn bị đối mặt với một việc như thế này cả,” Beth thấy giọng mình sao có vẻ hình sự quá; ở bên cạnh Candy chừng mười lăm phút là cô luôn dùng những từ, những câu khó chịu mà Candy thường dùng.

“Chúng ta sẽ làm việc này theo đúng luật,” Bastokovitch lại thở dài. Beth nghe thấy Candy hắng giọng, cô đã hy vọng Bastokovitch đừng thở dài. “Chúng tôi sẽ bắt họ,” ông ta lại nói, lần này thì nhún vai như thể muốn Pat hay Beth vẫy cờ ra hiệu cho trò chơi bắt đầu. Khi ấy cửa bỗng mở toang. Vincent lừ đừ đi vào.

Pat giật mình nói nhanh: “Đây là Vincent, con trai tôi. Vincent, con biết dì Candy rồi nhỉ. Còn đây là cảnh sát trưởng Bastokovitch.”

Vincent nhìn thẳng vào mặt mẹ. “Kerry có phải đi họp Nữ Hướng Đạo không mẹ?”

Beth suy nghĩ một lúc rồi lục tìm một mớ thẻ làm rơi úp vãi khắp sàn nhà. “Ừ... mẹ nghĩ thế.”

“Vậy là mãi đến sau năm giờ chiều nó mới có mặt ở nhà.”

“Ừ.”

Vincent thò đầu vào nhìn quanh phòng ăn một lần nữa, nó nhìn kỹ mấy chiếc ghế xếp, chồng ảnh vẫn nằm rải rác trên bàn giữa mấy tách cà phê, tiếng thì thầm và những tràng cười phá lên từ trong bếp vọng ra nơi mấy tay cảnh sát mặc đồng phục đang thơ thẩn ở cửa sau để hút thuốc giữa mấy bụi hoa hồng.

Lúc đó Vincent mới nói: “Bức ảnh.”

Beth đưa nó ra phòng ngoài nói thật nhỏ nhẹ: “Con đã thấy bức ảnh và con biết mẹ nghĩ đó là Ben.”

“Mẹ nghĩ. Đúng rồi. Vậy, đó là Ben. Mẹ biết thế,” Vincent đáp.

“Con có nhận ra em không?”

“Khi nào?”

“Khi nó đến đây cắt cỏ ấy. Con đã nói là con không thấy nó,” Vincent nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn lên khu nhà; qua đầu Beth nó có thể dễ dàng thấy mọi thứ dù nó chỉ cao hơn Beth có hai ba phân.

“Có phải là thằng nhỏ trong ngôi nhà đỏ không?”

Không kịp suy nghĩ, tay Beth đã vung lên định vả vào mặt Vincent. Cô chưa bao giờ tát nó dù cô đã từng giật tóc nó, dù có lần cô đã xô nó ngã xuống vườn cỏ sau khi nó cẩu thả ném không phải một mà là hai quả bóng chày qua cửa sổ, hay cái lần cô khóa cửa đi ngủ mà quên mất nó đang ở thư viện hay đang chơi bóng rổ; trong tất cả những hành động tàn bạo dù ít hay nhiều đó, trong những lần cô bỏ bê, ngược đãi nó, chưa bao giờ cô tát nó. Giờ đây cô cũng không tát, nhưng Vincent né qua một bên cứ như thể cô sắp vả vào mặt nó.

“Con đã thấy nó? Con đã thấy Ben?”

“Con không... biết đó là Ben,” nó thả cái ba lô nặng như cùm xuống giữa phòng, nơi cái cặp thường nằm một đống không được mở ra, đêm nào cũng như đêm nấy. “Con chỉ thấy thằng nhóc này thường vơ vẩn ở quanh đây và con nghĩ nó giống Ben thôi. Ý con là con nghĩ nó giống Ben. Thật sự là con chưa hề nghĩ nhiều đến chuyện đó.” Beth nhìn gương mặt nó trở lại trạng thái cũ như thể một bình phong đang di chuyển rồi che khuất hồ Michigan, cô ngắm nụ cười tự mãn khinh bỉ trở lại trên cái gương mặt Reese của nó.

