26. MỘT CÁCH CẢNH TỈNH
Một buổi chiều nhạt nắng, những đám mây trôi lững lờ về nơi vô định, đàn chim ríu rít gọi nhau về tổ, gió thổi hắt hiu, cảnh vật nhuộm màu dương tịch.
Đang rảo bước, thầy Thiện Duyên bỗng nghe tiếng khóc than vô cùng bi thống. Động lòng trắc ẩn, thầy đi nhanh về phía ấy. Một bà lão mặt mũi bơ phờ, mắt nhòa lệ đổ, vừa kêu trời, vừa kể lể. Cách chỗ bà không xa một đống lửa hồng đang bốc cháy. Thoáng nhìn quang cảnh và nỗi thống thiết của bà lão, thầy Thiện Duyên biết chắc là một cuộc tử biệt tình thâm. Đến gần, thầy cất giọng ôn tồn:
- Thưa cụ, chẳng hay người quá cố là gì của cụ?
Vẫn nước mắt doanh tròng, bà nói:
- Nó là con trai độc nhất của tôi. Nói xong, bà gọi “con ơi, con hỡi” và khóc thét lên, hai tay bứt đầu bứt cổ.
- Thưa cụ, tôi thành thật chia sẻ nỗi đau đớn cùng cực của cụ, cầu nguyện cậu hai thượng sanh thiên giới.
Qua câu nói vô cùng lịch sự đượm nhiều tình cảm, bà lão ngước nhìn thầy với cặp mắt biết ơn.
Nhận thấy bà lão đã có ít nhiều thiện cảm, thầy Thiện Duyên tiếp lời:
- Thưa cụ, xin cụ bớt cơn sầu khổ. Sự thương tâm quá đáng sẽ gây tác hại cho sức khỏe của cụ. Hơn nữa, cậu hai đã vĩnh viễn ra đi thì cụ có thương tâm khóc kể đến đâu cậu hai cũng không sống lại được. Cái khổ tử biệt đã khiến cụ đau đớn tâm can, mà cụ còn chuốc thêm những nỗi khổ sầu, ưu não, thì chính cụ đang làm khổ cụ một cách nghiệt ngã. Để tôi kể cụ nghe hôm qua tôi gặp một người đàn bà đứng khóc trên bờ sông Găn-ga, vô cùng thống thiết. Tôi tìm hiểu thì được biết: bà ta khóc vì không ngăn được dòng nước đang chảy xuôi chiều. Bà ta còn nói thêm rằng, từ sáng sớm bà đã có mặt và năn nỉ van xin dòng nước dừng chảy bất thành nên bà khóc.
- Ông muốn ám chỉ tôi phải không?
- Thưa cụ, không phải ám chỉ mà thực sự muốn cụ vơi thảm bớt sầu qua sự kiện tôi vừa kể.
Thấy bà lão chưa có phản ứng nào khác ngoại trừ khóc thút thít, thầy tiếp tục khuyên giải:
- Thưa cụ, tôi tưởng sự không nên có những hành động phản lại ý muốn cậu hai.
Bà lão nín khóc, ngước nhìn thầy Thiện Duyên với ánh mắt hơi khó chịu.
- Tôi đâu có làm gì phản lại ý muốn của con tôi?
- Thưa cụ, cụ bình tâm nghe tôi nói. Thuở sinh tiền cậu hai thương cụ lắm phải không?
- Phải, nó thương tôi lắm.
- Và chắc chắn cậu ấy không bao giờ muốn cụ khổ?
- Đúng vậy.
- Thế mà cậu hai mới mãn phần thì cụ đã làm ngược ý muốn cậu hai. Cụ thử nghĩ, nếu cậu hai còn sống mà nhìn thấy cụ thân hình tiều tụy, mặt mày bơ phờ, tóc tai ướt át, nước mắt hai hàng, vừa khóc vừa kể, đập mình kêu trời như thế này thì cậu hai sẽ khổ tâm đến mức độ nào? Như vậy có phải là cụ đã làm khổ cậu hai không. Cậu hai đâu muốn chết để làm khổ cụ, thì ngược lại cụ cũng đừng làm khổ cậu ấy. Đó là chưa nói đến hành động tự làm khổ của cụ chẳng những không lợi ích gì cho cậu hai mà còn gây tác hại cho sức khỏe bản thân mất thì giờ, tốn tiền bạc, Nếu không khéo bị ngã bệnh thì đúng là một điều vô cùng đáng tiếc. Mà chắc chắn cậu hai không bao giờ muốn. Hãy bình tĩnh, giữ gìn sức khỏe, hành động lợi lạc để cậu hai được vui lòng.
Với ánh mắt tương đối rực rỡ và nét mặt bình tĩnh hơn trước, bà lão nhã nhặn:
- Tôi thành thật cảm ơn ông đã chia sẻ nỗi đau khổ của tôi. Những lý lẽ thiệt hơn ông khuyên giải khiến tôi tỉnh ngộ. Nhưng vì con tôi nó quá dễ thương, ngoan hiền và hiếu thảo cho nên tôi không ngăn được nổi thương tiếc ngập lòng.
