Chương 21 ---
Sau này Beth nhận ra rằng cô đã không chợp mắt chút nào. Cô cứ ngồi đó nhìn ánh đèn, hai cánh tay cô đau như kim châm vì cái lạnh mùa thu, mắt cô rát bỏng; và rồi cô tiếp tục thức, ngồi đó nhìn vào nơi ánh đèn đã tắt.
Trời đã sáng. Cô liếc nhanh xuống đường xem có dấu hiệu của chiếc xe nào lui ra khỏi lối vào nhà để đi làm lúc tám giờ sáng không nhưng chẳng thấy. Bây giờ hãy còn sớm, vẫn chưa đến bảy giờ.
Beth nhổm dậy và thấy đũng quần jean của mình vẫn còn ướt lạnh, cô nhìn lên cửa sổ phòng ngủ quay ra đường của mình. Pat đã thức dậy chưa nhỉ?
Từ từ đã nào, Beth nghĩ. Mình sẽ đánh thức Kerry; rồi đánh thức Vincent. Mình sẽ đong cà phê rồi bỏ vào máy pha cà phê. Rồi mình sẽ gọi điện cho Candy. Khi trong nhà còn yên ắng, mình sẽ gọi cho cô ấy. Beth mở cánh cửa lưới, và nghĩ đến lúc gọi điện cho Candy, ý nghĩ đó chấp chới trong đầu cô như đuôi một cánh diều.
Pat đang ngồi nơi bàn đọc cho Kerry nghe những lời hướng dẫn đằng sau hộp ngũ cốc Cheerios.
Vincent đang đứng quay lưng về phía Beth ăn bánh mì nướng. Mấy vết nhăn trên mặt Pat hằn rõ; trông anh tái nhợt, hai mọng mắt sưng to và đỏ sậm hơn của ông Angelo.
Anh nói với Beth: “Kerry đang ăn sáng nè.”
“Em thấy rồi,” Beth vừa đáp vừa nhìn vào gương nhà tắm; trông cô nhăn nheo bẩn thỉu.
“Mẹ làm gì trên hiên vậy?” Kerry hỏi.
“Mẹ ngắm mặt trời lên,” cô đáp rồi quay sang hỏi con trai: “Vincent, con có cần mẹ chở đến trường không?”
“Bố của Jordie sẽ đưa tụi con đi,” nó nói nhỏ.
“Ờ, vậy thì tốt,” Beth đi vào bếp rồi đong cà phê đổ vào túi lọc. Nhưng Pat đã pha cà phê rồi.
Pat pha rất nhiều. Cô đổ đống cà phê mới xay xuống bồn rửa chén. Cô nghe Pat giục giã Kerry mangia, mangia, ăn đi, ăn đi, vì đã sắp đến giờ đi bộ tới trường.
Kerry nói với anh: “Con sẽ đi xe đạp. Con đã chín tuổi rồi. Con lớn tuổi hơn mười tám đứa lớp ba đó bố.”
Pat nhẹ nhàng bảo nó: “Con không đi xe đạp được vì nhà mình gần trường mà. Với lại con không có cái khóa xe.”
“Bố mua sẵn cho con một cái đi nhé.”
“Ờ, để rồi bố mua cho.”
“Hôm nay nhé.”
“Được rồi. Ngay sau khi con đi học là bố đi mua ngay, đến chiều về là con có thể gắn nó vào xe mà.”
Beth nghe mà sửng sốt. Đến khi Kerry đi học về thì ai – ai trong những người ngồi quanh cái bàn này – nhớ đến khóa, đến xích, đến mã số để mở nữa chứ? Nhưng cô hiểu ra ngay là Pat sẽ nhớ. Để chuộc lỗi, Pat sẽ đi mua khóa trước. Thế cho nên cô không ngạc nhiên khi anh đưa Kerry ra cửa, hôn con bé thật nhẹ rồi gọi nó là “Chicoria,” cái tên Ý của một loài hoa dại. Beth nghe tiếng anh khởi động xe rồi lái đi....
