← Quay lại trang sách

Chương 2 1

Quá trình Tình trở thành tên biệt kích, một cuốn truyện dài cũng khó ghi hết được. Nhưng lai lịch của gia đình Tình ở thôn Lưu Hạ thì nhiều người trong vùng đều biết.

Cụ kị nhiều đời của dòng họ gia đình Tình từ Nam Hà đến đây định cư ngay từ ngày khẩn hoang lập huyện Kim Sơn. Cả dòng họ đi theo đạo ngay từ khi xứ Lưu Hạ hạ cây thánh giá đầu tiên. Đến đời ông Bổng, bố Tình, ông đã trở thành người trông coi ruộng nhà Chung của xứ đạo Lưu Hạ, giàu có nhất vùng. Gia đình ông giàu có nhanh nhờ giáo dân trong xứ cúng nạp hoặc chiếm đoạt, khai hoang... Cho tới khi Kim Sơn có lính mũi lõ đầu tiên đến xứ Lưu Hạ, Bổng càng có quan hệ chặt chẽ. Nhờ đó gia đình thêm giàu có, danh tiếng khắp vùng. Tình ra đời trong khu nhà đạo giáo đó.

Ngay từ khi còn nằm trong nôi, Tình đã ngủ trong tiếng hát kinh, lớn lên bằng công sức cấy cày của giáo dân trên những mẫu ruộng nhà Chung.

Nếu như cuộc đời cứ như thế trôi qua, không có Việt Minh, không có Cách mạng thì chắc chắn Tình đã nối nghiệp bố. Nhưng đến năm 1953, khi ta mở mặt trận Tây nam Ninh Bình, Bổng đã chỉ điểm cho bọn Pháp bắt tất cả các sơ sở cách mạng trong vùng, rồi dẫn đường cho lính Pháp đi dọc theo đường Mười tiến về phía thị xã Ninh Bình. Nhưng mới tới gần thị trấn Phát Diệm, hắn đã bị du kích bắn chết. Trước khi chết hắn ghi lại những lòi trăng trối cuối cùng, giao toàn bộ đất nhà Chung cho Tình, con trai quản lý. Tình được các ông mũi lõ giúp đỡ bảo đảm cho thừa hưởng cái gia tài của bố chưa được bao ngày thì đoàn cải cách ruộng đất về Lưu Hạ. Bố hắn bị quy là địa chủ nhà Chung. Số ruộng Tình vừa có trong tay đã phải đem chia cho giáo dân trong vùng.

Từ đó, Tình tuy còn nhỏ, nhưng bắt đầu có mặc cảm nặng nề với cách mạng. Nỗi mặc cảm đó được lớn thêm ra từng ngày từng giờ chứ không phải từng tháng. Với cái tuổi thanh niên mới cưới vợ, Tình ý thức được việc làm của bố. Cái quá khứ của bố không thể nào chôn vùi được mà luôn luôn ám ảnh hắn đến mất ăn, mất ngủ. Lại còn mấy tháng, mình là chủ của những thửa ruộng nhà Chung nữa chứ. Tình bắt đầu nghĩ nhiều. Việt Minh chưa gọi đến mình thì bản án của mình vẫn còn treo lơ lửng đó: Nợ máu truyền kiếp với dân xứ đạo, với cách mạng. Với nợ máu đó, chắc chắn mình sẽ bị cách mạng gọi đi xử tội nay mai. Càng suy nghĩ, Tình càng tự kết tội mình là một tên tù binh bị giam lỏng rồi sẽ bị vào tù.

Thê rồi Chiến dịch Điện Biên phủ kết thúc, Pháp chịu thua, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Hàng vạn giáo dân theo Chúa chạy vào Nam. Tình cũng chạy vào Nam để phá cái nhà tù đang ám ảnh trong đầu chứ chưa hề nghĩ sẽ làm gián điệp biệt kích.

Nhưng rồi sự lý giải việc Tình bỏ trốn quá khứ lại không đưa đến kết cục như hắn nghĩ. Cơ quan tình báo Mỹ giao cho Tình tờ khai có in sẵn: họ tên, ngày tháng, năm sinh, tôn giáo, bố mẹ, gia đình... Hắn phải sống trong trạng thái chờ đợi, không công ăn việc làm, ngày ngày vào nhà thờ dõi mắt lên tượng Chúa đang dang rộng hai tay trên cây thánh giá để cầu nguyện. Đầu hắn mỗi lúc như đặc lại, đông cứng.

Một hôm, có một người mắt xanh, tay đầy lông lá, khô đét như thanh củi đến gặp Tình. Tình nghĩ, hay là mình khai có điều gì không thật? Nhưng hắn lấy lại được bình tâm, Tình đã khai thật. Hơn nữa, ở cái đất Sài Gòn này còn có hàng vạn bà con giáo dân của thôn Lưu Hạ, của các làng xã xung quanh cùng di cư biết rõ về gia đình mình, chẳng có gì mà họ không biết. Mình muốn lừa dối họ cũng không được.

Lần thứ nhất..., lần thứ năm..., lần thứ bảy... Lần nào Tình cũng khai đầy đủ theo yêu cầu của người Mỹ. Sau nhiều lần khai báo, xác minh, người Mỹ tuyên bố rằng tuyển Tình vào đội quân bảo vệ Chúa trở về Bắc. Nghe thấy thế, cảm giác sung sướng và báo thù chạy khắp người Tình. Hắn nhắm nghiền mắt lại. Nếu làm xong nhiệm vụ rước Chúa về đến Kim Sơn, mình sẽ hỏi tội những kẻ đã giết bố mình - Tên Tình nghĩ như thế. Hắn xốc chiếc túi du lịch trong tay ra ga Hòa Hưng đi Đà Nẵng. Từ đâu đó, sâu thẳm trong tâm can hắn vọng lên lời kêu sung sướng: Mình vinh dự quá, được vào đội quân đi bảo vệ Chúa.

