← Quay lại trang sách

11. THUYỀN TỪ CỨU ĐỘ

“Kẻ mất ngủ mới thấy đêm dài. Lữ hành mệt mới thấy đường xa. Đối với người ngu, con đường luân hồi thật là vô tận” Phật ngôn này đúng với tâm trạng ông bá hộ Đa Phúc. Tiếng cú ăn đêm trong rừng sâu vọng lại như tiếng gọi của Tử Thần. Tiếng vượn hú từng hồi, buồn ảo não. Tiếng chó sói tru dài nghe rùng rợn thê lương. Ông bá hộ nghe không sót bất cứ một thứ âm thanh nào, cả tiếng tim đập nhanh và tiếng thở dài nặng nhọc của chính mình.

Hai sự kiện cùng quan trọng đang đè nặng tâm hồn ông. Một là sự mất tích của Toàn Thắng con trai cưng của ông trong cuộc tử chiến vừa qua. Ông bị bắt, nhưng Toàn Thắng sống chết thế nào, hiện lạc lõng nơi đâu. Hai là nhiệm vụ của Thiện Duyên, ngày mai phải tìm cho ra một tế vật khác để thay mạng cho ông. Tìm được thì vì ông mà một người chết. Tìm không được thì Thiện Duyên phải đối phó ra sao. Ông không dám nghĩ tới. Thật ra, ơn ông đối với Thiện Duyên không to, nhưng ơn Thiện Duyên đối với ông thì quá lớn. Ông làm sao đáp đền. Rồi ông nghĩ đến vợ con. Nếu không có Thiện Duyên thì vĩnh viễn không bao giờ họ được gặp ông và ngược lại. Thế là bao nhiêu tâm sự ngổn ngang cứ mãi ám ảnh, khiến ông không tài nào chợp mắt, mặc dù trong người vô cùng mệt mỏi vì lo buồn, và thiếu ngủ.

Riêng tâm trạng của Thiện Duyên cũng vô cùng phức tạp. Chàng cảm thấy nhớ cha mẹ thấm thiết. Nhớ thôn nghèo quen thuộc. Nhớ mái nhà tranh nhiều kỷ niệm. Nhớ các bạn đóng khố thỉnh thoảng kéo nhau tấn công lũ trẻ Bà La Môn phách lối, khinh người. Nhớ thương bầy bò hiền lành, dễ dạy. Nhớ dòng sông A-chi-ra-va-ti bãi lài, nước ngọt và ngay lúc ấy, bỗng xuất hiện lên hình ảnh khả ái của Li-Lan. Chàng cảm thấy nhớ thương nàng lạ lùng. Nhưng nghĩ đến thân phận hèn mọn và đời sống phạm pháp của mình, chàng lại thở dài tủi thân, buồn cho số kiếp. Rồi chàng nghĩ đến nhiệm vụ ngày mai.Thế là chàng cũng thức trắng đêm.

Sáng hôm sau tuy mệt, nhưng chàng cũng phải mang vũ khí ra đi, đi bắt một người để thế mạng một người, chàng loanh quanh từ sáng đến chiều nhưng chẳng một bóng người nào. Đến khi mặt trời xuống gần ngọn cây, bỗng mắt chàng ngời sáng lên: một người đang đi về phía chàng. Chàng lăm lăm vũ khí trong tay, ẩn mình chờ đợi. Không hiểu lữ hành vô tình hay cố ý mà cứ bước đi với những bước chân thật đều.

“ Đứng lại. Đứng lại”, - chàng hét thật to, tay cầm vũ khí từ trong nơi ẩn nhảy ra chặn đường. Thấy có biến, lữ hành dừng bước, cử chỉ bình thản, cặp mắt ngó thẳng, không hề hốt hoảng.

Trong tư thế đối mặt, Thiện Duyên nhìn kĩ thì ra lữ hành không phải là người thường mà là một tu sĩ ẩn dật. Chàng hỏi:

- Ông đi đâu?

- Bần đạo đi Sa-oách-thi.

- Đi một mình?

- Vâng.

- Bộ không sợ sao?

- Bần đạo không sợ.

- Không sợ cả cái này sao? Vừa nói chàng vừa đưa thẳng mũi kiếm về phía vị Sa môn.

- Bần đạo cũng không sợ.

