12. HẠNH NGỘ
Theo luật định, sau khi xuất gia, vị tân thọ tỳ kheo phải sống dưới sự giám hộ của thầy tế độ đúng 5 năm. Khi đúng hạn và thông suốt Pháp, Luật thì vị ấy mới có quyền sống độc lập.
Thầy Thiện Duyên học đạo với thầy tế độ - pháp danh của ngài là Thượng Tọa Phất-Ti-Da (Phaddiya) được 5 năm.
Nhờ tích cực tu học, thầy làu thông kinh luật. Tuy nhiên về mặt pháp hành, mặt dù rất tinh cần, thầy cũng không đắc được bất cứ quả vị nào. Tâm thầy dao động: thương nhớ mẹ cha và cũng nhớ nhung Li-Lan. Từ ngày xa cách người thân, người thương đến nay đã 8 năm rồi. Làm sao gặp lại họ. Người thân hiện sống chết ra sao, trôi dạt nơi nào thầy cũng không biết. Còn người thương thì thầy biết chỗ nhưng lại không muốn gặp. Chính những trạng thái bất ổn này là phiền não trói buộc tâm thầy vào cạm bẫy ác ma. Không kiềm chế được tâm trạng nhớ thương, thầy xin phép thầy tế độ ra đi tìm cha mẹ.
Thế là thầy Thiện Duyên trở thành khách độc hành lần thứ hai. Nếu cuộc hành trình lần thứ nhất mang sắc thái phiêu lưu, mạo hiểm, thiếu kinh nghiệm của một thiếu niên lạc loài, một giai cấp Thủ-đà-la hạ tiện thì cuộc ra đi lần này mang ý nghĩa cảnh giác, lựa chọn, đầy kinh nghiệm của một thanh niên quả cảm, một Sa-môn vô giai cấp. Do đó thầy không gặp khó khăn trên bước đường thiên lý.
Là một bậc chơn tu, Thầy không bao giờ quên vai trò sứ giả Như Lai của mình. Tại nơi tạm nghỉ thầy đều giảng đạo, điểm chỉ, sách tấn khuyến khích dân địa phương tu thân hành thiện.
Suốt hai tháng hành trình dò hỏi, thầy vẫn chưa nắm được tin tức căn bản về cha mẹ cả. Tuy nhiên thầy không thối chí. Công cuộc tìm hiểu tin tức cha mẹ đã đưa thầy đến gần chân Hy-Mã-Tuyết Sơn.
Một hôm, phải đi qua một cánh rừng lớn, thầy cố gắng rảo bước mặc dù suốt ngày không có ăn uống. Trời chiều cảnh rừng núi hoang vắng đáng sợ. Quá mệt, thầy tạm dừng chân ngồi nghỉ. Nhìn trời càng ngày càng tối thầy lo lắng: “nếu không có nước uống chắc mình khó vượt qua cánh rừng này và đêm nay mình phải ra sao?”.
Ngồi nghỉ một lúc, thầy lại tiếp tục hành trình, hy vọng sẽ gặp suối nước. Niềm hy vọng “có suối nước” ở phía trước đã tiếp sức cho chân mỏi nhừ của thầy một khả năng. Đang bước đi với tâm trạng vừa lo lắng vừa hy vọng, Thầy bỗng nghe tiếng chó sủa. Vốn đã kinh nghiệm sống trong rừng ba năm, thầy biết chắc có cơ hội thoát nạn. Không dám chậm trễ thầy đi thật nhanh về phía ấy. Càng đi, thầy quan sát thấy cây rừng càng thưa thớt. Hiện tượng này chứng tỏ sắp ra khỏi rừng. Hoan hỷ với điều may mắn, thầy cố gia tăng tốc độ. Đi thêm một khoảng không xa, thầy thấy có ánh sáng lóe ra từ một cái chòi. Quá vui mừng, thầy đi thẳng đến gõ cửa, lên tiếng gọi chủ chòi.
Bên trong có tiếng lão ông hỏi vọng ra: “Ai đó?”.
Thầy từ tốn trả lời:
- Bần đạo là kẻ lỡ đường. Nếu lão trượng vui lòng, bần đạo xin được tá túc một đêm.
- Không nên đâu. Không thể được. Vì tôi là giai cấp Thủ-đà-la.