Tàu hỏa dừng lại, Tình bước ra ga lên chiếc xe Jeep chạy thẳng đến Tiên Sa vào một chiều cuối đông. Bầu trời và biển như hòa lẫn vào nhau. Trạm ra đa của Mỹ trên đỉnh núi hướng ra phía Bắc cứ quay liên tục. Tàu chiến Mỹ ở cảng sâu Đà Nẵng nhả khói đông đặc, vật vờ, tan loãng là đà xuống mặt biển. Sóng từ phía đèo Hải Vân, phía làng Cùi vật vã dưới chân bán đảo Sơn Trà, dồn vào vịnh Tiên Sa.

Tình đi ngang qua đường goòng, bước thêm vài trăm bước thì đến chân nhà thờ Tiên Sa.

Nhà thờ Tiên Sa xây dựng bên bờ biển. Từ phía biển Đông nhìn vào, người ta dễ nhầm đó là con tàu chuẩn bị hạ thủy. Hai thành tàu hơi mở rộng, bên trên có cây thập ác làm cột buồm. Mỗi khi sóng biển xô tới chân bờ, người ta dễ tưởng "tàu" đang chồm lên trên sóng, đầu hơi nhô cao lao về phía Bắc.

Đó là nhà thờ dành cho những tên biệt kích của Sở Phòng vệ Duyên Hải thuộc Nha Kỹ thuật, Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt quân đội ngụy và dành riêng cho những tên biệt kích thuộc trung tâm huấn luyện Mỹ Khê của Phủ đặc ủy trung ương tình báo.

Linh mục Trịnh Văn Duy, cha xứ của bán đảo Sơn Trà, đại úy tuyên úy của quân đội ngụy, cứ cách một chủ nhật lại đến đây một lần. Hôm nay nghe điện gọi đến không phải vào chúa nhật, ông nghĩ ngay có việc hệ trọng. Ông không đi ô tô mà đi bộ từ Mỹ Khê tới Tiên Sa. Ông nói với con chiên là biệt kích đang huấn luyện ở trại Mỹ Khê rằng, đêm qua Chúa ở nhà thờ Tiên Sa toát ra một phép màu gọi ông tới ngay...

Khi ông nói, mọi người xúm lại, mắt đờ đẫn, đăm đăm nhìn về phía nhà thờ, tai lắng nghe vị linh mục. Sau những lời giải thích cho những "con chiên ngoan đạo nhất trên đời", ông đi dọc theo con đường nhỏ ven biển chạy song song với đường ô tô chạy ra cảng sâu Đà Nằng, nơi dành riêng cho tàu quân sự Mỹ neo đậu.

Bước vào nhà thờ, linh mục Trịnh Văn Duy nhìn thấy đại tá Sung, cố vấn tình báo Mỹ Matin và Tình đang đứng trước tượng Chúa. Tượng Chúa vẫn dang rộng tay đón cả bốn người đến nơi kín đáo này để bàn cách "trở ra Bắc".

- Thưa Đức cha, theo lệnh Đức cha, con đã có mặt.

- Cha miễn lễ cho con - Linh mục Trịnh Văn Duy cầm tay Tình nâng nhẹ - Chúa tin con, đã chọn con vào đội quân bảo vệ Chúa. Con phải chịu khó học để rồi một ngày gần đây ra Bắc lập căn cứ rước Chúa về...

- Thưa Cha, con sẽ làm trọn bổn phận thờ Chúa và chống Cộng.

Sau những thủ tục nhập môn, giáo huấn, Tình được đào tạo theo chương trình huấn luyện biệt kích của Mỹ - ngụy. Tình được ở ngay tại dãy nhà bên vịnh Tiên Sa, cách nhà thờ Tiên Sa vài trăm mét. Đêm đến, nhạc nhảy từ phía tàu chiến Mỹ run rẩy vọng đến. Những cô gái nhảy mặt dày cộm phấn uốn mông theo nhạc. Gió vẫn vỗ vào nhà thờ triển miên như tiếng gọi của hồn biển. Tiếng nhạc, tiếng gió như chất ma túy ngấm dần vào Tình, thôi thúc chóng kết thúc khóa học để trở ra Bắc thực hiện lời Chúa, trả thù cho bố.

Điều chờ đợi của Tình đã đến. Sau khóa học, hắn được chọn trong toán biệt kích đầu tiên ra Bắc. Nhưng ngay từ những ngày đầu đặt chân ra miền Bắc, hắn đã bị bắt.

2

Chị Nhung quê chính ở Lưu Phương, lấy chồng về Lưu Hạ, thôn có hơn năm chục gia đình, có hai con lạch chạy ra bãi sú vẹt, thuyền bè có thể đi lại khi nước triều dâng cao. Người thôn này hầu hết làm chài lưới, làm thợ dệt chiếu hoặc thảm cói.

Từ ngày lấy Tình, chị Nhung bỏ xã Lưu Phương sau lưng, để đến với biển vô tận. Nhưng hai năm sau, Tình lại bỏ chạy vào Nam. Từ đó, nỗi buồn không nguôi trong lòng chị. Chị sống mà như người ẩn dật, tinh thần suy sụp, mong ngày mong đêm cho đến ngày Nam Bắc tổng tuyển cử thống nhất đất nước, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ đã ký kết. Nhưng ngày đó qua đi, Nam Bắc vẫn bị phân chia. Chị không tin ngày Nam Bắc thống nhất có thực trong đời, nhưng vẫn mong chồng sống trở về với chị.

Chị đóng cánh liếp cửa sổ cho mưa khỏi hắt vào nhà, đến ngồi bên cột nhà một cách trầm lặng. Khuôn mặt trái xoan, sắc mặt hơi xanh, đôi mắt vẻ u buồn, dịu dàng nhìn lên tượng Chúa, chị lắng nghe tiếng gió rít và tiếng biển gầm rú.

- Nhung ơi, mở cửa cho ông!

Ông Tường, một người dân chài có đôi tay gân guốc, nước da như đồng đen, đội nón, khoác áo tơi từ ngoài cổng gọi vào.

- Dạ, ông đợi con một chút.

- Thằng Tình nó gửi bưu thiếp về đây này!

