11- Người bạn biển
Nam-vang đi dễ khó về,
Giai đi bạn biển, gái về tào-kê [1]
Xứ Cao-mên phải chăng là đứa con nuông của đức Thượng-đế ở cõi Đông-Pháp, nên ngoài những đồng-điền phì-nhiêu bát-ngát nó đã làm cho ba triệu con người kia không bao giờ phải lo đói kém, Ngài lại còn cho thêm một cái kho cá khổng-lồ và súc-tích: Biển-Hồ (Tonlésap).
Giữa một giải đất liền diện-tích 175,000 cây số vuông, trên một khoảng đồng bằng bao la xanh tốt, mênh mông một làn nước biếc nó là một nguồn lợi thiên-nhiên vô-tận của dân cư xứ này.
Chiếm gần một phần năm mươi trên diện-tích bản-đồ, nó to quá, rộng quá không thể bảo là một cái hồ được, mà nó cũng chưa đủ rộng để cho người ta gọi nó là một cái biển, vì thế mà người ta đặt cho nó cái tên “ nước đôi ”: Biển-Hồ.
Về mùa mưa, Biển-Hồ là cái kho chứa nước vĩ-đại của con Cửu-long-giang. Trong vụ ấy, nước lũ ở các cao-nguyên miền Vân-Nam, Lào, Siam đổ về nhiều quá thành ra mực nước ở sông cao hơn ở Biển-Hồ, lúc ấy thì nước ở sông chẩy về Biển-Hồ.
Trái lại, về mùa tạnh ráo, Biển-Hồ lại là cái túi nước vô-tận của con tràng-giang kia vì lúc ấy mực nước ở Biển-Hồ lại cao hơn ở sông mà nước lại chảy ra sông.
Cái trạng-thái xô đi kéo lại ấy đã khiến cho những miền ở chung quanh Biển-Hồ phải úng-thủy trong mùa mưa mà trở thành những đồng lầy trong vụ nắng. Vì lầy sâu quá vả lại trái thời-tiết, [2] người ta không cày cấy gì được, đành để cho những khoảng đất mênh mông ở ven thành đĩa kia trở nên những khu rừng um tùm, xanh tốt, rậm rạp nó là chỗ trú ẩn rất kín đáo, rất tiện lợi của quân trộm cướp. Nhờ về cái địa-thế hiểm-yếu dễ trốn tránh, dễ lẩn-lút ấy mà một tên ăn cướp thủy rất lợi hại là Ba Tánh tự là Đơn-Hùng-Tín đã làm nên oanh-oanh liệt-liệt trong mấy năm giời. Oanh-liệt đến nỗi người Cao-mên nghe danh là phải khiếp đảm nên họ mới đặt cho y một cái tên rực rỡ: Luông Tín (vua Tín).
Dân cư miền ấy chỉ sinh nhai về nghề đánh cá, sống về cá. Đi đến đâu cũng thấy cá, những cá là cá: cá khô, cá sấy, cá mắm, nước mắm, mắm tôm, mắm ngấu … thôi không còn thiếu một thứ gì.
Làn nước quý hóa kia thật đã gây cho dân-cư vùng này một công-nghệ to-tát phát đạt, mà nền lý-tài xứ Cao-mên sở dĩ được dồi dào cũng nhờ về đó một phần lớn.
Mối thủy-lợi kia đã làm cho bao nhiêu chủ thầu (chính-phủ Bảo-hộ chia Biển-Hồ ra từng lô, ba năm bỏ thầu một lần) được giầu có. Trong bọn đó thì giầu có nhất, thế-lực nhất là Tao-Kê Lau-Mạnh.
Chẳng biết ông rời bỏ đất nước (Trung-Hoa) tự năm nào và khi bước chân sang cõi Đông-Pháp ông đã làm những việc gì, ta chỉ biết rằng về khoảng năm 1920, ông đã chiếm được ngôi bá-chủ trên thương-trường “Cá khô” ở xứ Cao-mên.
Ai đi qua xứ Mottonlé cách huyện lỵ Bac Préa (Battambang) chừng 8 cây số cũng phải dừng chân lại mà ngắm cái trại của ông cắm trên một khoảng đất phẳng phiu trồng toàn lồng-mứt (sapotier). Thoạt mới nhìn người ta tưởng là biệt-thự của một vị hưu-quan nào.
Một dẫy hàng rào toàn duối và xương rồng mà một con sẻ chui không lọt bao bọc lấy một vườn cây cối xanh um. Ở giữa lố nhố hàng hai chục cái nhà sàn lợp ngói, phân nửa đều quay mặt ra sông Sang-Kè.
Đem thân bôn tẩu đồng đất nước người mà gây dựng được cái cơ-sở đồ sộ như thế, ông thật đã lấy làm mãn-nguyện. Không bắt chước những chúng bạn khi đã kiếm được chút đỉnh-chung thì vùi đầu trong cái thú hầu non, á-phiện, ông dẫu đã ngót sáu mươi mà vẫn làm việc. Mỗi lần, nhà-nước gọi bỏ thầu cá ở Biển-Hồ, ông thường thầu hai ba lô một lúc.
Về hạ tuần tháng 5 năm 1930, một buổi trưa mát mẻ, ông đang ngồi tính sổ thì người tài-phú đưa lại cho ông một tên cu-ly Bắc-kỳ đến xin làm bạn biển.
– Anh có biết chài lưới không?
– Thưa Tao-Kê, không.
– Anh có biết bơi, biết lặn không?
– Thưa Tao-Kê, có.
– Tôi coi bộ anh người mảnh dẻ thế kia vị tất đã chịu được khó nhọc.
– Tao-Kê đừng ngại, tôi tuy trông thế này nhưng khỏe mạnh và dai sức lắm. Kham khổ, vất vả thế nào tôi cũng chịu được. Việc chài lưới, tôi sẽ học dần, bây giờ xin Tao-Kê hẵng cho tôi vào việc làm cá.
– Thế anh định vay trước bao nhiêu, anh đưa thân thuế gửi tôi.