Vừa nghe danh từ Thủ-đà-la thầy nhớ ngay đến huyết thống, giai cấp và thân phận của mình nên muốn lên tiếng ngay rằng, mình cũng đồng giai cấp. Nhưng thầy thận trọng trả lời:
- Thưa lão trượng, bần đạo không phải giai cấp Bà-La-Môn.
- Ông thuộc giai cấp Sát-đế-lị?
- Thưa lão trượng, bần đạo không thuộc bất cứ giai cấp nào mà thực tế chỉ là một con người như lão trượng vậy.
- Thật lạ. Thật lạ. - Ông lão vừa nói vừa mở cửa cho thầy Thiện-Duyên bước vào.
Gài cửa cẩn thận, ông lão quay sang mời thầy Thiện-Duyên ngồi trên chiếc giường tre và múc đầy một bát nước vừa mời thầy uống vừa nói:
- Xin ông thứ lỗi, vì gia đình tôi nghèo, đời sống rất thiếu tiện nghi, mong ông thông cảm. Thiện Duyên cảm kích nhận bát nước. Sau khi uống thật no, thầy cảm thấy tinh thần sảng khoái, bao nhiêu sự mệt nhọc gần như tiêu tan tất cả. Thầy quan sát thấy trong chòi không có vật gì quý giá. Nhìn sang ông lão thấy ông vẫn ngồi hơ lửa gần như bất động. Cặp mắt mơ màng, vô mục đích. Cái mền đắp trên mình đã rượng tưa, gần rách. Da thịt sạm dày sương gió. Tự nhiên trong thâm tâm thầy trào dâng một niềm thương kính.
Để phá tan bầu không khí im lặng, thầy gợi chuyện:
- Thưa lão trượng, bần đạo vô vàn cảm tạ lòng tốt và nhân tình của lão trượng. Ơn này bần đạo không bao giờ quên. Nếu không phải là chuyện quấy rầy sự yên tĩnh, xin lão trượng cho bần đạo được phép hầu chuyện.
- À! Được vậy còn gì hơn. Thật ra lão ở một mình, buồn lắm. Có người nói chuyện, còn chi vui bằng.
- Thưa lão trượng, chỗ này thuộc địa phương nào?
- Thưa ông, nơi đây thuộc địa giới Ba-qua. Non hai trăm cây số về phía tây là kinh đô Ca-tỳ la-vệ (Kapilavatthu). Phía Bắc là ngọn Hi Mã Tuyết Sơn. Ban ngày, ông có thể nhìn thấy một số đỉnh núi nhỏ bao quanh đại sơn này.
- Thưa, ở đây, lão trượng sinh sống cách nào, sinh kế có dễ dàng không?
- Lão sống bằng nghề đốn tre. Tuy lãi ít nhưng cũng sống qua ngày.
- Lão trượng không có gia đình, con cháu nào sao?
- Dạ có. Lão có vợ và một đứa con trai. Nhưng cơn bạo bệnh đã cướp mất người vợ hiền, một người vợ nghèo, suốt đời cực khổ, từ đấy đến nay lão sống một mình. Thú thật với ông, đời sống của lão là một chuỗi dài bất hạnh: khổ vì nghèo, khổ vì sinh ly, khổ vì tử biệt, khổ vì thương nhớ ngập lòng.
- Lão trượng chớ quá thương tâm, trên đời những bi huống sinh ly, tử biệt ấy nào phải gia tài riêng tư của lão trượng mà là luật chung của kiếp người. Sống là nhân, khổ là quả. Một ngàn người có một ngàn cái khổ. Biết bao gia đình khổ bằng hoặc khổ hơn lão trượng. Ngó lên, thì chẳng bằng ai nhưng, nhìn xuống cũng chẳng ai bằng mình. Sống an phận, tri túc và thiểu dục là điều hạnh phúc. Thưa lão trượng, hồi nãy lão trượng bảo rằng có con, vậy chẳng hay cậu ấy hiện giờ ở đâu?
- Nó ở Sa-oách-thi kinh đô xứ Cô sa la, nó sống xa lão đã nhiều năm rồi. Ngày lão ra đi, nó được 15 tuổi. Giờ thì chắc nói đã to cao lớn xác lắm rồi.
- Thưa lão trượng cậu ấy tên là gì? Tại sao phải sống xa nhau?