“Sao con không cho mẹ biết?”

Nó quay lưng đi lên lầu. Beth lại hỏi: “Sao con không cho mẹ biết? Chúa ơi, còn không thì nói với bố chứ?”

“Con đã nói cho chú Tom biết.”

“Con kể cho chú Tom rồi à? Tại sao chú ấy không nói với bố mẹ chứ?”

“Con nghĩ chú ấy không hiểu. Con không biết là con có hiểu không nữa. Giờ thì con nghĩ là chú ấy sẽ hiểu. Con thấy không cần quan trọng hóa vấn đề.”

“Nhưng tại sao con không nói gì hết vậy?”

“Con không biết.”

“Vincent này, suốt cuộc đời bố mẹ...” Nó nhìn cô đằng đằng sát khí, và Beth cố thử lại: “Con biết chuyện gì nghiêm trọng mà! Tại sao con không nói gì hết? Tại sao tự con không cho mẹ biết?”

“Nói gì à? Nói cho mẹ biết à?” Đến lúc ấy nó mới bùng nổ. “Nói gì mới được chứ, hả mẹ? Nói rằng con đã tìm được thằng em bị thất lạc lâu ngày ở dưới phố kia à? Mẹ sẽ tin sao? Mẹ sẽ chịu nghe con sao?”

“Mẹ sẽ tin con. Mẹ sẽ nghe con mà.” Nó cười khẩy.

“Vincent.” Giọng Beth gọi làm nó đứng khựng lại, khi ấy nó đã đặt chân lên bậc thang đầu tiên rồi. “Lần đầu tiên con gặp em là khi nào?”

“Mình sống ở đây bao lâu rồi?”

Ôi không, Lạy Chúa, Beth nghĩ, không. Cô nhẩm đếm trên đầu ngón tay, một, hai, ba, bốn năm.

“Chuyện đó giờ không quan trọng nữa, Vincent,” cô vừa nói vừa nghĩ. Dĩ nhiên là quan trọng chứ, không có gì quan trọng cho bằng chuyện này, và tại sao, cái gì, làm thế nào mà nó lại giữ cái bí mật này lâu được đến thế chứ? Hay có thật là thằng con trai của cô, thằng con trai của cô, cái thằng có thể làm cho máy vi tính hát, có thể giải các câu đố lại tin rằng chuyện đó không đáng xá gì? Đó không phải là thằng Vincent con cô. Phải có gì khác nữa đằng sau vụ này. Chắc chắn là thế.

Beth vừa cố điều hòa hơi thở vừa nói: “Chúng ta không thể làm gì được. Và... lẽ ra hồi sáng nay mẹ phải nói với con rồi. Mẹ thật ngốc khi đã không cho con biết.” Cô ngừng một chút. “Mẹ xin lỗi con về việc ấy. Nhưng họ đã đưa thằng bé này ra khỏi trường mà cũng không chắc lắm. Họ nghĩ nó là Ben. Thằng bé con... thấy trong hình đó. Họ nghĩ nó là em con. Và nó còn sống.” Cô lóng ngóng thêm vào: “Đó là lý do cảnh sát có mặt tại đây.”

Vincent nói: “Vậy hả, cảm ơn mẹ. Con cứ tưởng họ diễn tập cứu hỏa hay gì chứ.” Nó lắc lắc đầu. “Lạy Chúa, con đi lên lầu tắm được không? Hả mẹ?”