Nghe hỏi đến thân thuế, anh ấp úng nói:
– Tôi không vay tiền trước thì tưởng chẳng cần phải gửi thân thuế, xin Tao-Kê cứ cấp lương tháng cho tôi, bao nhiêu tôi cũng xin làm hầu Tao-Kê để học nghề.
Nghề làm cá ở đây rất là vất-vả. Khi đánh cá được nhiều phải làm suốt ngày đêm. Những người bạn biển hầu khắp vì túng bấn phải gửi thân thuế, làm giấy vay tiền trước của chủ rồi làm trừ dần, nên dù kham khổ vất vả đến đâu cũng không thể bỏ được. Hai chữ bạn-biển tức là hình ảnh của sự lam lũ, trói buộc.
Bọn bạn-biển ở nhà Tao-Kê Lau-Mạnh có chừng bốn mươi người vừa Cao-mên, vừa Annam, đàn ông và đàn-bà. Trong bọn đó chỉ duy một mình anh chàng Bắc-kỳ kia là ăn lương tháng, còn đều là khnhom [3] cả.
Anh chàng ở đấy được hơn một tháng, làm việc rất là chăm chỉ, ngôn ngữ cử-chỉ lại có lễ độ tỏ ra là một người đứng đắn nên được Tao-Kê Lau-Mạnh biệt đãi. Vợ Tao-Kê lại là người Nam-kỳ nên thấy người đồng-chủng ngoan-ngoãn cũng thương tình, thường vẫn nói với chồng:
– Thằng Tư (tên người cu-ly) coi bộ nó thực thà, nhanh nhẹn, nếu nó chịu ở lâu với mình, ta sẽ gây dựng cho nó, tội nghiệp.
Cũng vì được chủ yêu, nên bị anh em ghét. Thói đời vẫn như thế. Mà thằng bị ghét nhất vẫn hậm hực với thằng được yêu nhất. Thằng bị ghét nhất là một tên tù Cao-mên mãn-hạn rất táo tợn tên là Nat Sambun. Nó ỷ có sức khỏe nên thường vẫn hay bắt nạt anh Tư mà nó gọi khinh bỉ là “cọc-cạch” theo như cái lối người Nam-kỳ chế riễu người Bắc-kỳ. Anh Tư đối với cách cử-chỉ hung hăng của kẻ kia vẫn giữ một thái-độ điềm nhiên nên nó lại cho anh là nhát, càng bắt nạt già. Nó châm chọc anh thể nào, anh cũng chỉ mỉm cười.
Một hôm có mấy thuyền cá về, bọn Khnhom đương xúm vào, kẻ đánh vẩy, người móc mang tíu tít thì bỗng không biết tại làm sao, thằng Nat Sambun cầm một nắm ruột cá ném vào giữa mặt anh Tư. Anh Tư nhổm dậy toan đánh, nhưng không biết nghĩ sao, lại ngồi xuống, lấy vạt áo lau mặt mà chẳng nói gì. Có lẽ anh nghĩ đã đâm đầu vào làm thân tôi tớ người thì vinh gì mà còn xâu xé nhau để dành hơn kém. Kém hay hơn cũng là cái thân tôi tớ.
Việc ấy ngoài bọn Khnhom ra còn một người nữa trông thấy. Người ấy là Mi-Hây, con gái Tao-Kê Lau-Mạnh.
– Anh Tư, sao thằng Nat Sambun nó hành anh thế mà anh cũng để yên.
– Thưa cô, chẳng để yên thì dành hơn thua với đứa cục-súc ấy làm gì?
– Hừ…
Sau tiếng “hừ”, một nụ cười ái-ngại và khinh-bỉ nở ở trên làn môi.
– Tôi mà là đàn-ông, ai trêu tôi thế, nhất chết thì thôi chứ tôi chẳng chịu để yên.
– Thưa cô, đánh nhau với nó vị-tất đã can-đảm bằng nhịn nó đi.
– Phải tài đởm như thế nó cũng hơi giông giống hèn nhát.
Rồi an ủi:
– À, mà tôi trông bộ anh yếu ớt thế kia, nhịn nó là phải, là khôn.
Ngày qua lại tháng qua. Cái không-khí khinh bỉ nó cứ nặng chĩu ở trên đầu anh Tư. Nhưng một điều lạ là anh Tư hình như chẳng thèm quan tâm gì đến cả, mặc cho ai muốn nói sao thì nói. Anh sống, sống ở đời mà lòng yêu ghét giận hờn cơ hồ như đã chết. Hay việc đời đã làm cho lòng anh tê-tái ê-chề, nên ngày nay anh không còn biết gì là đau-đớn nữa. Lời phỏng đoán này mà có đúng thì cũng chỉ đúng có một phần, bởi vì mỗi khi anh bị ngược đãi, anh dẫu chẳng nói ra, nhưng ta trông đôi lông mày anh cau lại, ta trông anh mỉm cười, ta cũng biết chắc rằng sóng tình-cảm nó vẫn còn sôi nổi ở trong lòng anh. Có lẽ anh sống ở đời để theo đuổi một cái mục-đích gì mà anh cần phải đặt cái mục-đích ấy trên những sự yêu ghét, giận hờn nhỏ nhen. Anh cần phải giữ hết nghị-lực để theo đuổi cái mục-đích kia cho đến kỳ-cùng nên anh không muốn đem phí vào những việc tranh dành nó chẳng có ý nghĩa gì. Lời phỏng đoán này có lẽ đúng hơn, bởi vì ta trông con mắt anh nhìn, ta trông cái trán cao mà rộng, ta xét ngôn ngữ cử-chỉ của anh, ta có thể nói ngay: Kẻ này không phải là một kẻ hèn nhát.
Albert Londres đã tả người Trung-hoa bằng một câu chua chát: «propre au dehors, sale au dedans». Anh Tư này thì lại là một cái hiện-tượng trái ngược hẳn. Những
….quốc sĩ xưa nay,
chọn người tri-kỷ ….