Từ từ, cô nghĩ. Từ từ đã nào. Giờ thì sao nhỉ? Beth rót cà phê ra tách rồi hấp tấp đưa lên môi khiến môi cô bỏng rang phồng rộp lên một đường. Vincent đang chuẩn bị đi học. Cô va phải nó nơi cửa và thình lình, cô thấy sợ hãi, cô dựa đầu vào vai nó – vai nó bây giờ cũng cao bằng vai cô rồi. Nó dừng lại, xốc cái ba lô lên vai bên kia rồi nhìn ra ngoài đường với một cảm xúc mãnh liệt.
“Chào mẹ,” nó nói mà không ngoái đầu lại. Cô thấy hàm nó giật giật như thể mấy cơ bắp đang bị kích động vì choáng váng.
“Vincent, chờ chút,” cô cần phải nói ngay cho nó biết. Cô phải nói với nó, nhưng cô nói gì được bây giờ?
Rằng “Có thể một thằng nhóc sống cách đây hai khu nhà là em con, cu Ben vẫn chưa chết.”? “Và bố mẹ vẫn chưa biết thêm chi tiết nào về việc em con bị đánh cắp ngoài những chi tiết từ cái ngày con nằm trên chiếc xe đẩy hành lý tại khách sạn Tremont ngủ tay ôm cái chăn của em trước ngực.”?
Thay vì nói thế, cô chỉ nói: “Vincent, mẹ yêu con. Mẹ muốn con biết là mẹ yêu con.”
Nó đáp: “Dạ, cảm ơn mẹ.” Không chút ngạc nhiên. Nó vẫn không nhìn cô.
“Chúc con một ngày tốt lành.”
“Mẹ cũng vậy.”
Beth nghe tiếng sỏi lạo xạo dưới bánh xe của bố Jordie khi ông lái chiếc Chevy màu đỏ lên lối vào nhà. Ngay khi cửa sập lại sau lưng Vincent, Beth thấy có cái gì đó trên chiếc ghế nơi nó đứng ăn bánh mì. Phân nửa phần bánh mì vẫn còn nằm trên mép bàn, ngay bên tô ngũ cốc trộn sữa đã hết của Kerry. Có một mảnh giấy, không phải, một tờ giấy trên ghế. Cô cầm lên.
Đó là một trong những bức ảnh chụp nguyên gương mặt cậu bé đang cắt cỏ. Không phải mấy bức cô đã đưa cho Pat xem. Bức này đã được treo trên dây đêm qua. Một trong những bức rõ nhất. Beth đã định đưa bức này cho Candy.
Beth chạy ra mở toang cửa. Chiếc xe đã rẽ ở góc phố, đèn xi-nhan vẫn đang nhấp nháy. Tuy vậy cô vẫn cố hét lên: “Vincent, chờ chút!” Đèn xi-nhan vẫn nháy nhưng xe cứ tiếp tục chạy. “Không!” Beth la lên. Quả là điên rồ. Lẽ ra cô phải cho nó nghỉ ở nhà. Nó không còn là đứa bé lên bảy nữa. Để nó đi học hôm nay quả là không nên không phải.
Nhưng đã tám giờ hơn rồi. Cô cầm điện thoại lên rồi bấm số điện thoại nhà của Candy.
“Bạn yêu quý!” Candy kêu lên mừng rỡ. “Chị đang bị trễ lắm rồi đây. Em ăn trưa với chị một ngày nào đó trong tuần được không?”
“Candy này. Em có chuyện cần nói với chị.”
“Có gì rắc rối hả Beth?” giọng Candy căng thẳng. “Pat ốm hả?”
“Candy, nghe em nói này,” cô ngừng lại để lấy hơi. “Em nghĩ là em đã tìm được Ben.”
Vì Beth đã thấy chuyện này nhiều lần rồi nên giờ trong tiếng lặng thinh ở đầu máy bên kia, cô vẫn có thể hình dung cảnh ở đó như đang xem một đoạn phim, xem Candy Bliss thả cho cái túi xách to đùng trượt xuống nơi cánh tay như con mèo mệt mỏi nằm ườn xuống, xem cô giơ một ngón tay tuyệt diệu lên khoảng giữa hai mắt rồi nhấn, nhấn, nhấn thật mạnh.