“Chờ chút đã,” Beth gọi. Cô không biết bắt đầu thế nào; sáng nay khi dựa đầu vào vai nó suýt chút nữa cô đã nói rồi. “Vincent này, mẹ... sẽ ổn thôi, Vincent.” Cô nắm tay nó và ngạc nhiên khi thấy tay nó thật to, sạch sẽ và ấm áp – đã bao lâu rồi cô không nắm tay nó nhỉ? Không phải để chùi sôcôla hay giằng cái búa hay con dao rọc giấy nhọn hoắt từ tay nó, cũng không phải nắm tay để dắt nó sang đường, mà là để thật sự cảm nhận nó, để thấy được hai lòng bàn tay mềm mại, cảm nhận được những đốt ngón tay cứng cáp của một người đàn ông thay cho những ngón tay nhỏ nhắn trẻ thơ – những ngón tay búp măng thon dài giống hệt tay cô, “đôi tay dành để đánh dương cầm” mà mẹ cô vẫn ấp ủ hy vọng thậm chí khi cô đập mạnh xuống phím đàn với vẻ duyên dáng của một người thợ khoan.

Cô cầm tay nó đưa lên má cô; nó để mặc cô làm thế, không phản đối cũng không rụt tay lại. “Vincent ơi, chúng ta đã khổ sở đau đớn nhiều rồi. Con cũng chịu đựng quá nhiều rồi. Ôi, Vincent, tha lỗi cho mẹ nhé?”

Cô nghe nó nói “Đừng,” và tưởng tượng cảnh nó bẽ bàng ngước nhìn vào sảnh; họ chỉ đứng cách nhóm người trong phòng ăn khoảng sáu mét. Cô nên ngừng ở đó thì hơn.

Nhưng cô lại nói tiếp: “Con tha thứ cho mẹ nhé?”

Nó hỏi: “Tha thứ cho mẹ? Mẹ đã làm những chuyện quái quỷ gì nhỉ?”

Cô không chịu nổi nữa. Một luồng hơi nóng bốc lên đầu.

Nhưng khi ngước lên, Beth thấy mắt con trai mình thật bình thản, không giận dữ, chẳng thương yêu. Chỉ có thương hại. Thương hại thuần túy. Không còn gì khác.

Cô lắp bắp: “Mẹ sẽ gọi con... khi... họ... mẹ sẽ báo cho con.”

“Dạ,” nó đáp rồi chầm chậm rụt tay về.

Candy đang gọi cô. Cô quay vào bếp.

“Nó ổn chứ?” Candy hỏi, và Beth chỉ gật đầu vì cô không muốn lỡ lời nữa.

“Tôi phải gọi cho bố mẹ tôi đây,” Pat nói khiến Beth tập trung chú ý trở lại.

“Đừng,” cô và Candy gần như hét lên cùng lúc – nhưng Beth có những lý do khác với Candy.

“Pat, chúng ta cần phải đến đó càng kín đáo, êm ả càng tốt,” Candy nói. “Đứa trẻ này có thể là... một đứa trẻ khác, làm sao mình biết được. Ngôi nhà đó có thể là một kho chứa vũ khí đạn dược. Ta không biết chuyện gì đang xảy ra trong ngôi nhà đó.”

“Cô ấy nói đúng đấy,” Bastokovitch nói.

Một viên cảnh sát trẻ nhảy lên mấy bậc cấp trước nhà rồi bước vào đưa cho Candy một xấp giấy có kẹp sẵn giấy than. Cô cảm ơn anh ta.

Candy nói: “Tôi sẽ đến đó với anh bạn Bender đây. Rõ chưa, Bob?” Bender đứng lên và chỉnh lại chiếc cà vạt màu sẫm có họa tiết cánh hoa. Beth nhìn Candy lấy súng ra khỏi túi xách nhét vào dây lưng phía sau hông phải. “Anh hiểu rồi chứ?” cô hỏi Bender, và anh đập tay lên túi áo trên ngực. “Được rồi. Vậy thì chúng ta đi thôi.” Candy nhanh nhẹn ôm Beth một cái thật chặt.