Mấy ai đã có con mắt xanh đoán được anh-hùng giữa lúc trần-ai.
*
Có gió cả mới hay cây cứng,
Không đường dài ai biết ngựa hay.
Mi-Hây đương yên-trí cho anh Tư là hèn nhát, đáng khinh-bỉ thì một việc xảy ra khiến nàng phải hối-hận và đem lòng kính-phục.
Một hôm, về khoảng một giờ đêm, trong lúc mọi người đang yên nghỉ thì một bọn cướp chừng độ ba chục người có đủ khí-giới kéo đến. Giời tối đen như mực. Bốn bề đương yên lặng thì bỗng tiếng súng nổ vang, rồi đến tiếng phá cổng ầm ầm. Bọn gia-nhân sợ hãi bỏ trốn cả, mà đến ngay thằng Nat Sambun thường ngày thì “ hùng hổ ” thế mà lúc này cũng chẳng thấy mặt đâu. Tao-Kê Lau-Mạnh tuy có súng, nhưng cái mãnh-lực của cây súng là ở cái tay người dùng, chứ tự nó, nó chẳng có giá-trị gì. Tiếng súng nổ liên tiếp làm cho ông sợ hãi luống cuống, súng có mà cũng chẳng nghĩ gì đến bắn nữa. Thấy mình trơ-trọi, gia-nhân đầy tớ chẳng còn ai, ông bèn vội vàng thu nhặt lấy tiền nong cùng đồ tư trang rồi dắt vợ con mở cửa tìm đường trốn. Ông vừa ra đến sân thì cổng đã bị phá vỡ, một bọn cướp xông vào, đèn đuốc sáng lòe.
– Thằng Lau-Mạnh nó đây rồi, anh em ơi…
Trong cái phút nguy cấp, khắc-khoải mà Tao-Kê Lau-Mạnh chắc là phải chết thì bỗng thấy anh Tư nhanh như cái cắt, chạy đến, giằng lấy súng ở tay ông chĩa vào mấy tên cướp đi đầu mà bắn luôn hai phát. Hai người ngã, bọn cướp hoảng-hồn lùi lại…
Cái phút nhanh chóng mà những cử-chỉ diễn ra loang loáng như chớp nhoáng, cái phút mà không bút nào tả được, cái phút mà ta có thể nói là không phải cái phút của loài người biết suy nghĩ nữa bởi vì lúc ấy thì từ anh Tư cho chí vợ chồng con cái Tao-Kê Lau-Mạnh, cho chí bọn cướp kia không ai kịp nghĩ nữa: cái phút của bản-năng sai khiến…
Anh Tư thấy bọn cướp lùi, anh bèn thừa dịp ấy dắt vợ chồng con cái Tao-Kê Lau-Mạnh chạy vào ẩn ở trong cái kho thóc gần đấy.
– Xin ông bà cùng cô nằm rạp xuống đất bây giờ trốn cũng không biết trốn đâu, chung quanh nhà cướp nó đã đứng chẹn cả rồi. Xin ông bà cùng cô cứ yên tâm, tôi mà còn sống thì không ai có thể phạm vào mình ông bà và cô được. Ông đưa cái thắt lưng đạn đây cho tôi.
Tay run lật bật, Tao-Kê Lau-Mạnh cởi cái thắt lưng giắt đầy đạn đưa cho anh Tư, rồi ngoan-ngoãn như một cậu bé khi nghe lịnh của thầy giáo, ông nằm rạp xuống đất.
Sau một lúc do dự, bọn cướp lại xông vào. Anh Tư đứng nấp ở trong kho thóc nhờ ánh sáng đèn của chúng, bắn ra không sai một phát nào. Bọn cướp thấy thế không dám tiến vào nữa chỉ đứng đằng xa dùng súng bắn vào.
Mỗi khi tia lửa lòe ra, Mi-Hây lại được thấy cái vẻ mặt quả-quyết, dữ-đội, khắc-khổ của anh Tư. Lúc ấy nàng tưởng chừng như được thấy cái can-đảm hiện thành người. Nàng không thể không đem lòng yêu mến con người đẹp đẽ như kia được. Lúc ấy anh Tư trông đẹp thật, cái đẹp của sự Hùng-dũng Can-đảm.
Phải là một người đã trải một cảnh nguy hiểm như Mi-Hây lúc bấy giờ mới biết yêu, biết kính những cái đáng yêu, đáng kính ấy. Cũng như cái mãnh-lực của tiếng sét nó chỉ biểu lộ ra ở trong chớp nhoáng, những cái đáng yêu, đáng kính của kẻ anh-hùng nó chỉ biểu-lộ ra ở trong lúc nguy-hiểm, trong khi hành-động.
Bọn cướp kia dùng toàn súng hỏa-mai, bắn không được đích lắm mà nạp đạn lại lâu nên không sao địch nổi với khẩu súng hai lòng, sự nạp đạn đã nhanh, người bắn lại giỏi, đã thế lại còn đứng ở trong chỗ kín đáo. Chúng xem tình hình không thể làm gì được bèn tháo cả xuống thuyền khiêng những người chết và bị thương đi.
☆
– Anh Tư bị đạn ở đâu?
– Ở đùi.
– Có gẫy xương không?
– Hình như không.
– Thật chỉ vì vợ chồng tôi mà anh phải cái họa này.
– Bổn phận kẻ ăn cơm chủ thì lúc nguy nan phải hết sức, ông bà chẳng cần phải quan tâm đến tôi. Chỉ xin ông bà ngày mai quan có đến khám thì nói là ông bắn và đừng nói là tôi bị thương.
– Được tôi xin khai như thế, nhưng anh phải đi nhà thương chứ.
– Thôi cứ chữa ở nhà cũng được, vết thương cũng không nặng mấy.
Giọng nói có vẻ khẩn khoản tha thiết, vợ chồng Tao-Kê Lau-Mạnh cũng không ép nữa, nhưng ông bà đem lòng ngờ anh có điều bí mật gì nên muốn giấu mặt.