- Nhà con báo tin về hả ông? - Chị Nhung vội vàng mở cửa. Cơn gió xộc theo hắt cả nước mưa vào nhà.

- Bưu thiếp của bố nó đây.

Chị run run giơ hai tay cầm bưu thiếp đưa sát đến bên đèn. Nước mắt chị nhòe đi khi đọc: "Thương gửi em Vũ Kim Nhung..."

Chị nhớ lại cách đây bảy năm, cũng một đêm mưa rét như thế này, chị ôm Hương trong tay đi theo chồng vào Nam cùng Chúa. Mưa quất vào người chị đau như dần. Khi lội qua đồng cói ra biển, người chị nhem nhuốc bùn đen.

- Nhung, cố lên chút nữa là ra tới biển - Tình động viên.

- Mệt lắm rồi anh ạ - Chị thì thào - Chúng ta đi được nhiều chưa anh?

- Cố gắng đi hết cánh đồng cói này là ra tới bãi sú vẹt.

- Nhưng con nó chết mất anh ạ.

Mặt Tình bỗng tái nhợt:

- Con nó làm sao hả em?

- Nó không chịu nổi lạnh - Chị cúi xuống lấy nón che cho đứa con đã lạnh toát vì nước mưa và gió biển. Chị cho rằng đó là cái chắn che chở cho đứa con tội nghiệp.

- Lạy Chúa! Chúa ban phước lành cho chúng con!

Chị Nhung đứng sững lại, mắt mờ đi như hai chiếc lá úa sâu. Rừng sú vẹt mênh mông không biết ranh giới hiện ra trước mặt. Bên ngoài rừng sú vẹt là biển trải vô tận với những đợt sóng to nối đuôi nhau, xô đẩy vào đất liền. Rừng sú vẹt và biển rộng cùng với cơn sốt xuất hiện ở đứa con trong tay đã bắt đầu giật đi từng tia hy vọng chạy vào Nam theo Chúa của chị.

Chị cố rút chân lên thì bùn lầy lại hút chân chị. Chung quanh chị lúc bấy giờ chỉ thấy sự hãi hùng do chính nỗi sợ hãi của chị gây ga. Cái làm chị đi chậm lại, cản đường chị không phải là rừng sú vẹt, bùn lầy rậm rạp, sự mệt mỏi, mưa rơi mà chính là nỗi sợ con chết, biển cướp mất tính mạng cả hai vợ chồng. Nỗi sợ đó mỗi lúc một lớn lên không ngừng như con lũ của dòng sông. Chị cùng chồng đi trong rừng sú vẹt đầy rắn độc, sâu bọ.

Tình động viên vợ:

- Cố gắng đi hết vùng sình lầy sẽ có người đón.

Chị Nhung lê lết theo chồng trong nỗi kinh sợ đó.

Họ đi gần hết đêm. Mỗi lần chị Nhung ngã, Tình lại đỡ chị dậy, luôn miệng giục chị cố gắng bước nhanh trong cuộc chạy trốn điên rồ này. Hai người lội bì bõm trong vùng vốn đã sình lầy nhưng càng sình lầy hơn do cơn mưa tạo nên.

Chị Nhung tưởng đã đi được xa nhưng lại nhận ra chị và chồng đang luẩn quẩn trong rừng sú vẹt.

Bỗng có tiếng người phía sau.

Bây giờ chị hiểu tại sao khi phát hiện có tiếng người, chị và Tình gắng hết sức bình sinh chạy hút vào trong mưa, thì giờ đây tiếng người lại vang lên ở phía sau. Tiếng sóng biển cũng vậy, lúc nào cũng thấy ầm ầm như rừng cây đổ bão, đất bùn quay tròn dưới trời mưa.

Tiếng người ở phía sau gần hơn.

- Lại có thêm người bạn đường hay có người đuổi theo mình?- Tình tự đặt câu hỏi.

- Anh ơi, có người đuổi theo chúng ta đấy!

- Nhanh lên em!

Tình cố bước dài hơn. Chị Nhung phải chạy.

- Đưa con cho anh bế.

Hai người như những con vật bị săn lùng không đường chạy.

- Anh chạy đi, để em và con ở lại.

- Đừng em - Giọng Tình tha thiết - Anh đi một mình vào Nam thì sống sao nổi.

Chị Nhung và Tình đứng lại. Tiếng người đuổi phía sau gần hơn, nhưng chính giây phút đó quyện chặt họ với nhau hơn. Tình thương chồng vợ giờ phút ấy, chị nhập với chồng thành một con người "cùng sống cùng chết". Có lẽ, cái phần tình người thương yêu nhau khiến Tình và chị Nhung nghĩ như thế.

Tiếng người đuổi phía sau lại gần hơn.

- Anh chạy trước đi, để mặc mẹ con em. Khi nào Chúa về. Anh theo Chúa về đây - Giọng chị Nhung khản đặc vì mệt và sợ.

Tình tái mặt quát to:

- Cô không đi thực hay sao?

- Không đi nữa.

Tình quát to hơn:

- Ở lại theo Việt Minh hay sao? - Tình quát to như thét, giọng đầy hằn học - Cứ ở lại rồi có ngày chết vì bàn tay chúng nó.

Tình bước đi trong cơn tức giận.

- Lạy Chúa - Chị Nhung đưa tay lên làm dấu. Cặp mắt của chị như hai mảnh trời xám ngắt bị dông bão kéo qua.

Chị đứng giữa sình lầy ôm lấy đứa con đã chết trong tay vì cảm lạnh đột ngột mà không biết.

"Khi nào Chúa về, anh theo Chúa về đây". Lời cầu khẩn đó như tưới lên nỗi khổ cực, nỗi nhớ thương chồng. Nhiều người khi đau khổ cố gào thét cho bớt đi nỗi khổ đau, nhưng chị Nhưng chỉ đứng lặng để mặc cho nước mắt và nước mưa ròng ròng chảy qua ngực xuống thân thể đứa con đã chết. Mưa vẫn như hàng trăm chiếc mành khổng lồ bị gió thổi tạt, bay vào mặt, vào người chị, làm nước và bùn quanh chân chị cuộn lên. Chị Nhung vẫn ôm con đứng im mặc cho hai chân lún mỗi lúc một sâu hơn vào lòng đất.