“Beth, em nhận thư hay điện thoại vậy?”
“Em thấy nó, Candy à. Nó đến gõ cửa nhà em.”
“Nó đến... nó đến nhà em à? Ở đây? Nó tìm ra em ở đây sao? Ben chắc... để xem nào... chắc nó cũng đến mười hai tuổi rồi Beth nhỉ? Em nói là nó về nhà rồi à?”
“Không. Nó không nhận ra em. Nó sống ở đây. Em nghĩ cái người... cái người bắt cóc nó ấy, đang sống ở gần đây.”
“Không thể thế được.”
“Nó ở đây thật. Có điều em không biết chắc đó có phải là nó không thôi.”
“Em biết.”
“Em không biết nữa. Trông nó giống như tấm hình được máy vi tính vẽ ra ấy. Cặp mắt nó vẫn mang màu xám kỳ lạ đó, không có tí xanh nào. Đôi môi và cặp mắt – đúng rồi, chị có thể nói chắc chắn chín mươi phần trăm rằng đây là con em. Nó có hai xoáy giữa trán nữa.”
“Còn vết bớt thì sao?”
“Candy, em không tuột quần nó xuống được.” Khi nói thế, tim cô quặn thắt. Ai... ai đã làm được thế chứ? Kịch bản là như thế nào nhỉ? Nào, chị Cappadora, hãy chọn đi, cửa số một, số hai hay số ba? Tay lừa đảo, kẻ ham muốn, hay tên gạ gẫm? Đây có phải là Ben không? Chín năm đã được thu ngắn lại thành một ngày một đêm và một ngày. Đã hết chưa nhỉ?
“Chị sẽ chạy đến ngay,” Candy nói.
Beth biết chính xác Candy phải mất bao lâu để đi từ căn hộ của cô ấy đến nhà Beth – cũng tùy theo giờ trong ngày. Cô liếc đồng hồ. Cô còn hai mươi lăm phút.
Chạy lên lầu, cô cởi quần jean và cái áo sơ mi nhớp nháp vẫn đang hôi mùi hóa chất dùng để rửa ảnh. Cô tắm rửa sạch sẽ rồi cẩn thận mặc bộ đồ đi làm vào – quần vải và áo dài có thắt lưng. Cô sấy tóc cẩn thận thay vì chỉ dùng mấy ngón tay để chải. Cô lấy mascara chải lông mi cho cong lên. Cô ngồi xuống giường, cố bình tĩnh lại. Đôi chân cô tê dại, đôi cánh tay đờ đẫn, chỉ còn hai bàn tay cô là còn có thể bấm được máy ảnh, bụng cô, cái bụng vẫn chứa thức ăn như máy quét ở siêu thị, giờ cũng không còn cảm giác, tim cô với những cơ quan cảm thụ vỡ nát, tất cả đều đang cồn cào và râm ran.
Đó có phải là Ben của cô không – cu Ben mặt nhiều tàn nhang, đứa con yêu dấu cặp mắt lúc nào cũng long lanh nước, tưởng chừng đã chết từ lâu, lặng thinh như chiếc áo rửa tội nằm trong cái rương bằng gỗ tuyết tùng – lại còn sống như một phép màu?
Thật quá ư sửng sốt. Tuyệt vời ngoài sức tưởng tượng.
Mà cũng khủng khiếp quá.
Rồi Beth nghĩ ôi Chúa ơi, lạy Chúa, con sẽ có thể vuốt tóc Ben. Nếu cô có thể làm thế thì có phải đặt tay lên đống lửa cô cũng không màng.
Chuông cửa reo vang; nhưng Beth chưa kịp ra mở cửa thì Candy đã ào vào ôm lấy cô không cần chào hỏi. Họ đứng trong ánh sáng vỡ vụn ở phòng ngoài nơi Pat thấy họ khi đi mua khóa xe đạp cho Kerry về.
Candy hỏi: “Em chắc sợ chết khiếp nhỉ?”
“Ừ, em sợ chết đi được.”