Mi-Hây đứng nhìn anh Tư nói mà vẻ thương xót lo ngại lộ ra nét mặt. Nàng biết chắc là trong đời anh có một việc bí-mật ghê gớm, nhưng lúc này không phải là lúc để tâm đến những việc ấy, cái việc cần nhất là sức khỏe của anh.
– Thôi ba má để cho anh Tư đi nghỉ, con băng bó cho anh ấy đã. Đem anh Tư vào nằm buồng con.
Rồi cũng chẳng cần chờ ai giả nhời, nàng liền lại đỡ anh Tư đưa vào buồng. Nàng lấy gối nệm của nàng cho anh Tư dùng. Nàng tự tay rửa vết thương và buộc cho anh.
Suốt một tháng ròng, nàng săn sóc cho anh Tư coi như một người anh mà có lẽ còn sốt-sắng hơn một người anh nữa. Những cái trước kia mà nàng cho là hèn nhát đã trở thành ra những cử-chỉ rất cao-thượng của con người “gan góc” đáng yêu, đáng kính. Nàng lại hối-hận rằng trước kia nàng đã nhận lầm mà khinh-bỉ anh nên nàng lại càng hết sức trông nom để xóa nhòa những cái ngờ vực bất-công ấy đi.
Nàng đã có cái quan-niệm đối với anh Tư như thế, nên nàng nhìn anh bằng một con mắt khác.
Nàng nhận thấy nét mặt phương phi cả quyết kia không phải là nét mặt của kẻ hèn-hạ, nàng nhận thấy cái bàn tay da dẻ nhỏ nhắn kia không phải là cái biểu-hiệu của kẻ từ lúc bé đã phải lam-lũ mà thứ nhất những cử-chỉ ngôn-ngữ có lễ độ kia, kẻ vô học không thể có được.
Một hôm anh đã gần khỏi, anh đang nằm hút thuốc là ở trên giường, mắt anh đăm đăm nhìn làn khói nó tan đi mà có lẽ lòng cũng man mác như khói kia vậy thì bỗng Mi-Hây chạy vào, nàng lại ngồi đầu giường anh sốt-sắng hỏi:
– Anh Tư ơi, sao tôi trông anh mấy bữa đây nhiều buồn bực lắm. Anh buồn gì thế hở anh!
– Không, tôi có buồn gì đâu.
Trầm ngâm một lát, nàng lại hỏi:
– Anh người ở đâu, quê đâu?
– Tôi người Bắc-kỳ, quê Phủ-lý,
– Ông già anh làm gì?
– Làm ruộng.
– Thế anh vào đây tự bao giờ?
– Tôi mới vào được hai tháng.
– Tại làm sao anh lại vào đây?
– Vì nhà tôi nghèo nên mới phải đi kiếm ăn.
– Tôi coi hình như anh biết chữ thì phải.
– Cô tính cơm còn chưa đủ ăn, lấy gì mà học cho biết chữ được.
– Anh nói dối tôi, tôi chắc có việc gì anh giấu tôi, anh nói thực tôi sẽ giữ kín cho anh.
– Thưa cô, tôi có điều gì dám giấu cô đâu. Tôi là con nhà nghèo hèn vô học, chả nhẽ tôi lại bảo với cô tôi là con nhà giầu sang, học-thức được sao?
Anh nói đến đấy thì hình như có việc gì làm cho anh xúc cảm, vẻ thảm sầu vụt hiện lên nét mặt, nhưng lại tiêu tán đi ngay. Tuy vẻ thảm sầu kia chỉ hiện ra trong một loáng, nhưng cũng không sao giấu nổi một người đã lấy con tim mà hiểu anh. Mi-Hây trông anh có vẻ thương xót, thương xót cho một trang nam-nhi anh-tuấn như kia đã gặp một việc gì bất-đắc-chí mà phải đem thân lẩn lút xứ người.
Nàng bất giác nắm chặt lấy tay anh mà bảo:
– Tôi dám chắc là anh có điều gì giấu tôi, tôi dám chắc là ở quê nhà, anh có điều gì bất-đắc-chí nên mới phải lẩn trốn vào đây. Tôi dám chắc anh không phải là một kẻ quê mùa hèn hạ, có điều gì anh nên nói thực với tôi họa chăng tôi có thể giúp anh được một đôi phần, biết đâu?
– Tôi đã bảo tôi không có điều gì giấu cô mà.
– Anh đừng ngại, anh cứ nói thực với tôi, tôi xin giữ kín cho anh.
– Tôi có điều gì bí-mật đâu mà phải giữ.
– Anh dám thề không?
Một cái yên lặng rất có ý nghĩa đầy những lời thú.
– Tôi có làm gì mà phải thề, xưa nay tôi chẳng thề với ai bao giờ.
– Anh không nói với tôi bởi vì anh không tin tôi, anh không tin tôi nghĩa là anh không quý tôi nhưng dù sao tôi cũng không thể nào ghét bỏ anh được, mà dù sau này anh có thế nào đi chăng nữa, tôi cũng không vì thế mà khinh-bỉ anh được. Chỉ có anh là đối với tôi không thực-thà thôi.
Giọng nói có vẻ đau-đớn thất-vọng như ở trong tâm-hồn bay ra. Nàng nói xong rưng rưng nước mắt rồi đứng dậy, quay đi.
Anh Tư thấy nàng giận vội nghển mình lên quơ tay lôi nàng lại. Lôi thế nào mạnh quá nàng ngã ngồi ngay vào lòng anh. Mi-Hây cũng chẳng lấy thế làm giận mà nàng cũng chẳng đứng dậy nữa, nàng tấm-tức bảo:
– Anh đã không tin tôi, thì anh giữ tôi lại làm gì?
– Tôi xin thề với cô là trong lúc này tôi không quý ai hon cô cả. Không phải là tôi không tin cô đâu. Chỉ vì đứng vào cái địa-vị tôi bây giờ chưa thể nói ra được. Nhưng tôi xin hứa với cô rằng đến khi nào tôi xét tôi có thể nói được, tôi sẽ nói với cô đầu tiên, thế cô đã hết giận tôi chưa?