Tình chạy đi được một quãng xa thì có một tốp cán bộ ba người chạy đến chỗ chị Nhung. Họ là những cán bộ đi vận động bà con giáo dân không nên nghe theo địch bỏ chạy vào Nam mà nên ở lại quê hương làm ăn sinh sống. Vì thương đứa con trên tay, chị bước theo họ trở về thôn Lưu Hạ. Từ ngày đó đến nay đã qua bảy mùa mưa bão. Mỗi mùa mưa bão đến, cứ lắng tai nghe thấy những tiếng sóng gió gầm gào, có những tiếng gì lạ lắm như hú gọi, quát tháo, như hồn biển đang nổi giận. Nhiều đêm chị nghĩ đó là tiếng chồng chị và những người đã chết trên biển cùng nhau theo sóng gió xô đẩy về phía thôn Lưu Hạ. Giờ đây biết tin chồng chị còn sống, chị mừng lắm, hy vọng được gặp lại chồng. Chị nói với ông Tường:

- Thế thì Chúa đã phù hộ anh ấy rồi!

Hy vọng được gặp lại chồng lại bắt đầu nhân lên. Chị đến gian hát kinh, ngực đeo thánh giá, ngước nhìn tượng Chúa, tay đưa lên trán: cám ơn Chúa đã cho chồng con sống!

3

Cầm tấm bưu thiếp trong tay, suốt đêm chị Nhung không ngủ được, chỉ mong trời chóng sáng. Hôm sau, khi chuông nhà thờ rung, chị bước ngay ra khỏi nhà. Chị là một trong những giáo dân đầu tiên bước vào nhà thờ cầu lễ.

Chờ mãi mới thấy linh mục Bường bước lên giảng đàn. Giáo dân đi hành lễ đều cúi đầu.

- Cha đã đến rồi! - Chị Nhung reo thầm trong bụng.

Linh mục Bường đã già, người cao dong dỏng, nước da hơi hồng, đôi mắt sắc, đeo kính trắng, cằm hơi nhô, tất cả con người linh mục có gì lạnh lùng. Mỗi khi ông nói, giọng ấm như biển ru, có sức thuyết phục giáo dân một cách lạ thường. Ông đến và bước lên giảng đàn bắt đầu buổi thuyết giáo. Sau những câu cuối cùng của bài tụng ca, linh mục Bường nghĩ ngay đến phương pháp thuyết đạo của ông: hà tiện lời thuyết đạo chung mà cần thuyết đạo riêng cho từng người. Và mỗi người lại được nghe những lời thuyết đạo đó ở một mức độ khác nhau.

- Bây giờ ai có điều gì muốn nói với Cha, hãy ở lại.

Giáo đường im lặng. Linh mục Bường đưa tay làm dấu và bước xuống bục. Tất cả giáo dân cúi xuống. Linh mục cảm thấy như tất cả giáo dân đang nâng áo ông. Nếu như bây giờ ai chạm đến thân thể ông, chắc mọi người sẽ lăn lông lốc, người này đè lên người kia suốt các bậc thang của giảng đàn. Ông nghĩ như thế và mỉm cười.

Linh mục Bường bước vào tòa giải tội. Chị Nhung bước đến trước tòa giải tội quỳ hai gối, ghé sát vào một lỗ nhỏ:

- Thưa Cha, con Mari Nhung, con có điều...

Lời nói ngập ngừng trên môi chị.

- Con hãy nói cho Cha nghe!

Tiếng linh mục vang lên trong không gian dồn dập bay trong đầu chị như một đàn bồ câu ngoan ngoãn.

- Thưa Cha, hôm qua con nhận được tin chồng con báo rằng vẫn bình yên.

Chị Nhung nghiêng mình rất thấp, nước mắt chảy ròng ròng. Vì chị nghĩ, cuộc đời đang đem đến cho chị phút giây tốt đẹp nhất.

- Cha miễn lễ cho con!

Vị linh mục nói một cách chậm, bình thản. Chị Nhung không thấy nóng lòng như lúc chưa gặp Cha nữa.

- Con kể lại cho Cha nghe làm sao con nhận được tin đó.

Sau khi nghe chị Nhung kể, vị linh mục lạnh lùng nói:

- Đưa bưu thiếp cho Cha xem.

Cầm bưu thiếp trong tay, vị linh mục đọc nhanh một lượt và nhìn kỹ hơn ngày ký trong bưu thiếp, ngày 12 tháng 3. Như một cậu học trò, vị linh mục tính ngay được ngày Tình trở về Kim Sơn theo kế hoạch của Cục tình báo trung ương Mỹ.

- Thượng đế đã biết điều này - Linh mục Bường bắt đầu thuyết giáo - Cha sẽ trình đấng tối cao điều con vừa nói - Linh mục Bường nhắc tới những điều mà bổn phận mỗi giáo dân đều phải làm.

Viên quản lý giáo xứ đi ngang qua ô cửa làm vị linh mục giật mình tưởng có người lạ. Quản lý giáo xứ là một người giang hồ, không nhà cửa, cao to như một người khổng lồ, trung thành với Cha hơn tất cả những ai đã kính Chúa.

Nhìn qua lỗ nhỏ trên tấm gỗ phía trước của toà giải tội, vị linh mục biết là viên quản lý giáo xứ, ông lấy lại được sự bình tâm, tiếp tục nói:

- Nhưng Cha khuyên con đừng quá tin rằng chồng con còn sống.

Linh mục Bường đã nghĩ quá kỹ về câu nói này. Ông nghĩ rằng, chỉ có câu nói kín kẽ đó mới có thể nói với mọi người ông là người Cha thuyết đạo chính cống.

Chị Nhung bàng hoàng, tưởng như cả nhà thờ sụp xuống, cả vùng Kim Sơn như bị biển dâng tràn qua. Nước mắt chị chảy ròng ròng.