- Nó tên Thiện-Duyên. Nguyên nhân phải xa nhau cũng chỉ vì nghèo, trước khi xa nó, lão có bàn với vợ lão đem gởi nó cho ông bá hộ Đa Phúc để nó có cơ hội tiến thân và tạo dựng sự nghiệp tương lai. Còn vợ chồng lão già rồi, vấn đề nghèo khổ, sống chết có sá gì. Nói đến đây, gương mặt ông lão bỗng tươi hẳn lên, ông kết luận: có lẽ giờ đây nó được đầy đủ, sung sướng và hạnh phúc.
Vừa nghe ông lão nhắc đến tên mình, thầy Thiện Duyên phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh. Vì ông lão chính là phụ thân thầy. Cha con gặp nhau mà không biết. Thầy muốn đến gần. Ngả đầu vào lòng và gọi cha thật to. Nhưng sợ e thổ lộ sớm và đột ngột có thể khiến ông lão quá vui mừng, đâm ra bất tỉnh. Do đó, thầy tìm cách khéo léo thổ lộ từ từ.
- Lão trượng có nhớ cậu ấy nhiều không?
- Thú thật với ông là không lúc nào lão không nhớ đến nó, kể cả trong giấc ngủ. Ông biết không, hôm qua lão nằm mơ thấy nó về thăm lão. Lão mừng khôn tả. Nhưng đến khi giật mình mới biết là chiêm bao. Lão lại càng nhớ nó nhiều hơn.
- Thưa lão trượng, giả như cậu ấy vì được sung sướng, không còn nhớ thương lão trượng nữa, thì lão trượng có còn nhớ thương cậu ấy không?
- Ồ, làm gì có chuyện đó, ông Sa môn. Con lão tốt lắm. Đức tánh hiếu thảo không cho phép nó quên lão. Bằng chứng cụ thể nhất là nó mới về thăm lão đêm qua trong giấc mơ.
- Thưa lão trượng, có lẽ tại lão trượng quá tưởng nhớ con nên lúc nào cũng nghĩ nó thương nhớ mình, nhưng sự thật thì con cái chỉ nhớ đến cha mẹ trong nghịch cảnh, chớ trong thuận duyên, thì con cái thường lãng quên cha mẹ.
- Nếu sự thật như lời ông nói thì cũng là số kiếp. Nhưng lão tin nó không đến nỗi tệ bạc. Nói đến đây, ông lão đứng lên đi đến liếp cửa nhìn theo kẽ hở, nghiêng tai nghe ngóng một hồi rồi vừa thở dài vừa trở về ngồi xuống bên lò lửa.
Biết rõ phụ thân đang nhớ thương ngóng trông ngày về của mình thầy Thiện Duyên cảm thấy cõi lòng se lại. Giọt lệ thương tâm đã nhiều lần chực trào ra, thầy cố cắn môi nén lòng, nhỏ nhẹ an ủi.
- Thưa lão trượng, lão trượng chớ quá thương phiền não mà hãy tự tin cậu ấy đang sống hạnh phúc. Sự kiện đáng ưu tư chính là thân phận lão trượng: tuổi đã về chiều, sức khỏe đã suy yếu, vất vả phong sương, một bóng một hình, như lá vàng sắp phải lìa cành, như mặt trời sắp lặn về tây. Có nhớ thương con nhiều cũng chẳng lợi ích gì mà trái lại chỉ làm cho mức độ khổ tâm tăng trưởng. Lão trượng hãy trở về cuộc sống nội tâm, lo tu tâm hành thiện, ngõ hầu tạo cho mình một hải đảo phúc đức tránh được hồng thủy luân hồi. Lão trượng chớ nên ỷ lại vào con, vào của vì thực tế tiền của con cái chẳng giúp mình thoát khỏi nanh vuốt tử thần. Con đường sanh tử là độc lộ trường thiên mà chúng ta là khách độc hành viễn xứ. Vậy hãy kịp thời chuẩn bị tư lương. Đừng để khát tới nơi mới lo đào giếng. Hãy tự cứu bằng hành động noi theo ánh sáng chánh pháp. Ánh sáng huyền diệu chánh pháp sẽ hướng đạo lão trượng hành trình đúng phương vị, có khả năng đánh lạc hướng theo dõi của ác ma và giúp lão trượng thành tựu được cứu cánh đời sống có ý nghĩa.