Mi-Hây chỉ cúi đầu lấy tay mân-mê cái đệm mà không giả nhời.
– Cô còn giận tôi à?
– Tôi không bao giờ giận anh cả, anh nói hay không là quyền ở nơi anh. Anh dù có xử với tôi thế nào tôi cũng chỉ nhớ rằng anh đã liều mình để cứu một nhà tôi. Dù sao tôi cũng không quên anh.
Nàng nói xong, vùng dậy chạy mất. Cái tiếng “quên” ấy nó có một cái ý nghĩa yêu mến hình như nàng muốn đem giao-phó cái đời nàng cho anh Tư bằng tiếng “quên” ấy.
Từ đấy hai người đối với nhau đã thân lại càng thêm thân. Trong cõi mộng tưởng, hai lòng đã như một, hai khối óc đã hiểu nhau, hai con tim đã hồi hộp vì nhau nhưng bề ngoài hai người vẫn đều chưa thú với nhau những nỗi niềm chan chứa ở trong lòng.
Từ cõi “mộng” ra chỗ thực-tế chỉ có một bước,còn một bước, một bước rất ngắn. Chờ một cơ-hội, một ngọn gió là ngọn lửa lòng kia sẽ bùng ra mà không còn một cái lực-lượng nào có thể ngăn cản được.
*
Trong lúc ngọn lửa ái-tình đang ngầm ngấm nung nấu ở trong tâm-hồn hai người mà chính hai người cũng chưa tự biết thì bỗng nhận được một bức thư của người em họ Mi-Hây ở Bắc-liêu hẹn đến cuối tháng thì lên chơi.
Hôm ấy, anh Tư đã được thấy một cô thiếu-nữ rất mỹ-miều của xứ Nam.Trong bộ quần áo bombay trắng toát, rõ ràng là một cô con gái thật “ thanh tơ nhỏ chỉ ” (nếu có thể đem bốn chữ kia mà mô tả cái vẻ đẹp của người đàn-bà). Cô người, mảnh dẻ, trông có vẻ ẻo-lả. Nước da trắng xanh rất mịn, mịn đến nỗi ta tưởng chừng như ở trên đời này không còn thứ gì mịn hơn. Hai con mắt đen nháy trông có vẻ lờ đờ, chậm chạp, mỏi mệt. Khổ người thon, chân tay nhỏ nhắn, toàn thể các bộ phận cái gì cũng “ mỏng manh ”. Người xưa đem câu xương mai mình liễu mà ví người đàn-bà có cái đẹp “mỏng manh ” ấy thật đã có con mắt quan sát. Cái đẹp của cô là một cái đẹp thanh tao, mơ màng.
Cái đẹp của Mi-Hây thì lại trái hẳn. Rõ ràng là sức khỏe tươi cười biến ra sắc đẹp ở trong một cô thiếu-nữ đã được hấp-thụ cái khí trời trong trẻo ở một nơi khoáng-đảng, lúc nào cũng lẹ-làng như ngọn gió Biển-Hồ khi buổi sớm mai. Hai cái má phúng-phính hồng-hào trông thật là dễ yêu. Cô đi đứng trông có vẻ mạnh dạn, nhanh nhẹn. Phải chăng cái quan-niệm về thể-thao đã khiến cho thiếu-niên bây giờ đem lòng yêu những cái đẹp mạnh mẽ như thế. Người ta thường nói: những người lai bao giờ cũng đem biểu lộ cái hiện-tượng của hai chủng-loại pha nhau lên trên nét mặt. Câu nói ấy cũng có lẽ đúng. Con mắt một mí kia rõ là cái tiêu-biểu riêng của người Khách mà trong cái miệng cười niềm nở kia thì không thể nói rằng không phải là của người đàn-bà xứ Nam đem lại được. Cái đẹp của Mi-Hây là một cái đẹp thùy-mị phúc-hậu.
Anh Tư đứng nhìn hai cô đùa giỡn với nhau ở dưới cây lồng-mứt mà anh phải tự hỏi: “ Sao lại có những người đẹp đến thế? ”
Rồi anh ôn lại cuộc đời dĩ-vãng của anh, anh cũng phải nhận rằng anh chưa được nhìn thấy những người đẹp như thế. Anh còn đang đắm đuối trong mớ ký-ức thì bỗng nghe tiếng Mi-Hây gọi anh.
– Đây cô Thu là con dì Ba, em má tôi đó… đây anh Tư người hôm nọ đã cứu…
– Thì đã bảo cô đừng nhắc lại chuyện ấy, đó là cái bổn phận của tôi.
– Không, đây là người nhà cả.
Anh Tư muốn đánh trống lảng quay sang Thu hỏi:
– Thưa cô, cô mới ở đâu lên?
– Tôi ở Bắc-liêu lên. Ba, má tôi đi Saigon có biểu tôi cùng đi nhưng tôi về Saigon luôn cũng ngán quá, tôi mới xin phép lên đây chơi với chị Hây tôi.
-Thế thưa cô, hai cụ ở dưới ấy làm gì và cô có mấy anh em chị em.
– Ba má tôi khẩn đồn điền. Ba má tôi chỉ có một mình tôi cũng như dì dượng tôi đây chỉ có một mình chị Hây tôi.
Anh Tư cười nói:
– Thế chắc hai cụ phải cưng cô lắm nhỉ? Cô năm nay bao nhiêu tuổi?
– Tôi cũng mười bảy tuổi như chị Hây tôi.
Hai người cùng mười bẩy cái xuân xanh mơn-mởn, lộng-lẫy, cùng là con một của một gia-đình giầu có, danh giá, cùng một cái tuổi ngây thơ mà trái tim chưa bợn một chút tục-lụy, cùng một cái tuổi nếu đã yêu thì yêu tuyệt-đối chẳng toan tính gì về danh-lợi, về hậu-vận.