- Đừng giỡn mặt. Kiếm là vật vô tri mà cũng rất vô tình. Ông đừng quên là sau khi ông chết thì vợ con ông sẽ khổ đấy.

- Bần đạo là Sa môn ẩn dật, sống độc thân, không gia đình, không sản nghiệp, do đó bần đạo không có chi để mà thương tiếc, khổ sở. Kể cả xác thân và mạng sống này, bần đạo cũng không thương tiếc. Nếu đạo hữu cần đến mạng sống, thì cứ tự nhiên đừng ngại.

- Đừng lý sự. Hãy theo tôi.

Trời chiều hẳn mà Thiện Duyên vẫn biệt dạng. Chúa đảng cho rằng chàng đã trốn nên ra lịnh hành quyết ông bá hộ để tế thần. Trong khi ban tế đàn đang chuẩn bị tiến hành nghi lễ thì Thiện Duyên về đến.

Mọi người kể cả Chúa đảng đều đưa ánh mắt về phía chàng. Sự thật, họ không phải nhìn chàng mà là nhìn vị Sa môn, một hình thức hoàn toàn xa lạ đối với họ. Đầu thế phát. Mình đắp áo cà sa. Ngoài cái bát và cây dù, vị sư không còn vật gì khác. Mặt dù bị bắt, vị sư vẫn bình thản, gương mặt không đổi sắc. Chính đạo phong, định lực của vị sư khiến mọi người kính nể, Chúa đảng lên tiếng:

- Người có hình thức như ông, gọi là gì?

- Là “người xuất gia”, là “Sa môn”, là “Tỳ kheo”. Gọi bằng từ nào cũng được.

- Người xuất gia nghĩa là gì?

- Nghĩa là loại trừ.

- Loại trừ cái gì?

- Loại trừ các hành động bất thiện của thân, khẩu, ý. Ba nghiệp bất thiện này như ba đống lửa bốc cháy hừng hực thiêu đốt chúng sanh thường trực. Cho nên bần đạo phải loại trừ chúng ra khỏi đời sống “xuất gia” của mình. Tư cách loại trừ các bất thiện pháp là điều phúc lạc.

- Còn Sa môn là gì?

- Sa môn là “tịnh giả” nghĩa là người có đời sống an tịnh, thánh thiện, không có vũ khí trên tay, không gây đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần cho tha nhân, chấm dứt nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới, là người vô cụ như hùm dữ bị bẻ răng, nhổ móng.

- Còn “Tỳ kheo” là thế nào?

- Tỳ kheo có hai nghĩa: người tri cụ, người xin ăn.

- Ủa, sao lạ vậy. Vừa rồi ông bảo ông là người vô cụ thế sao bây giờ ông bảo là người tri cụ.

- Người tri cụ và người vô cụ khác nhau. Vô cụ nghĩa là không đáng sợ như hùm dữ đã bị bẻ răng, nhổ móng, không thể có những hành vi tội lỗi. Còn tri cụ là người biết sợ luân hồi. Vì chính luân hồi là nhân tố gây ra tất cả sự kiện kinh cụ như sinh cụ, lão cụ, tử cụ, biến hoại cụ, quả báo cụ v.v...Nghĩa thứ hai là khất sĩ tức là người ăn xin.

- Vậy thì ông là người ăn mày?

- Vâng, cũng tương tự như vậy nhưng phương cách hoàn toàn khác biệt. Sáng sớm bần đạo mang bát vào xóm. Người ta cho món chi có thể ăn được là bần đạo nhận vừa đủ ăn. Bần đạo không van xin, không nhận nhiều, không nhận món ăn sống, không nhận tiền và tất cả những vật dụng khác ngoại trừ thực phẩm đủ no một buổi. Do đó, cách ăn xin và cách sinh sống của bần đạo rất giản dị, trong sạch, không gây phiền phức cho ai. Chưa một người nào phải đổ máu tươi, trào lệ nóng, mất gia tài tiêu sự nghiệp vì phương cách sống của bần đạo.

Mọi người trầm tư, nhất là chúa đảng. Câu nói vừa rồi của vị sư đã khiến ông ta suy nghĩ. Ông ta nhận thấy cuộc sống của vị sư không gây thiệt hại, đau khổ cho bất cứ ai trong khi ông ta sống trên sự chết, cười trong tiếng khóc và xây đắp địa vị trên xương máu của kẻ khác. Đời sống hai người khác nhau như hai thái cực.