Khi Beth thấy đèn báo thắng của xe Candy chớp lên lúc xe ngừng lại nơi góc phố thì cô bắt đầu chạy. Cô chẳng ngoái lại xem Pat có đuổi theo không; chỉ đơn giản là cô nín thở mà chạy đến chỗ rẽ vào ngôi nhà đỏ ngay khi Candy và Bender đang băng qua đại lộ đến trước cửa nhà. Hai cảnh sát viên tay thủ súng đang núp đằng sau chiếc xe tải với dòng chữ ngay ngắn in bằng giấy sáp: “Công ty Xây dựng Karras.”

Jimmy chộp lấy cánh tay Beth. “Đừng,” anh ngạc nhiên nói nhỏ. Cô giật mạnh tay ra rồi nhảy băng qua bãi cỏ theo sát gót Candy đang nhìn cô giận dữ.

“Em tới đây.”

“Mẹ kiếp,” Candy nói. “Chị đã bảo em rằng chúng ta không biết... khỉ thật, Beth, đi xuống dưới kia đi. Ngay lúc này có thể hắn đang cầm súng nhắm ngay đầu em đó. Đừng có ngu thế chứ.”

Bender lên tiếng: “Chị Cappadora à...”

“Tôi muốn gặp nó.”

“Không được.”

“Thì anh làm gì được tôi nào? Bắt tôi à?” Beth hỏi.

“Ôi, mẹ kiếp,” Candy nói. Cô xoay lại đẩy nhẹ Beth ra sau lưng mình rồi nhấn chuông.

Ông ta nhỏ con. Một người đàn ông đẹp trai hông nhỏ có làn da mượt mà của dân vùng Địa Trung Hải, trông rất trẻ nếu không có hai nhúm tóc bạc hai bên thái dương. Tóc tốt đấy, Beth nghĩ; nhưng cũng chỉ là phù hoa thôi.

Candy hỏi: “Ông là George Karras phải không?”

“Vâng,” ông ta mỉm cười đáp và mở cửa rộng hơn. “Chuyện gì thế?”

“Tôi là thám tử Candace Bliss và đây là đặc vụ Robert Bender của Cục Điều tra Liên bang. Ông Karras này, ông có một đứa con trai mười hai tuổi tên là Sam đang sống trong căn nhà này phải không?”

“Tôi... con trai tôi,” ông ta nói và rồi trượt chân suýt ngã phải dựa vào khung cửa ngoài. “Chuyện gì xảy ra cho con trai tôi thế? Sam bị thương à? Quý vị là cảnh sát phải không?”

“Ông Karras này, Sam không sao, và nó đang được cơ quan bảo vệ của Quận Cook giám hộ.”

“Nó đang ở trường mà. Vì sao nó bị thương chứ?”

Candy điềm tĩnh nói: “Ông Karras, ông bị bắt vì tội bắt cóc Benjamin Cappadora vào ngày mùng ba tháng Sáu năm 1985. Ông có quyền giữ im lặng. Nếu ông từ chối quyền được giữ im lặng thì bất cứ điều gì ông nói cũng có thể được sử dụng để làm chứng chống lại ông trước tòa...”

“Cái gì?” Karras quay sang Beth nói. “Con trai tôi đang ở trường. Ai là Benjamin chứ...?”

“Nếu ông từ chối quyền được giữ im lặng thì bất cứ điều gì ông nói cũng có thể được sử dụng để làm chứng chống lại ông trước tòa. Ông có quyền có một luật sư cùng với ông bất cứ lúc nào ông chọn. Nếu ông không thể thuê một luật sư thì một luật sư sẽ được chỉ định để đại diện cho ông. Ông có hiểu những điều này không, ông Karras?”

Ông ta đáp: “Tôi hiểu chứ. Quý vị đến nhầm nhà rồi. Mấy người bị mất con, vụ bắt cóc cách đây lâu rồi đó, họ sống ở dưới kia kìa. Quý vị có thể hỏi bà hàng xóm của tôi – bà ta biết ông bố.”

Candy nói: “Ông Karras, chúng tôi vào trong nhà được chứ?”