Anh Tư đứng nhìn hai chị em cô trò chuyện với nhau thân-mật vui-vẻ mà anh lại sực nghĩ đến trước kia anh cũng là đứa con cưng của một gia-đình danh giá mà ngày nay thì anh có gia-đình anh cũng không dám nhìn nhận đến nữa… Một tiếng thở dài…
– Sao anh thở dài? Em Thu ạ, không biết làm sao anh Tư anh ấy cứ buồn luôn.
– Có lẽ anh ấy nhớ nhà. Anh có nhớ nhà không?
– Thưa cô, con chim kia ngày đi kiếm ăn, đêm còn tìm đường về tổ, làm người há lại không có tấm lòng cố-quốc tha-hương sao? Nhưng đứng vào cái cảnh tôi….
Mi-Hây vội nói:
– Cảnh anh thì làm sao? Anh nhớ nhà thì tôi bảo ba má tôi cho anh vay tiền về thăm nhà, rồi anh lại sang chứ sao mà phải buồn.
Nghe đến chữ “về”, anh Tư sầm mặt lại. Mi-Hây thấy thế, muốn kiếm cách giải buồn cho anh bèn bảo:
– Anh Tư ơi, em Thu tôi chưa được đi xem bắn bao giờ, anh đưa chúng tôi đi nhé…
*
– Chị Hây ơi, con chi mà đen lùi lũi như con quạ vậy?
– Thì con quạ nước …
– Kìa, anh Tư sao không bắn đi?
– Có ăn thịt được đâu mà bắn.
– Thì anh cứ bắn cho tôi một con, tôi xem con quạ nước nó thế nào?
Đoàng. Tiếng súng nổ. Con quạ nước đang vũ cánh bay bỗng rơi xuống mặt nước. Thu mừng quá, nhổm dậy reo lên làm cho chềnh cả xuồng.
– Ấy chết, cô giỡn mạnh thế nhỡ lật thuyền thì khốn.
– Trời ơi, tôi ở trên mặt nước mà tôi cứ tưởng là ở trên mặt đất.
Ba người cùng cầm chèo bơi mau, phút chốc đã đến chỗ con quạ ngã.
– Chà chà, bắn bể cả đầu, máu ra coi ghê quá, tội nghiệp chưa!
Rồi nàng vỗ vai anh Tư mà bảo:
– Anh ác quá.
Mi-Hây liền cãi:
– Tại em bảo anh ấy bắn thì anh ấy bắn chứ có phải tại anh ấy ác đâu.
Nghĩ ngợi, cô Thu bảo chị:
– Thôi, đừng đi bắn nữa chị ạ, em trông nó giẫy dụa em thương quá.
– Thế là cuộc đi săn lại đổi ra một cuộc đi chơi phiếm ở trên mặt Biển-Hồ.
Không có một tí gió. Bầu trời, mặt nước như đứng im. Duy mấy con thuyền đánh cá ở đằng xa lừ lừ bơi.
Vụ đó là vụ mưa. Các miền lân cận đều bị ngập, nhà cửa cây cối như mọc ở trên làn nước.
Thu xưa nay ở nơi thành-thị ít được thấy những cảnh thiên-nhiên, nay bỗng được mục-kích cái cảnh mông-lung phiêu-diêu của trời đất, rất lấy làm vui vẻ. Gặp cái gì cũng hỏi. Nhất nhất anh Tư đều vui vẻ giả nhời. Anh thấy cách cư xử của hai người đối với mình rất là tin yêu, thân mật mà anh tưởng chừng như anh là một người anh giai đưa hai em gái yêu quý đi chơi vậy. Trong lòng anh thấy nhẹ nhàng khoan khoái.
Về phần Mi-Hây thì nàng rất lấy làm khó chịu. Nàng thấy anh đem những cái nhìn đầm ấm nhìn nàng xưa nay, đem những câu nói rất ngọt ngào thường nói với nàng, đi san sẻ cho kẻ khác mà lòng nàng bồn chồn tức tối, dù người ấy là em nàng. Nàng không hiểu tại làm sao nàng lại có những cái cảm giác ấy. Cũng như lúc nẫy nàng đã không hiểu làm sao nàng lại sốt-sắng bênh vực cho anh Tư như thế.
Có lẽ tại nàng yêu rồi sinh ra ghen, hai cái cảm-giác ấy thường đi đôi với nhau. Nhưng nàng đã thật yêu anh Tư chưa? Chính nàng cũng chưa tự biết rằng nàng đã yêu anh Tư. Nàng chỉ muốn cho anh Tư là một vật “ hoàn-toàn ” là của nàng, nàng không hiểu tại làm sao nàng thấy anh Tư buồn, nàng cũng buồn, anh Tư vui, nàng cũng vui. Mà thứ nhất có người nào chê bai anh Tư thì nàng không chịu được. Nàng muốn cho anh Tư sung-sướng, được người ta quý trọng. Nàng muốn cho anh không phải thiếu thốn một thứ gì. Nàng đã hết sức làm cho anh Tư không phải đeo cái đời nhục nhằn vất vả của người bạn biển mà hai thân nàng vì cảm cái ơn anh Tư nên cũng đồng ý với nàng mà coi anh như một người họ hàng chứ không coi như là một kẻ đầy tớ nữa. Một điều mà hai thân nàng phải lấy làm lạ là sau khi anh Tư khỏi vết thương ở đùi, hai cụ ngỏ ý muốn đền ơn cho anh mấy trăm bạc, anh nhất định từ chối nói rằng anh chẳng cần dùng gì đến tiền.
“Không cần dùng đến tiền thì đem thân làm kẻ bạn biển chen vai thích cánh với một đoàn nô-lệ làm gì? ”– Một điều mà hai cụ đã tự hỏi bao nhiêu lần mà vẫn chưa tìm ra nguyên ủy. Duy Mi-Hây là biết nhưng cũng biết một cách hồ đồ rằng trong đời anh có việc bí-mật nó bắt anh phải giấu mặt mà thôi.