- Nhưng đấng tối cao bao giờ cũng ở bên chồng con để che chở, nếu như có chết thì cũng cứu vớt linh hồn khỏi bể trầm luân. Con không thấy đó là điều tốt đẹp, hạnh phúc nhất hay sao?

Vị linh mục biết lời nói của ông vừa rồi làm lung lay tư tưởng chị Nhung, nhưng lại che chở kín cạnh nhất cho việc ông chuẩn bị đón Tình theo lệnh của Cục tình báo trung ương Mỹ. Ông đưa tay lên làm dấu để nện một quả đấm vào tư tưởng hoài nghi của mọi người, lấy lại bình tâm cho một người giáo dân sùng đạo.

Chị Nhung buồn rầu chào vị linh mục rồi bước về phía tiền sảnh đúng lúc ông già kéo chuông giật một tiếng đầu tiên. Vị linh mục vẫn đứng yên, nắm tay còn chưa bỏ xuống.

4

Ra khỏi nhà thờ, chị Nhung bước đi lật đật để sớm về nhà. Chị khổ đau vì cuộc đời vừa đem đến điều tốt lành lại qua đi ngay. Câu nói của linh mục Bường "con đừng quá tin rằng chồng con còn sống” như xô đẩy chị vào sự tuyệt vọng, dẫn chị vào con đường hoang vu, đưa xuống vực thẳm. Nhưng câu nói "Đấng tối cao bao giờ cũng ở bên chồng con" lại bớt đi gánh nặng của cuộc lữ hành trong đêm tối.

Chị Nhung trở về nhà trong tâm trạng khổ đau cùng tận, những cơn ác mộng thường ám ảnh chị. Mỗi lần sóng biển nổi lên, chị lại tưởng tượng như tiếng chồng hú gọi. Chị nghĩ nhiều quá sinh bệnh, đi ra bãi tha ma có những cây thập ác như rừng cây trắng, ở đó, mưa như kỳ cọ cho những cây thập ác thêm bóng sạch; ở đó, chị Nhung muốn đi ngày này qua đêm khác rồi ngã xuống nằm nghỉ cùng người mẹ dưới nấm mồ để rửa đi nỗi khổ đau thương nhớ chồng con. Chị đi về phía nấm mồ trông ra biển khi trời đã tối, biển nổi sóng to. Ôi, đứng bên nắm mồ mẹ, chị thiết tha cầu xin đấng tối cao giải thoát cho linh hồn chồng chị khỏi bị địa ngục hành hạ.

Vừa lúc ấy, có bóng đen từ phía trước tiến đến. Khi đến gần chị, bóng đen không hề cử động. Sự nín lặng và bất động của bóng đen làm chị sởn gai ốc.

"Trời ơi! -Anh ấy hiện hồn về đây rồi" - Chị Nhung nghĩ như thế rồi lùi dần về phía sau. Chị định kêu lên nhưng lưỡi ríu lại. Bóng đen vẫn tiến đến làm chị càng sợ hơn. Chị định bỏ chạy thì có tiếng nói:

- Anh đây! Tình đây!

"Ôi, đúng là hồn anh ấy theo sóng biển lên bờ về với mình" - Chị Nhung nghĩ như thế và lấy lại được một chút bình tĩnh, nói:

- Anh hãy phù hộ cho tôi sống qua cảnh nhọc nhằn.

Tình bước tiếp, suýt bật cười nhưng trở thành mếu ngay. Chị Nhung không lùi nữa mà đứng như trời trồng, mồ hôi đầm đìa hòa với nước mưa như trút chảy xuống đất. Mặt chị xám ngắt, nói không ra tiếng:

- Anh phù hộ cho tôi, đừng bắt tôi đi.

Chị khóc to hơn.

- Anh đây, Tình đây. Anh không chết đâu - Tình gào to để lấy lại bình tĩnh cho chị Nhung.

Tiếng sóng biển vẫn lạnh lùng từng đợt vọng đến.

- Thôi, đừng đùa giỡn nữa mà khổ tôi. Anh hãy tha cho tôi, xin anh tha cho tôi!

Tình tiến đến sát chị Nhung hơn, giải thích:

- Người sống có chân, còn ma đi lơ lửng.

Để chứng minh lý lẽ của mình, Tình giơ chân lên cao:

- Chân anh đây, anh đến với em bằng chân này.

Chị Nhung không phân biệt được thực hư, hỏi:

- Thế anh không chết thật à?

- Anh có Chúa phù hộ, không chết được.

Lúc này chị Nhung mới tin chồng mình còn sống. Chị vẫn đứng im không nói. Còn Tình, sau những phút giây thuyết phục vợ chiếm lòng tin, hắn lại nghĩ tới nhiệm vụ: "Khi ra Bắc, anh phải cảnh giác với tất cả mọi người, kể cả vợ anh". Đúng rồi, ở vùng này toàn là kẻ thù cả. Hắn vội vàng kiểm tra lại vợ xem có phải đã bị công an miền Bắc cử ra đón hắn không? Hắn rút súng, chĩa thẳng vào mặt chị Nhung:

- Tại sao cô lại ra nghĩa địa giữa lúc trời mưa gió như thế này?

Vừa nói, Tình vừa tiến về phía chị Nhung. Chị Nhung lùi dần về phía ngôi mộ mẹ.

- Tôi làm theo lời Cha dặn.

- Nói láo - Tình quát to hơn - Cô làm theo lời công an miền Bắc dặn.

- Không, tôi không biết công an...

Chị Nhung vấp phải ngôi mộ, ngồi bệt xuống, và bắt đầu khóc.

- Tôi mong ngày đêm ông về để rồi ông giết tôi hay sao?

Nòng súng vẫn hướng thẳng về phía chị Nhung nhưng khoảng cách gần hơn.

- Cô phải thề trước đấng tối cao và linh hồn mẹ cô rằng cô không nói dối. Nếu sau này tôi biết cô làm việc cho công an, tôi sẽ cho cô đi theo mẹ về chầu Diêm vương. Cô thề đi!