Giữa lúc ấy, tiếng nói của vị trưởng ban tế đàn đã kéo chúa đảng về thực tế.

- Thưa chủ tướng, đã tới giờ hành lễ. Xin chủ tướng cho lịnh.

Ông ta ngó ngay vị sư, thương hại.

- Ông đừng buồn tôi nhé. Quả thật lòng tôi không muốn giết ông. Nhưng trong tình huống hiện tại tôi không còn giải pháp nào khác. Vì tất cả sự thành công lớn lao của chúng tôi đều do Nữ Thần tác tạo. Do đó, chúng tôi bắt buộc phải lấy ông trả lễ.

- Này đạo hữu, sự sống chết đối với bần đạo là dấu hiệu của một gánh nặng được quăng xuống. Tuy nhiên bần đạo có sự thắc mắc trong lời nói của đạo hữu.

- Ông thắc mắc chỗ nào?

- Thắc mắc câu nói: “Tất cả sự thành công lớn lao đều do Nữ Thần tác tạo”.

- Thì đúng vậy chớ sao.

- Này đạo hữu, đạo hữu hãy thành thật trả lời câu hỏi của bần đạo nhé. Vậy, nữ thần có trực tiếp tham chiến trong cuộc ăn hàng vừa rồi không?

- Nữ Thần đâu có làm như vậy. Người chỉ phù hộ thôi.

- Như vậy, có nghĩa là thắng lợi vừa qua là một công trình bất chiến tự nhiên thành. Có phải không?

- Đâu có chuyện dễ dàng như vậy. Chúng tôi phải chiến đấu quyết tử mới dành được thắng lợi đó chớ.

- Này đạo hữu, nếu vậy thì bần đạo có thể kết luận không sợ sai lầm rằng: công trình đại thắng vừa qua là do tài chỉ huy khéo léo của đạo hữu và tinh thần quyết tử của thuộc cấp (không trực tiếp) chớ không phải do mặc khải tác tạo của Nữ Thần. Vì nếu đạo hữu và thuộc cấp không trực tiếp hành động mà chỉ cầu nguyện đơn thuần thì muôn đời cũng sẽ không thành tựu.

Chúa đảng và mọi người im lặng, suy ngẫm.

Vị sư tiếp hỏi:

- Này đạo hữu, có phải mỗi khi xuất quân đạo hữu đều khấn vái Nữ Thần phù hộ?

- Vâng, đều phải làm như vậy.

- Có khi nào thất bại không?

- Thỉnh thoảng cũng có.

- Như vậy lại càng chứng minh cụ thể rằng chính hành động là điều kiện tất thắng chứ không phải Thần lực. Đạo hữu hãy tin ở thân lực, tâm lực và huệ lực, không nên tin vào tha lực, Thần quyền.

Mọi người lại tiếp tục suy nghĩ.

Vị sư lại hỏi:

- Này đạo hữu, đã có lần nào nữ thần chứng lễ bằng cách thực sự uống máu tươi của tế vật không?

- Nữ Thần chỉ chứng thôi chớ làm sao uống máu tươi được.

- Này đạo hữu, vật cho chỉ có ý nghĩa thực sự khi người nhận cần đến và dùng được. Còn vật mà người nhận không dùng được thì vật cho ấy cũng bằng vô nghĩa. Chẳng hạn như đạo hữu lấy máu bần đạo cho Nữ Thần. Máu không phải là thức ăn của thần. Máu chỉ làm hoen ố Thần tượng. Nữ Thần hoàn toàn không nhận, không hưởng bất cứ một giọt máu nào của tế vật. Hành động trái với Thần ý là đại tội.

Mọi người lại tiếp tục lặng thinh suy nghĩ.

Vị sư hỏi tiếp:

- Từ trước đến nay, có tế vật nào vui vẻ, hòa hài trước khi bị tế không?

- Làm gì có chuyện đó. Tất cả đều than khóc hoảng sợ và van xin được toàn mạng.

- Này đạo hữu, chính sự kiện này chứng minh thêm rằng: Tất cả chúng sanh đều tham sống sợ chết, và muốn được an vui đoàn tụ. Hành động sát hại không những trái nhân đạo, nghịch thiên ý, đắc tội lớn với người mà còn vô nhân nghịch đạo, đắc tội với chính mình vì lòng mình cũng không muốn như vậy.