Trong mười ngày Thu ở đây thật đã khiến cho Mi-Hây phải đau đớn ngấm ngầm mà không thể nói ra được. Biết nói làm sao? Những sự đau đớn ngấm ngầm ấy nó chỉ chờ một cơ-hội là phát lộ ra ngoài để bảo cho nàng biết nàng đã yêu anh Tư một cách đặc-biệt mà rồi thì ngục hình, dư-luận, tập-quán, chủng-loại cái gì cũng không đủ mãnh-lực để ngăn cản không cho nàng yêu anh Tư được.
Một cái giây thép của dì dượng nàng ở Bắc-liêu gửi lên gọi em Thu nàng về khiến cho nàng vui sướng bội phần. Nàng thấy nàng vui sướng mà nàng lại tự trách sao nàng lại đối với em nàng một cách tàn tệ như thế.
Hugo tiên-sinh có nói: “… Si on est homme, soyez amour (nếu là người, nên có tình)”.
Nên có tình, nên yêu. Nếu ta đem hỏi Mi-Hây câu ấy thì nàng sẽ chẳng biết giả nhời ra làm sao nhưng cách thức nàng đối với anh Tư, cùng là những cảm-giác nó sôi nổi ở trong lòng nàng lúc bấy giờ cũng đủ giả nhời cho ta biết là nên vậy. Thế cho nên khi ta thấy em nàng về mà nàng lại vui vẻ ta cũng chẳng nên trách. Nàng chỉ là vâng theo cái tiếng gọi của trái tim nàng mà thôi.
*
– Anh Tư, tiện thể cháu Thu về, anh mần ơn ra Nam-Vang đến nhà Tao-Kê Teck lấy hộ mấy nghìn bạc đưa cho cháu Thu để cháu đem về Bắc-liêu nhờ ba má cháu mua dùm cho một cái xà-lúc thay vào chiếc Huỳnh-Lợi mà ông nhà tôi nhận lời bán lại cho người ta rồi. Ông nhà tôi mấy bữa rày, trong người yếu lắm đi không đặng.
Anh Tư nghe nói tái mặt, nhưng anh không viện lẽ gì chánh đáng mà từ chối được nên phải miễn-cưỡng vâng lời. Mi-Hây cũng rất lấy làm khổ sở, khổ sở vì anh Tư cùng đi một chuyến tầu với em Thu của nàng, nhưng nàng chỉ tấm-tức mà không dám nói ra.
Con tàu Vĩnh-phát của Công-ty Bảo-hòa chạy đường Battambang–Saigon có đỗ lại Bacpréa.
Năm giờ chiều, tầu đến bến.
Sau mấy câu chào, mấy lời dặn, anh Tư cùng Thu bước lên tàu. Mi-Hây nhìn theo mà lòng nàng sôi nổi, tâm-hồn nàng như đã cùng theo hai người mà bay lên trên tàu.
– Tôi thuê cái ghế bố này để tối nay cô nằm, chiều mai tàu mới đến Dũng-Sà-Nang (Kompong Chhnang),
– Thế anh nằm đâu?
– Tôi nằm đâu cũng được.
– Không, anh phải thuê một cái ghế nữa thì tôi mới bằng lòng nằm cái ghế này.
– Bọn bồi tàu họ cho thuê hết cả rồi, thôi để tôi thuê cái chiếu tôi nằm cũng được.
– Thôi thế thì anh nằm cái ghế này để tôi nằm chiếu cho.
– Nằm chiếu thì kẻ qua người lại bụi tung lên bẩn thỉu lắm.
– Sao anh đã biết bẩn thế mà anh lại còn nhận nằm chiếu để nhường ghế cho tôi.
– Cô khác, tôi khác. Cô là một người đài các phong lưu thì phải có giường cao chiếu sạch, còn một kẻ bạn biển như tôi thì đâu cũng là…
– Sao anh lại nói thế, người ta có quý là quý ở cái bản-lĩnh mình, chứ quý đâu ở tiền bạc, nhà cửa. Nó là bộ áo khoác ngoài đó thôi.
– Ở đời này có bộ áo khoác ngoài là đủ. Đây cô xem thường tình những người sang trọng chẳng là những người được thiên hạ quý mến mà kẻ nghèo hèn chẳng là bị khinh bỉ đó sao?
– Những kẻ chỉ xét người ở cái bề ngoài như thế thì ta cần chi mà nói chuyện đến họ.
Anh Tư nghe cô nói mà anh phải kính-phục, không ngờ một cô con gái ngây thơ đã có một tấm lòng cao thượng như thế.
Trên dòng sông khúc khuỷu con tàu rẽ nước mà đi, đàn muỗi cứ vo vo theo tàu mà làm cho hành khách không sao dừng tay được. Muỗi, nhũng muỗi là muỗi, con nào con nấy to gần bằng con ruồi. Xứ Bac Préa có lẽ đã sản ra được một thứ muỗi to nhất Đông-Pháp. Người ta ai đã đi qua xứ này đều phải nhớ đàn muỗi kia lắm. Muỗi Bac Préa đã thành tên. Ai nói đến “ muỗi Bắc rè” cũng phải khủng khiếp như nói đến “nước Bo ( Paillin) ” vậy.
Tàu đi qua một khu rừng cây rậm rạp.
– Anh Tư, những con chi mà coi như cá sấu kìa?
– Đó là con ằnsoong [4] tôi chẳng biết người Nam mình gọi là gì? Cá sấu thì to hơn nhiều!
– Thế còn cái chi treo lủng lẳng ở trên cành cây kia.
– Cô không biết sao, đó là thây người chết.
– Trời ơi! thây ma sao người ta không đem chôn lại treo lên thế.
– Vùng này về vụ mưa, nước ngập cả, không có đất mà chôn, người ta phải treo lên như thế. Được ít lâu, cái thây ma sình lên, chảy nước ra, con ằnsoong nó đến há mồm ra hứng những giọt nước kia rỏ xuống.
– Trời ơi, gớm ghiếc quá! Thế sao còn có người dám đến xứ này nhỉ.