Chị Nhung đưa tay lên làm dấu và thề ràng chị ra nghĩa địa theo lời Cha dặn.

Tình đổi giọng, hỏi:

- Cha đến nhà ta hay em vào nhà thờ gặp Cha?

- Cha không trực tiếp đến mà qua viên quản lý giáo xứ.

Tình nghĩ, theo kế hoạch, viên quản lý giáo xứ sẽ ra bãi tha ma đón Tình về nhà thờ, nhưng tại sao lại đưa Nhung ra đón?

- Cha còn dặn em điều gì nữa không?

- Không dặn điều gì nữa.

Thế là Tình đã hiểu, vị linh mục lẩn trốn cuộc đón tiếp Tình vì công an đang lùng sục khắp nơi. Có lẽ ông ta nghĩ rằng Tình đã bị lộ. Thà rằng đem mình làm con tốt thí quân hơn để Cha bị lộ. Ôi, nếu đúng thế thì thật đắng cay. Nhưng rồi Tình lại nghĩ, biết đâu đó lại chẳng là thủ đoạn kiểm tra của cấp trên. Hắn vững tâm hơn. Nhưng trong hoàn cảnh này nên theo vợ về nhà hay lại ra rừng sú vẹt nằm nghe tiếng sóng biển?

Mưa bắt đầu tạnh, nhưng biển vẫn dồn sóng vào bờ. Mây đen chạy dần về phía Bắc. Ánh trăng xuyên qua các đám mây rọi xuống bãi tha ma mờ ảo.

- Anh nên về nhà!

Chị Nhung giục chồng. Tên Tình nhìn vợ một cách tuyệt vọng.

- Không được đâu!

- Vì sao?

- Anh đã bỏ chạy theo Chúa vào Nam. Nếu anh về nhà ở, họ biết, họ sẽ bắt cả anh và em.

- Nếu không về nhà, anh sẽ sống ở đâu?

Câu hỏi của vợ buộc Tình nghĩ tới những ngày đã sống len lỏi giữa rừng sú vẹt nằm dài trên chiếc võng dù trong bóng tối cứng đờ. Sống mà coi như chết. Suốt ngày đêm lo âu sợ hãi, một con cá quẫy mạnh đuôi cũng giật mình. Phát hiện thấy khả năng có người lại vội vàng cuốn võng, khoác bộ đàm thu phát đi ngay, quần áo lúc nào cũng sũng nước, mồm ngậm đầy bùn cát. Tình thấy mình như đang mặc cả với cái chết. Hay nói một cách khác là một cái xác biết cử động. Chỉ có Chúa và trung tâm huấn luyện biệt kích Mỹ Khê - Đà Nẵng là biết được còn có gì sống ở Tình mà thôi.

Lời cuối cùng của bài tụng ca tắt ngấm trên môi, chị Nhung mới chậm rãi bước đi. Chị bước đi trên con đường nhỏ giữa bãi tha ma của những con người xấu số và đau khổ. Ngoài khơi sóng vẫn vỗ. Thỉnh thoảng có chớp, tượng Chúa như hắt điện phóng ra những tia sáng lóa.

Vì thương chồng nằm ở ngoài sóng nước, chị Nhung không làm theo lời chồng dặn mà đi ngay về phía nhà thờ. Chị bước đi được một quãng xa bỗng xuất hiện một bóng đen cao to ở phía sau. Chị đi nhanh, bóng đen cũng đi nhanh; chị đi chậm, bóng đen cũng bước từ từ. Chị chạy gần về đến nhà thờ. Cửa nhà thờ vẫn đóng. Một bóng sáng nhòe mờ, hư ảo. Chị đứng yên lặng nghe thấy tiếng vang vang ầm ì của tiếng chuông nhà thờ mỗi khi luồng gió mạnh thổi qua. Chị vừa dựa lưng vào tường nghỉ thì viên quản lý giáo xứ từ phía sau chị đi đến, làm ra vẻ như không thấy chị. Chị hỏi:

- Tôi có việc muốn vào gặp Cha.

Viên quản lý giáo xứ lạnh lùng:

- Để sáng mai có được không?

- Không được. Ngay bây giờ.

Cánh cửa nhà thờ nặng nề từ từ mờ. Chị Nhung đi sau viên quản lý giáo xứ. Mấy giọt nước ở mái ngói nhà thờ nặng như chì rơi xuống đầu chị. Chị bước đến tòa giải tội đợi linh mục Bường.

Chị kể cho linh mục nghe những gì đã xảy ra ở ngoài nghĩa địa, nói lại những lời Tình dặn. Nhưng linh mục đã biết rõ mọi sự việc, dứt khoát phản đối việc Tình về ở nhà thờ, mặc dù đối với Tình, ở nơi đó an toàn hơn những nơi khác.

Ông giải thích:

- Nhà thờ là nơi lúc nào cũng sạch sẽ. Đó là một nơi lành mạnh. Vì vậy, khi chồng con người còn dính đầy bùn cát thì chưa thể về nhà thờ được. Con hãy đưa chồng con về nhà nuôi.

Giọng vị linh mục trở nên nghiêm nghị:

- Nhưng phải giấu kín chồng con ở trong buồng và không được lộ chuyện với bất kỳ ai. Nếu con để lộ việc chồng con ở trong nhà, công an, dân quân sẽ đến bắt chồng con đem đi. Con phải chịu tội là kẻ tà giáo, là kẻ mắc tội. Chúa sẽ không bao giờ tha thứ...

Vị linh mục vừa nói vừa nhìn chị Nhung đang ngồi im, mặt mũi nhem nhuốc cát bụi, mồ hôi và nước mưa, giục:

- Con về chuẩn bị nơi cho chồng con nghỉ!