“Sợ á?” Pat hỏi. “Sợ gì chứ? Thôi nào, tôi không chờ được thêm nữa đâu, Candy – mình phải đi đến đó ngay đi.”
Beth cáu kỉnh hỏi: “Đi đâu chứ? Mình có biết nó ở nhà nào cách đây hai khu phố đâu. Mà giờ này chắc nó cũng đã đi học rồi.”
“Hôm nay là ngày tan trường sớm. Thứ hai tụi nó chỉ học đến một giờ rưỡi chiều thôi,” Pat nói.
Cả ba đều nhìn đồng hồ đeo tay. Chỉ mới hơn chín giờ sáng. Candy lặng lẽ cầm tấm hình Vincent đã để lại, ngắm nghía săm soi trong khi Pat cứ chuyền cái khóa xe đạp hết từ tay này sang tay kia.
“Nó nói nó sẽ trở lại để cắt nốt chỗ cỏ vì hết xăng rồi,” Beth nói.
Pat bỗng gào lên: “Anh quên mua xăng rồi.”
“Nó sẽ không đến đây cắt cỏ nữa đâu, Pat,” Beth suýt phá ra cười nhưng cô kiềm lại được.
Candy nhỏ nhẹ nói: “Dĩ nhiên là mình sẽ không ngồi đây chờ cho đến khi thằng bé này nhớ đến chuyện cắt cỏ. Hai người nghĩ chưa kỹ rồi. Chị cũng không thể tưởng tượng hai người sẽ nghĩ kỹ được. Hay chị sẽ nghĩ sao. Nhưng chị sẽ cố, và điều đầu tiên mình phải làm là – Beth này, em nói nó học cùng trường với Kerry phải không?”
“Nó nói thằng bé đang học lớp sáu. Ở Sandburg.”
“Hai khối nhà riêng biệt phải không, khối cấp một với cấp hai ấy?”
“Đúng vậy. Nhưng được nối với nhau. Có chung một phòng tập thể thao và mấy phòng khác nữa.”
“Được rồi. Vậy thì chúng ta sẽ bắt đầu từ đó. Chị sẽ gọi... à, để chị gọi Jimmy Daugherty trước dù bây giờ anh ấy không lo về vụ này nữa rồi, nhưng chị biết anh ấy sẽ rất tha thiết được tham gia nếu... nếu quả đúng là như thế. Chúng ta sẽ đi đến đó hỏi tên của nó và nhân thân của người nhận là bố mẹ hay người bảo hộ nó.” Cô đứng dậy tự rót cà phê cho mình vì cả Beth lẫn Pat đều quên không rót cho cô. Rồi cô nói tiếp như thể đang đọc cho một phụ tá ghi lại. “Có thể cần phải có một trát đòi hầu tòa. Nếu nhà trường không thấy cần thiết hợp tác trong việc cung cấp thông tin cho mình thì cũng không thành vấn đề. Harry Brainard sẽ giúp chúng ta...”
Beth nhìn Pat nói: “Thẩm phán cấp cao đó.”
“Nhưng nếu chúng ta bắt đầu với những bức ảnh chụp ở trường, với những cuốn kỷ yếu thì sẽ không mấy khó khăn đâu. Chị muốn có sự hợp tác để giúp giải quyết một trong những trường hợp mất tích khó khăn nhất trong lịch sử gần đây.” Candy lấy móng tay gõ gõ vào răng. “Nhưng trước tiên chị cần xem mấy bức ảnh còn lại đã.”
Beth nói: “Ở trên bàn trong hành lang.”
“Reese xem rồi à?” Candy vừa hỏi vừa lục tìm giấy và bút chì trong giỏ.
“Em nghĩ là nó đã xem rồi. Ít nhất là một bức,” Beth nói.
Pat hoảng kinh: “Em đưa cho nó xem à?”
“Em không đưa cho nó xem. Tự nó thấy.”
Candy hỏi: “Giờ cho chị xem được chứ?”