Hãy ban sự sống cho kẻ khác vì mạng sống là tất cả. Tất cả nhu cầu cuộc sống đều bắt đầu từ sự sống. Sự sống là điều kiện cơ bản tạo nên một hữu tình chúng sanh. Nhưng điều kiện cơ bản tạo thành một con người là Đạo đức. Có sự sống là có chúng sanh. Có đạo đức là có con người. Vì cứu cánh cuộc sống không phải là vật chất mà là phẩm đức. Cuộc sống trăm năm của người phá giới không quý bằng một ngày sống của người có giới hạnh và định tâm.

Nói đến đây, vị sư ngồi xếp bằng, thân hình ngay ngắn, cặp mắt ngó xuống, im lặng trông như phật tượng trên bảo đoàn.

Chúa đảng giác ngộ, chấp tay, cúi đầu:

- Bạch ngài, lời nói ngài dung thông tình lý và rất thiết thực. Tôi chưa bao giờ nghe. Nếu trước đây được nghe thì tôi đã không cướp đoạt mạng sống, tài sản và sự bình an của kẻ khác. Cuộc sống quá khứ của tôi đầy tội lỗi, tối tăm và mất hướng. Chính ngài đã soi sáng đời tôi và điềm chỉ cho tôi con đường phúc lạc. Kể từ nay, tôi và toàn thể thuộc cấp xin thành tâm hướng thiện. Suốt đời xin làm đệ tử ngài và xin ngài từ bi giáo hóa.

- Lành thay, lành thay. Biển cả bao la nhưng quay đầu lại thì thấy bến bờ. Vị sư hướng dẫn họ phát nguyện quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới.

Sào huyệt thảo khấu biến thành đạo tràng của những phật tử thọ ngũ giới, của những người đã quen bỏ vũ khí, đã xa lìa các bất thiện nghiệp. Không khí rộn ràng, la ó, ăn nhậu đã nhường chỗ cho an tịnh, bi trí và thiện dũng. Ngay đêm ấy, vị sư khai thị họ bằng phương tiện giảng đạo và thiền quán.

Quả thật Phật pháp nhiệm màu. Mới có một đêm quay đầu hướng thiện mà mọi người cảm thấy như mình sắp được thành Phật. Gương mặt ánh mắt, lời nói, nụ cười, oai nghi hoàn toàn khác hẳn với đêm qua như hai thái cực. Vầng trăng giới đức đã xô đuổi được bóng đêm tội lỗi. Thân, khẩu, ý họ đẹp hơn mặt trăng. Họ là những chiến sĩ tình nguyện gia nhập đạo quân “diệt ma” xung phá tiền đồn của “ác ma” một cách bi dũng.

Sáng hôm sau vị sư hướng dẫn họ rời khỏi sào huyệt, căn cứ địa của đời sống bất thiện, đến một ngôi làng ở ven rừng. Vừa thấy họ, dân làng đã ùn ùn bỏ chạy. Nhưng đến khi nghe được vị sư giải thích, mới chịu kéo nhau trở về và tổ chức đón tiếp thật thận trọng, đạo tình.

Vì đã sắp đến rằm tháng sáu, mùa an cư kiết hạ, vị sư không tiện tiếp tục cuộc hành trình nên quyết chọn làng này làm địa điểm nhập hạ. Vị sư bèn tổ chức cho nhóm đệ tử được thọ tỳ kheo giới và điểm chỉ, sách tấn các vị tân thọ tỳ kheo tiến tu Tam học. Nhờ sự giáo dục có phương pháp của nhà sư và sự tích cực hành đạo của các đệ tử, sau ba tháng an cư, một số đắc quả thánh bậc cao một số đắc quả dự lưu, một số trở thành Thiện giả hưởng đời sống hiện tại lạc trú.

Phần ông bá hộ Đa Phúc và tất cả nhân viên tùng sự sau khi được tự do, bèn đem nhau đến chỗ giao tranh nhặt góp tất cả thi hài trong dó có xác cậu Toàn Thắng, con trai của ông, hỏa táng tại chỗ. Làm xong nhiệm vụ của người còn sống với kẻ đã khuất, tất cả cùng nhau trở về Sa-oách-thi.