Chị Nhung đứng lên, mặt đờ đẫn, đăm đăm nhìn vào tượng Chúa. Chị bước ra khu tiền sảnh để về nhà khi ông già kéo chuông bắt đầu kéo lên hồi chuông báo hiệu một ngày chúa nhật mới…

5

Theo lời dặn của vị linh mục, chị Nhung ra nghĩa địa đón chồng về nhà ở. Chị đi trong đêm tối mung lung cảm thấy cô đơn, quá cô đơn, có lúc chân nam đá chân chiêu.

Vừa bước ra khỏi nhà, cơn dông bất ngờ ập đến. Những hạt mưa thưa thót bắt đầu rơi. Biển phía trước bỗng lóe lên tia chóp đủ soi trong chốc lát nghĩa địa với rừng cây thập ác để rồi sau đó lại tràn ngập trong bóng đêm. Chị có cảm giác cơn phẫn nộ của thiên nhiên đểu dồn vào mình.

Lúc có ánh chớp lóe lên, chị bỗng nhìn thấy một bóng người trùm vải mưa đứng gần ngôi mộ mẹ rồi bóng người lại nhòe đi trong đêm dày đặc. Khi ánh chớp thứ hai soi rõ bóng người đã gần hơn, chị nhận ra Tình, chồng chị.

- Ai?

- Tôi.

Chị Nhung nói trong hơi thở.

Khẩu súng đang chĩa về phía chị từ từ hạ xuống.

- Em đi đón anh phải không?

Tình vừa nói vừa thở dài nhẹ nhõm, tay vuốt vuốt nước ở áo mưa rồi ngồi xuống bên nấm mộ.

Chiếc đồng hồ dạ quang chỉ một giờ đêm. Thời gian có vẻ thờ ơ và hết sức chậm chạp trôi qua. Tình có cảm giác như đồng hồ đã ngừng chạy. Tiếng rít của gió qua những hàng cây thập ác như tiếng rên của những người hen đang lên cơn. cảnh lạnh lùng của bãi tha ma như trùm lên chị Nhung sự hãi hùng kinh khủng. Nhưng niềm hạnh phúc vợ chồng gặp nhau sau bảy năm cách biệt đã giúp chị đến được với chồng ở nơi mà người ta nói có hàng đàn ma trơi bay lơ lửng.

Hai người đi theo con đường xi măng ở giữa nghĩa địa. Ánh chớp lóe lên, bỗng một con rắn trườn ngang trước mặt. Chị rú lên, hãi hùng:

- Rắn!

Con rắn dài ít nhất một mét lao như mũi tên.

- Đừng sợ!

Tình đuổi theo con rắn để tỏ cho chị Nhung biết mình là cái chắn che chở cho vợ, vì vững tin nếu có bị rắn cắn đã có thuốc chữa do Cục Tình báo Trung ương Mỹ sản xuất đang mang bên người.

Hai người đi ra khỏi rừng thập ác.

- Nếu như em không ra đón anh, anh có biết đường về nhà không?

- Nghe nói các tổ đổi công, hợp tác xã đào nhiều kênh rạch, làm lại nhiều đường, sợ lạc mất.

- Đúng đấy. Từ ngày anh vào Nam, xã mình có nhiều đổi thay lắm.

Đi được một quãng xa, chị Nhung bảo chồng:

- Nhà có ánh đèn cửa sổ là nhà mình đấy!

Chị Nhung dẫn Tình vào con đường rẽ về nhà. Chị mở cửa. Tình bước theo và không quên nhìn lại phía sau một lượt rồi mới khép cửa. Sau khi ăn cơm xong, chị Nhung giục chồng đi ngủ.

- Không được đâu em ạ! Em cứ để cho anh ngủ trên cót thóc trong buồng và đừng để ai biết.

- Tại sao lại ngủ trong buồng, lại giấu việc anh đã về?

- Nếu để lộ ra, công an sẽ bắt vì anh đã bỏ chạy vào Nam.

Là người con kính Chúa, tin theo lời linh mục Bường một cách ngoan ngoãn, chị Nhung thu xếp cho Tình ngủ trên cót thóc, cửa buồng lúc nào cũng đóng.

Nhưng rồi ngay đêm sau, vào khoảng một giờ, chị nghe thấy tiếng "tu tu" trong buồng. Chị rón rén bước đến bên cửa ra vào, liếc qua khe cửa. Bên ngọn đèn dầu le lói, Tình đang gõ tay liên hồi. Linh cảm chồng đang làm một việc không lành, chị đứng thẳng người im lặng nghe ngóng một lúc lâu rồi mở cửa bước vào. Tình bỏ máy, cầm súng quay lại:

- Giơ tay lên!

Chị Nhung nhìn thẳng vào mặt chồng đang biến dạng và như nghe thấy tiếng thở và thái độ van xin của Tình.

- Anh đang làm gì thế?

Khẩu súng từ từ hạ xuống. Tình bước ra khỏi cót thóc. Chị Nhung vẫn đứng im. Tên Tình thụp xuống lê về phía chị, ôm choàng ngang hông kể lại cái chết của bố để khơi dậy hận thù qua giọng trầm bi:

- Em có biết không. Năm năm ba, bố anh bị Việt Minh xử tử. Ông đã chết mà không được làm nghi lễ của tôn giáo. Cha Bường không được ra nghĩa địa đọc kinh. Những người duy nhất đưa đám là mấy dân quân. Dưới nắng gay gắt, họ thay nhau khiêng chiếc áo quan đen xì, cả sáu tấm đều bị thủng phải trát đất sét. Họ dành cho bố anh cái xó hoang tàn nhất của nghĩa địa, gần cánh đồng. Đó là ngôi mộ duy nhất không có cây thập ác. Mới gần mười năm mà gió mưa đã xói mòn, anh không nhận ra. Vì muốn rửa thù cho bố, vì thương em sống cô đơn ở nơi gió bão, anh nghe theo Chúa về đây tìm diệt kẻ đã giết bố anh. Anh phải tìm và giết chúng.

Nghe Tình kể, chị Nhung vẫn đứng trơ trơ. Rồi chị nói như hát kinh:

- Ông đã làm khổ cuộc đời tôi rồi!