Thấy tâm hồn bà có phần nào hướng thượng, thầy khích lệ:
- Thưa cụ, Đức Bổn Sư dạy: “thương yêu sanh ra lo sợ, sầu khổ. Không thương yêu không sầu khổ, lo sợ”. Thương nhiều khổ nhiều, thương vừa khổ vừa, thương ít khổ ít, không thương không khổ. Nhưng cậu hai thì cụ khổ thật nhiều, vì cụ thương cậu hai nhiều. Còn người khác vì cụ không thương nên cụ không khổ. Trong tình thương mẫu tử thiêng liêng ấy, cụ có nghĩ là sẽ làm một cái gì đó cho cậu hai được hài lòng, mãn nguyện?
- Thú thật với ông, tôi sẵn sàng làm tất cả, miễn con tôi được hài lòng. Nhưng ông ơi, nó đã thành tro bụi, vĩnh viễn tôi đành bất lực.
- Thưa cụ, không phải vậy mà ngược lại cụ có phương cách làm và có kết quả.
- Xin ông vui lòng nói rõ phương cách ấy.
- Thưa cụ vấn đề cũng đơn giản thôi. Chẳng hạn như cậu hai xuất dương du học. Lẽ dĩ nhiên cậu không dùng tiền bản xứ. Nhưng có thể chuyển ngân cho cậu ấy. Trường hợp cậu hai mãn phần và thọ sanh cảnh giới khác thì cụ cũng có thể chuyển thực phẩm, y phục cho cậu hai bằng phương cách bố thí những thứ ấy cho kẻ khác rồi hồi hướng phước bố thí đến cậu hai thì cậu sẽ được thọ hưởng tùy ý.
- Người đã chết thì làm sao biết mà thọ hưởng.
- Thưa cụ, cụ thì không biết nhưng cậu hai thì biết rất rõ. Chẳng hạn như, khi còn sống, thỉnh thoảng cậu hai có những công tác đột xuất đi xa, không kịp xin phép cụ. Lẽ dĩ nhiên cụ không biết cậu hai ở đâu, làm gì, sinh hoạt ra sao, nhưng cậu hai thì biết rất rõ nơi cư trú và cách sinh hoạt hằng ngày của cụ.
- Ông giải thích tôi hiểu khá nhiều. Tuy nhiên, vẫn chưa hết thắc mắc. Chẳng hạn như tôi đem tài vật ra bố thí và thành tâm hồi hướng cho con tôi, thì ai là người có trách nhiệm mang phước ấy đi.
- Thưa cụ, đoạn trước tôi có thí dụ phương cách hồi hướng giống như chuyển ngân. Trong vấn đề này không hẳn có một người mang tiền đem đi giao cho người được chuyển mà chỉ cần thủ tục hợp pháp là được. Tôi xin nêu một ví dụ khác. Lúc còn sống, cậu hai từng học ở trung tâm Giáo Đường Tắc-ca-si-la và thi đỗ Thủ khoa. Hay tin cậu ấy cụ có mừng không?
- Mừng lắm và mừng thật nhiều.
- Thưa cụ, cũng như thế ấy, cậu hai đang ở cảnh giới khác và biết rõ mọi sinh hoạt của cụ. Do đó cậu hai sẽ vô cùng sung sướng khi biết cụ làm phước hồi hướng cho cậu. Thọ hưởng là như vậy. Hơn nữa, sự vui mừng, lòng tự tại chính là phước. Nghĩa là bất cứ hành động nào trong thời gian cũng như không gian, có khả năng tác thành sự vui mừng và lòng tự tại cho kẻ xa người gần gọi là phước. Hồi hướng cũng là hành động biểu hiện ân tình sâu sắc, ý nghĩa tràng đầy của người sống đối với người chết một cách tập thể.
Bà lão tỏ ra vô cùng hoan hỷ hứa sẽ hết dạ phụng hành. Để cụ thể hóa niềm tin chánh pháp, bà lấy ra một nữ trang cúng dường. Nhưng thầy Thiện Duyên khước từ, bảo rằng mình không có quyền nhận lãnh, cất giữ tiền bạc, các thứ kim loại mà chỉ nhận vật thực đủ no một bữa.
Bà lão hết lời thành khẩn, rằng bà phát tâm cúng dường thầy để hồi hướng phước cho con. Hơn nữa món nữ trang ấy bà đã lập tâm dành cho cậu ấy. Nay cậu ấy đã chết, bà xin cúng dường thầy tùy nghi sử dụng.
Trước đạo tâm nhiệt thành của bà lão, thầy Thiện Duyên không từ chối, thầy bảo:
- Nếu cụ quyết tâm cúng dường để hồi hướng phước cho cậu hai thì cụ cứ để vật thí trước mặt thầy. Thầy phục nguyện phước báo thanh cao được thành tựu đến tên họ cậu hai đã quá vãng được thoát khỏi khổ cảnh và được hóa sanh thượng giới. Thầy kết luận: Thưa cụ, lễ vật của cụ hợp đạo, tác ý của cụ cụ túc, tôi người đã tùy hỉ, như vậy là phần công đức đã được châu viên. Giờ thì tôi xin bố thí lại cho cụ và một lần nữa xin hồi hướng phần phước này đến cậu hai được cao siêu lạc cảnh