Trừ bức Candy vẫn đang giữ, còn thì Beth trải hết ra trên bàn bếp từ đầu này đến đầu kia, theo từng hàng như trò chơi Memory con nít vẫn hay chơi trên máy tính. Candy đeo kính vào và chồm lên bàn ngắm nghía. Khi quan sát Candy tập trung xem ảnh, Beth nhận ra cô ấy đang khóc – dịu dàng, thầm lặng, không giả tạo, cũng không ồn ào, đúng cái cách Candy thường giải quyết các vụ việc. “Chị xin lỗi,” cô nói với Beth.
“Em có thể rửa thêm nữa.”
“Gương mặt này... gương mặt này.” Và Beth nghĩ đến những bức ảnh của Ben được gắn cạnh nhau trên tường phía trên bàn làm việc của Candy, những bức ảnh thẳng thớm không quăn góc, không gãy cạnh. Một bức chụp Ben đeo găng bóng chày; tấm áp phích Tìm trẻ lạc đầu tiên; tấm áp phích Tìm trẻ lạc thứ hai; cùng những bức được làm cho già đi bằng kỹ thuật vi tính với gương mặt Ben lúc sáu tuổi và tám tuổi. “Gương mặt này. Khi chị đi... Philadelphia, Santa Fe, Jersey. Đứa bé ở Palo Alto. Đứa bé trai ở Michigan. Và rồi sau đó, khi tất cả chúng ta đều cho là nó đã chết thì bất cứ nơi nào chị đến – các cuộc hội nghị, những kỳ nghỉ, nhà mẹ chị ở Tampa – chị đều đem theo bản sao của những bức ảnh này. Chị vẫn đang mang chúng theo đây.” Cô rút từ trong ví ra một phong bì màu nâu nhạt rồi đổ những thứ trong đó ra bàn. “Và chị nhận ra rằng sau vài năm đầu tiên việc chị tìm kiếm gương mặt đó đã thành một thói quen như việc hít thở vậy. Giống như gương mặt tưởng tượng của một người yêu toàn bích vậy. Chị thường nói: ‘Hãy xuất hiện đi, Ben. Trong công viên này. Tại hội chợ này. Hãy cho dì thấy con trên phố đi. Cho dì đem con về với mẹ Beth đi.’”
Candy đưa mu bàn tay lên dụi mắt. “Và rồi cũng đã có lần, khi biết chỉ còn một ngày hay vài tiếng đồng hồ trước lúc chị phải rời đi, và chị gọi điện nói mình đã có mặt trong thành phố. ‘Có một đứa bé.... Đúng rồi, anh nhớ đúng rồi đấy, đứa bé nhà Cappadora...’ Và chị thường hỏi về nhân dạng của chúng. Những bé con của họ. Những bức ảnh khám nghiệm tử thi và các ngôi mộ. Những cánh đồng chôn cất những người vô thừa nhận và những miếng đất đẹp đẽ. Chỉ hy vọng và muốn đó là Ben. Cũng khiếp sợ nếu đó là Ben. Nhưng phần lớn là hy vọng rằng Ben sẽ được tìm thấy. Thế thôi. Thậm chí nếu chị có phải báo cho em biết rằng nó đã chết, đã chết lâu rồi.”
Cô đưa tay ra nắm lấy tay Pat. “Chị muốn thấy gương mặt này. Chị muốn Ben trở về. Vì hai người. Và vì chính chị nữa.”
Và rồi, run lẩy bẩy, cô đứng lên tìm điện thoại. “Chị sẽ gọi cho trung úy phụ tá của chị và cả ông cảnh sát trưởng nữa để báo cho họ biết mình sẽ bắt tay vào việc.”
Pat hỏi: “Chúng ta phải làm gì? Mình có nên đi đến trường nó không?”
Candy ngập ngừng: “Paddy này, cho đến khi chúng ta có thể nhận dạng được thằng bé này – ý chị là cho đến khi chứng minh được chắc chắn một trăm phần trăm đây là Ben – thì ta mới loan báo tin này ra. Bây giờ thì, về mặt pháp lý, cậu bé này vẫn đang thuộc về ai đó mà chúng ta biết là bố mẹ nó....”
“Bố mẹ nó ư?” Pat đau đớn thét lên.