Chị tựa lưng vào cót thóc. Nước mắt như những giọt nước mưa rơi xuống đầu Tình. Tên Tình ngước mắt lên, giơ tay làm dấu.

- Thề có Chúa chứng giám, anh về đây là vì theo lời Chúa, vì em. Nếu không tin điều này, em hãy giết anh đi! Giết anh đi!

Khi kêu than, Tình hiểu rằng không một người vợ nào trên thế gian này đang tâm hại chồng mình. Quả đúng như vậy. Nghe những lời thuyết than, chị Nhung đứng lặng, giơ tay lên cầu Chúa. Khi tay chị đặt xuống vai phải thì cũng vừa lúc lòng tin vào lời thuyết giáo của chồng một cách mù quáng cộng với sự kinh hãi đã đè nặng lên vai chị làm chị ngã khuỵu xuống.

- Lạy Chúa! Chúa ban phước lành cho con!

6

Từ ngày đó trở đi, gian buồng nhà chị luôn luôn khép kín không cho ai vào. Khi ra khỏi nhà, mắt chị luôn nhìn trước nhìn sau, có vẻ lo âu, tựa như thiếu không khí thở.

Ngay trong gian buồng, chị dùng tre ngăn làm hai, phần trong để cho Tình ở, đề phòng có ai vào buồng đột xuất cũng không thể nhìn thấy. Chị đưa cơm cho Tình qua bức vách mới dựng. Mỗi khi Tình có gì muốn nhắn tin cho linh mục Bường, chị đến bên tòa giải tội quỳ gối hàng giờ, áp miệng vào lỗ nhỏ để "xưng tội" với cha và nghe cha chỉ bảo. Tất cả những việc làm đó, chị Nhung đều cho rằng vì Chúa, vì không muốn là kẻ tà giáo, vì thương chồng. Có lẽ, đó là những căn do chính đã làm xói mòn đầu óc và trái tim chị.

Nhiều đêm, chị Nhung nằm ở nhà ngoài, Tình nằm trong buồng đều nín lặng nhưng trong đầu như cùng lên cơn sốt.

Một đêm cuối tháng, trăng lên muộn, mỏng như ngấn nước. Tình ngồi trên cót thóc nhìn ra cánh đồng trắng đục. Gió biển vẫn hững hờ thoảng qua. Mỗi khi gió qua đi, hắn lại nghe thấy tiếng chị Nhung thở đều, mơn man qua nhiều ý nghĩ. Qua liếp cửa buồng, Tình thấy chị Nhung đang ngủ, nhờ có ánh nến ở nơi thờ Chúa tỏa sáng, sắc mặt hình hài khá hấp dẫn. Cặp môi nhỏ xinh, lông mày cong; bộ ngực căng tròn sức sống. Đêm đầu hắn còn sợ, không dám bước ra nhà ngoài. Nhưng thân hình người phụ nữ đẹp đập vào mắt, hắn nhắm mắt lại tưởng tượng thấy giây phút đam mê. Hắn mải nghĩ đến nỗi con muỗi cắn no cũng không hay biết. Thê rồi hắn len lén chui ra khỏi cót thóc, đến bên chị Nhung. Hắn ngồi một lúc lâu rồi lấy tay nâng đầu xoay mặt chị về phía mình. Cái giây phút đam mê bò vào trí não Tình làm hắn chống hai tay như hai chân trước của con hổ đang ngồi bên con cừu non, mũi hít nhẹ. Hay là có hơi người lạ - hắn nghĩ. Rồi hắn tự reo lên - Đúng rồi, hơi muối mặn và mùi áo nâu sồng của Nhung. Mùi vị này khác xa với mùi son phấn của các cô gái nhảy ở Đà Nẵng mà đêm nào chẳng quàng lên vai hắn, áp cả bộ ngực vào mặt hắn.

Chị Nhung thấy hơi nóng hừng hực ở bên sườn. Chị tỉnh dậy và nhận ra có người ngồi bên. Loáng một cái liếc mắt, chị bỗng run người. Tình đang muốn đè lên người chị. Chị nghĩ, không biết anh ấy ra đây từ lúc nào? Cả cơ thể Tình vẫn không hề động đậy. Rồi sức mạnh của một người đàn ông sau những tháng ngày xa đàn bà đã truyền lên tay. Hắn định cởi áo chị Nhung nhưng chị giữ lại. Trong giây phút hắn nghĩ đến những cô gái sống ở Tiên Sa. Nếu như được hắn liếc tình, các ả đã cởi phăng áo quần ra. Những quả đồi nho nhỏ choáng ngợp trước mặt hắn, tha hồ thưởng thức. Còn chị Nhung là vợ hắn mà sao vẫn e thẹn. Hắn nhắm mắt lại một lần nữa, nhưng lần này thời gian ngắn hơn. Hắn áp cả người vào ngực chị. Chị Nhung định phản ứng, muốn đẩy tay Tình ra nhưng chính chị cũng không thể tưởng tượng được giọng nói và hơi hướng của chồng - giọng nói và hơi hướng của một người đàn ông đem lại cái cảm giác gì, tác động vào nơi sâu thẳm của tâm hồn chị, một người sống đơn côi bao tháng ngày. Nếu như giây phút này không chiều theo ý anh ấy thì biết đâu chỉ một vài giờ sau, anh đi ra khỏi nhà này, chỉ còn là một cái xác. Rồi chị Nhung lại nghĩ "anh ấy là chồng mình" nên chị không ngần ngại cũng xiết chặt lấy cổ Tình. Và, hai cánh tay Tình cũng xiết chặt cổ chị một cách phũ phàng. Chị không hề chống cự động tác của Tình, mọi tiếng nói đều nghẹn trong cổ họng để mặc cho Tình với dục vọng cuồng loạn của hắn.

Sau những phút giây đam mê chị nói với Tình:

- Anh ở đây cho đến ngày rước Chúa về chứ?

- Ừ.

- Đến bao giờ thì rước Chúa về?

- Khi nào chuẩn bị xong nơi ăn ở cho Chúa và đội quân đi bảo vệ Chúa.