25. MỘT CÔNG TRÌNH DU HÓA
Trên bước vân du hóa độ, thầy Thiện Duyên chưa gặt hái được những thành công sơ khởi nào ngoại trừ xa được Li Lan, một ân tình, một đạo tình và cũng là một hận tình. Trong tiến trình hàn gắn vết thương lòng, chính ngoại cảnh cũng góp phần với thầy một cách tích cực, chẳng hạn như cảnh bình minh rực rỡ, buổi hoàng hôn nhạt màu, mảnh trăng rằm lơ lửng, ánh huyền ảo ngân hà, núi rừng hùng vĩ, sông biển bao la, đồng xanh bát ngát, chim hót trên ngàn, suối reo rừng thẩm, tất cả là một bức tranh tuyệt tác. Trước cảnh đẹp thiên nhiên tuy dị hình, dị âm nhưng hòa điệu này đã giúp thầy vơi được phần nào niềm đau ân oán.
Thỉnh thoảng, thầy cũng tạm dừng bước vân du để hóa độ, nhất là có cơ hội thuận duyên. Mỗi lần như vậy, thầy thường chọn một cánh rừng không quá xa thôn xóm làm nơi tạm trú, trước tiên dễ bề khất thực, sau có điều kiện tổ chức giảng đạo. Mỗi địa điểm dừng bước, lâu nhất là hai tuần. Vì nhận thấy ở lâu một chỗ bất tiện, không thích hợp với đời sống của vị Sa môn du hóa, nhất là đối với cuộc sống nội tâm hiện tại của thầy.
Suốt cuộc hành trình, thầy không gặp trở ngại về cư trú, ẩm thực. Chỉ có một điều quan trọng khiến thầy phải đối phó vất vả, đó là những kiến chấp bất đồng về cúng tế thần linh, về mặc khải Thiên sủng, về hạnh ép xác cực đoan. Mỗi khi trực diện với những sự kiện ấy thầy phải vận dụng tất cả khả năng hiểu biết giáo lý cũng như sở khiếu khẩu tài để vừa làm sáng tỏ vấn đề vừa không đụng chạm tự ái tín ngưỡng của họ. Là sứ giả, thầy phải chấp nhận sứ mệnh vô cùng khó khăn này.
Một hôm trời sắp tối, không tiện du hóa, thầy tạm nghỉ đêm dưới một gốc cổ thụ, bên bờ sông Găn-ga, gần một thôn nghèo thuộc địa phận Ma-ga-tha. Thấy có người lạ, một số bô lão đến tìm hiểu.
Cuộc tương kiến diễn ra hài hòa thông cảm. Nhân dịp này, để thực hiện sứ mạng hóa độ thầy Thiện Duyên nhã nhặn mở lời:
- Thưa quý bác, quý bác thuộc tín ngưỡng nào?
- Chúng tôi tôn thờ thất vị Mâu Ni.
- Thưa quý bác, vậy thất vị Mâu Ni là những vị như thế nào?
- Thất vị Mâu Ni gồm có: Mâu Ni Kasyapa, Mâu Ni Atari, Mâu Ni Bhàradvàja, Mâu Ni Gotama, Mâu Ni Visvàmitra, Mâu Ni Jamadagni và Mâu Ni Vàsista hiện hóa sinh Thiên giới. Đêm đêm nếu nhìn lên trời cao rộng ông sẽ thấy Bảy ngôi sao lớn an vị gần nhau. Đó là thất vị Mâu Ni.
- Thưa quý bác, thất vị Mâu Ni có quyền năng mặc khải như thế nào?
- Chư vị thỉnh thoảng giáng trần ban ân cho người thành tâm sùng bái các Ngài và sau khi họ mạng chung sẽ được các Ngài rước về Thiên giới.
Nói xong các vị đồng quỳ tuyên đọc danh hiệu thất vị Mâu Ni vô cùng kính cẩn. Sau khi tuyên đọc danh hiệu các bô lão hỏi thầy Thiện Duyên:
- Còn ông thuộc tín ngưỡng nào?
- Chúng tôi cũng tín ngưỡng Đức Mâu Ni. Ngài là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
- Thì ra vị Mâu Ni của ông là Sa môn Cồ Đàm. Nhưng ông ta là phàm thì sao có đủ quyền năng thần khải ban ân cho ông được.