“Dĩ nhiên rồi,” người đàn ông vừa vuốt cái áo nỉ cho phẳng vừa nói. “Tôi đang tính toán các hóa đơn. Nhưng chắc tôi không giúp gì được cho quý vị đâu vì tôi không biết gia đình đó. Quý vị nhầm nhà rồi.”

“Họ sẽ không bắt chúng ta đâu,” Beth nói. “Hả?” Karras nhìn Beth chằm chằm. “Cô là cớm à?”

“Không,” Beth đáp.

“Chúng tôi là bố mẹ nó,” lúc ấy Pat vừa thở hổn hển vừa khó nhọc đi lên mấy bậc cấp sau lưng Beth. “Chúng tôi là bố mẹ Ben, ông già chó đẻ à.”

“Thôi, thôi,” Bender nói.

Karras lại hỏi: “Gì cơ? Thằng bé ở đâu? Con trai tôi có bị thương không?”

Candy bước vào phòng khách, nơi có một cái bàn lớn để chơi bài kế bên chiếc trường kỷ bọc nhung kẻ. Nhiều xấp hóa đơn để chồng chất ở một đầu gần một máy cộng với một dải giấy dài lòng thòng. Cô nói: “Ông Karras, làm ơn giơ tay lên thật chậm...”

“Gì chứ?”

“Giơ tay lên để viên cảnh sát này có thể kiểm tra...”

“Tôi không có súng,” rồi người đàn ông quay sang Beth mỉm cười. “Tôi đang cộng các hóa đơn. Tôi không có máy vi tính.” Một cảnh sát tuần tra trẻ nhanh nhẹn vỗ vào hai bên sườn và hai bên ống quần ông ta. “Làm ơn cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy? Đây là nhà tôi. Tôi có làm gì đâu.”

Beth muốn quỳ xuống để xem xét sợi xơ của tấm thảm nơi một đống vụn khoai tây chiên lấm chấm ở một góc thảm, để được cởi dây giày và xem đôi giày tennis to tướng được xếp gọn ghẽ bên trong cửa, để được thọc tay vào túi áo khoác treo trên móc. Một găng tay dính vào trong gối trên ghế màu nâu sẫm gần lò sưởi; trên chiếc tivi có một khung hình bằng gỗ mạ vàng, trong có lồng ảnh của một cậu bé mặc đồng phục bóng chày bằng lụa xanh đang khom người cười hớn hở. Ở hai đầu lò sưởi là hai giá nến bằng gốm. Chỉ một giá có nến. Có một bình hoa lay-ơn bằng lụa trắng. Bên trên là một bức tranh – ồ không, Beth nghĩ, một bức ảnh đã được chỉnh sửa lại. Người phụ nữ nhìn thẳng vào ống kính với vẻ e thẹn duyên dáng của loài linh dương và đôi mắt to thu hút; cô ta mặc một áo đầm xám cổ cao, giống như một lễ phục với một hàng hột trai nơi cổ, và mái tóc nhạt màu của cô bị thổi ngược ra sau khỏi vầng trán cao. Được gió thổi đây, Beth nghĩ; họ đã dùng quạt thổi khi chụp ảnh. Cô lần tìm mép ghế nhưng trượt tay và ngã ngồi trên sàn nhà.

“Beth!” Candy quay lại nhưng mắt vẫn nhìn Karras trong khi ông ta đưa tay theo phản xạ để kéo Beth lên.

Beth thở hổn hển. “Cecil đó. Đúng là Cecil Lockhart.”

Karras nói: “Vâng. Cô ấy đúng là Cecil mà. Cô ấy là nữ diễn viên. Cô thấy cô ấy trên tivi à?”

Beth cố thở điều hòa lại. Cô bắt đầu lấy thế để đứng dậy rồi hỏi. “Sao ông lại có hình của Cecil Lockhart chứ?”

George Karras ưỡn ngực với vẻ rất tự hào, rồi gật đầu, mím môi ra chiều buồn bã, một sự ăn năn Beth sẽ không bao giờ quên.

Ông ta đáp: “Đó là vợ tôi.”