“Chị muốn nói là khi chưa biết chắc đó là Ben, chúng ta không thể đến bắt một đứa trẻ nào đó chỉ vì tóc nó đỏ giống tóc chú Harold rồi đưa đến nhà hàng Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ để ăn braciole được.”
“Vậy thì làm sao chúng ta tìm ra được?”
“Cứ theo những thủ tục bình thường. Thử máu. Tìm các vết bớt. Dấu vân tay nữa, dĩ nhiên rồi. Biểu đồ răng....”
Beth nói: “Lúc đó nó mới có ba tuổi, Candy. Nó chưa có biểu đồ răng. Mình nói chuyện này cả triệu lần rồi mà. Chị không nhớ à?”
“Ờ, đúng rồi. Chị lú lẫn quá. Xin lỗi quý vị một lúc nhé?”
“Quý vị ư?” Câu này làm Beth bị sốc.
Candy chẳng phải là người trong nhà sao? Hay gần như thế? Chẳng phải cô đã từng có mặt trong những chầu nhậu, những buổi picnic trên một cánh đồng ẩm ướt, lễ kỷ niệm đám cưới lần thứ hai của Candy và Chris tại nhà hàng Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ, một bữa tiệc nướng tại nhà hàng của bà Rosie, Candy đưa Kerry đi chơi cưỡi ngựa lần đầu tiên đó sao? Tất cả những chuyện ấy được thu gọn lại chỉ còn một khoảnh khắc ngắn ngủi, cũng như sự vắng mặt của Ben. Một ngày sau buổi đêm của một ngày.
Candy vẫn là một thám tử. Họ chỉ là thường dân.
“Giờ thì chị phải đi đến trường với...,” mắt Candy lướt nhanh trên bàn, “với bức ảnh này. Và dĩ nhiên là với mấy tấm kia nữa. Hai người ở đây chờ điện thoại nhé. Jimmy sẽ gọi ngay khi họ tìm thấy nó. Anh ấy biết là phải đến đây trước. Giờ thì kiên nhẫn đợi nhé. Chịu khó một chút.” Cô kéo lê cái túi bước ra ngoài.
Beth bỏ Pat ngồi lại trong bếp, cô đi lên lầu rồi nằm xuống cái giường đã được dọn gọn ghẽ. Một lúc sau Pat lên nằm cạnh cô. Họ không chạm đến nhau cũng không nói lời nào. Tiếng chuông điện thoại làm cả hai giật nảy mình nhưng không ai đưa tay ra nhấc máy. Khi tiếng máy tự động bật lên, họ nghe tiếng Jimmy hét: “Lạy Chúa tôi, Bethie! Tụi tớ điên lên hết ở đây này. Bethie? Pat? Hai người có đó không? À, mà tớ cũng không biết hai cậu có ở đó không nữa, nhưng tớ đang trên đường đến đó đây.” Dường như anh ta quay qua nói chuyện với ai đó: “Tôi biết. Anh có tin được chuyện này không?” Và rồi: “Tớ đang đến đây. Hãy kiên nhẫn nhé, Beth, Pat, Vincent.”
Sau này Beth cũng không nhớ họ đã nằm ở đó bao lâu.
Có lẽ chỉ vài phút. Sau đó có tiếng cửa trước mở ra rồi đóng lại, rồi cô nghe Candy nhấc điện thoại trong nhà bếp. Beth nhổm người lên lăn khỏi giường; Pat đã ngủ rồi – như thường lệ. Cô ngồi trên bậc thang cuối cùng cho đến khi Candy thấy cô.
“Họ muốn phải có trát của tòa. Chị đang chờ nói chuyện với Brainard đây.” Beth lặng thinh.
Cuối cùng khi Candy nói xong, cô quay lại phía Beth nói ngắn gọn: “Chị không kiên nhẫn nổi nữa. Chị vã hết mồ hôi ra rồi đây. Họ đã cho chị xem kỷ yếu. Nó học ở đó từ mẫu giáo. Tên nó là Sam Karras. Bọn chị không lấy được tên bố mẹ nó, nhưng Beth này...” Candy đến ngồi bên cạnh cô.
“Nó là con một.”