- Chúng tôi không quan tâm về đặc ân về thần khải. Vì Đức Bổn Sư Mâu Ni của chúng tôi thường dạy: hãy tìm cầu đặc ân và tin tưởng nơi tự thân. Vì tha lực không giúp giải quyết được. Tìm cầu hạnh phúc và an lạc ở ngoại thân cầm bằng như tìm dầu trong sỏi đá. Chẳng hạn như mọi người phải lao động để có thức ăn áo mặc, phải chạy thầy lo thuốc khi bệnh hoạn ốm đau, phải bơi lội phấn đấu khi bị đắm thuyền, phải vùng vẫy thoát thân khi gặp cường sơn, thú dữ... Trong những trường hợp như vậy hoặc tương tự thì quả thật tha lực đành bất lực mà chính tinh thần tự lực mới là cứu tinh thực tế. Đối với vật chất thì đúng, nhưng sự phúc lạc nội tâm thì ta không thể tự cầu tìm được mà phải nhờ đến khả năng thần khải. Thưa quý bác, trong cuộc sống có hai điều phúc lạc là hữu sản lạc và vô sản lạc. Hữu sản lạc tức những phúc lạc do tài sản trợ duyên như ăn sung mặc sướng, nhà cửa cao sang, thuốc men đầy đủ, vợ đẹp con ngoan, tiền tài dư giả v.v...Vô sản lạc là những phúc lạc do lòng từ bi hỷ xả, lánh dữ làm lành, thanh tâm, định trí để đoạn diệt tham, sân, si làm trợ duyên. Vậy quý bác ám chỉ điều điều phúc lạc nào?
- Chúng tôi ám chỉ cả hai.
- Thưa quý bác, như quý bác biết, điều phúc lạc thứ nhất là chính do bàn tay khối óc, nước mắt mồ hôi, tảo tần sương nắng, vất vả nhiều bề mới tạo có được. Chính tài vật do quý bác tạo có giúp quý bác hưởng thụ phúc lạc chứ không phải do quyền năng thần khải. Còn điều phúc lạc thứ hai lại càng đòi hỏi tinh thần tự lực phấn đấu của bản thân nhiều hơn. Chẳng hạn như tham lam thì dùng hạnh bố thí giảm trừ, sân hận thì dùng đức trì giới chế ngự, si mê thì dùng lực định tâm điều phục. Nếu tự thân không phấn đấu quyết liệt thì cũng không thần lực nào có thể giúp ta thành công được.
Sự kiện được ghi nhận là các bô lão rất hoan hỷ và xin thành tâm quy ngưỡng. Thầy Thiện Duyên cho biết thầy là đệ tử của Đức Bổn Sư hiện đang ngụ tại Kỳ viên tự, nước Xá vệ về phía tây của xứ này. Thầy hướng dẫn họ quỳ gối hướng về Kỳ viên tự và trao truyền quy giới.
Sau khi công trình du hóa được thành công sơ khởi, thầy Thiện Duyên lại tiếp tục bản nguyện.
Một hôm thầy đến tạm trú tại làng Canh-ni-ca. Dân chúng địa phương hầu hết đều thờ Mặt Trời. Theo tục lệ thì chỉ những người thuộc giai cấp Bà La Môn mới có quyền trì tụng bài chú Tán Mặt Trời, còn giai cấp khác không có quyền ấy. Trong khi trì tụng, họ không dám đọc lớn vì sợ người khác giai cấp nghe, kể cả người vợ trong lúc kinh kỳ.
Nhờ làm quen với một gia đình Bà La Môn rất sùng đạo, thầy yêu cầu được nghe bài chú, ông này bằng lòng nhưng hỏi thầy thuộc giai cấp nào. Vì có dụng tâm hóa độ, nên thầy không trả lời thẳng đến câu hỏi liên quan về giai cấp mà chỉ nói mình là Sa môn.
Thoáng nghe Sa môn tưởng thầy cùng đồng giai cấp Bà La Môn, ông bằng lòng đọc:
Tat savìtra vàranyam bhàrato
Devàsayah dhimhi dhiyoyo
Nà parachodyat
“Chúng ta hãy kính lễ hào quang vô thượng của thần Thái Dương, bậc vĩ đại hơn vạn loài có khả năng tiếp dẫn chúng ta đến Thiên Đường và là con mắt của các Tiên trên trời”
Đọc xong ông hỏi thầy Thiện Duyên:
- Thầy có thần chú tùy thân không?
- Mô Phật, có. Và để đáp tấm thạnh tình ông, tôi xin đọc:
Sabbapàpassa akaranam
Kusalassupasampadà
Sacittapariyadatanam
Etam Buddhànasàsanam
(Không làm điều ác
Tu tập hạnh lành
Giữ lòng trong sạch
Ấy là lời Phật dạy)
Thầy khéo giải thích về sự linh nghiệm của bài kệ đến nỗi ông Bà La Môn ướm hỏi: “Người trì tụng Thần chú có kiêng cữ gì không?”
Thầy nói có năm điều kiêng cữ: không sát hại, không cướp đoạt, không tà hạnh, không dối gạt và không rượu chè. Thầy nói thêm, suốt con đường thiên lý, thầy hành trình độc thân không một tấc sắt bảo vệ, chính nhờ thần chú này giúp thầy an toàn và gặp nhiều may mắn. Thầy nhấn mạnh, nếu kiêng cữ đúng, truyền khẩu nhiều, trì tụng thường thì thần chú sẽ vô cùng linh nghiệm. Ông Bà La Môn tỏ lòng tin tưởng và xin được trao truyền thần chú. Thầy Thiện Duyên cũng tùy thuận thỏa mãn yêu cầu