– Xứ này tuy thế nhưng cá nhiều, kiếm ăn dễ lắm, làm chi người ta không đến đông. Cô tính những cảnh tượng ấy đã ghê gớm gì. Loài người vì sinh kế chém giết nhau còn chẳng kinh tay thì họ có quan-tâm gì đến những cái nhỏ vặt ấy.
– Anh nói tôi khiếp cả người. Loài người lại tệ đến thế cơ à?
– Cô được cái diễm-phúc sinh vào một gia-đình phong-phú, mỗi một cái ý muốn là một cái lệnh, cô không bao giờ phải thiếu thốn, cô không phải ra giành giật với đời nên cô không biết, giống ănsoong kia nó chỉ ăn cái thây người đã chết mà thôi, chứ loài người thì họ lại “ăn thịt” những người sống hẳn hoi kia đấy. Tôi rất cầu mong cho cô không bao giờ phải mục-kích những cảnh thương tâm đó.
– Nghe anh nói thì hình như anh đã nếm trải nhiều sự đau đớn lắm rồi có phải không? Thảo nào tôi nghe chị Hây tôi nói anh cứ hay buồn.
Anh Tư không giả nhời, Thu vừa muốn hỏi nữa thì hai tiếng: cá nượt – kêu ở đằng đầu tàu làm cho những hành khách ngồi gần đấy chạy sồ cả xuống. Thu cũng chạy xuống xem nhưng chẳng thấy gì.
– Cá nượt là gì, hở anh Tư?
– Cá nượt là một thứ cá gần giống như người ta. Đầu đen không có tóc, thân thể trắng trẻo như một người đàn bà nhưng không có chân mà có đuôi, còn hai cánh tay thì ngắn. Trong những lúc đêm giăng người ta thấy nó đùa giỡn ở ven bãi cát tưởng chừng như trông thấy những người đàn-bà khỏa thân xuống tắm.
– Lạ nhỉ, tiếc quá tôi không trông thấy.
– Ít khi thấy lắm, chính tôi ở đây mấy tháng giời cũng chẳng trông thấy bao giờ. Tôi nghe bọn khnhom đàn-bà ở nhà Tao-Kê Lau-Mạnh cứ rủa nhau là “cá nượt”, hỏi thì họ nói thế cho tôi nghe.
Chín giờ đêm, con tàu Vĩnh-phát đã ra khỏi cửa sông, giong ruổi trên mặt Biển-Hồ mà về phía nam.
*
Mười hai giờ, trong khi mọi người đang yên nghỉ thì bỗng nghe đánh ầm một tiếng, tàu chềnh hẳn đi.
Quang cảnh trên tàu thật là một cái quang cảnh huyên náo, sợ hãi, ríu rít, cha gọi con, vợ gọi chồng, tiếng khóc than hòa lẫn với tiếng kêu gào không bút nào tả cho xiết.
– Cô đứng yên đây, tôi chạy xuống xem cái gì rồi tôi lên ngay lập tức.
Sau một phút khắc khoải, run sợ, bồn chồn, Thu đã thấy anh Tư chạy lên.
– Cô ơi, nguy mất rồi, tàu va phải cái bè gỗ, đã vỡ mũi, nước đổ vào trong tàu nhiều lắm, không sao hàn được nữa.
– Anh Tư ơi, thế thì làm thế nào, ối má ơi!
– Cô đừng sợ, đừng khóc, cô cứ yên tâm, tôi mà còn sống thì không khi nào…
– Anh có biết bơi không?
– Có.
Anh Tư vừa nói dứt thì một lũ người áng chừng không biết bơi đương nhớn nhác chung quanh đấy đổ xô lại bíu lấy anh mà miệng thì năn nỉ:
– Chú cứu tôi với.
Họ bíu lấy anh như một cái hi-vọng cuối cùng. Họ bíu chặt lăm, anh Tư càng giẫy dụa bao nhiêu thì họ lại càng bíu chặt bấy nhiêu. Anh Tư biết nếu anh không gỡ mau ra được thì lát nữa tàu chìm bọn kia cứ níu chặt lấy anh, anh sẽ không bơi được, anh sẽ phải cùng chết với bọn người kia mà chẳng ích gì cho họ.
– Anh Tư ơi, lại đây với em, kìa các người này sao lại bíu lấy anh Tư tôi thế.
Trong lúc bình thường, ai nghe cái tiếng dịu dàng cầu khẩn kia cũng phải cảm động, nhưng cái phút nầy không phải là cái phút của tình-cảm, cái phút này là cái phút của bản-năng chiến đấu với cái chết, chống chọi với cái chết. Có lẽ đến những lúc này bản-tính của loài người mới biểu-lộ ra hết. Trong cái phút này ai cũng chỉ cầu sống, muốn sống mà chẳng nghĩ đến sự sống của kẻ khác.
– Anh Tư ơi, mau lên, tàu chìm đến nơi rồi.
Anh Tư biết nếu chậm trễ thì anh sẽ phải chết, Thu cũng phải chết mà bọn người kia cũng phải chết. Anh biết anh không thể không tàn nhẫn được, anh bèn dùng hết sức mạnh vùng một cái rồi chân đá tay đấm luôn một hồi, mấy người ngã. Anh liền nhẩy choàng ra, bế xốc lấy Thu rồi ù té chạy. Bọn người đuổi theo…
Cái cảnh tàu đắm đã là não-nùng ai-oán, nhưng cái quang cảnh bọn người kia đuổi nhau để cầu sống mới lại càng não-nùng ai-oán hơn. Anh Tư ôm Thu cố chạy… Bọn người cố đuổi…Thấy cánh cửa ở buồng người cầm lái mở, anh vội chạy vào rồi mau tay đóng sập lại, bọn người thấy cái hy vọng cuối cùng của họ biến đi, họ kêu gào rất thảm thiết, họ đấm cửa ầm ầm…
– Cô đứng đấy, chờ tôi!
Anh Tư chỉ nói có thế. Rồi nhanh như chớp anh chạy ra phía cửa đằng kia leo lên nóc tàu vì lúc tàu đỗ bến Bạc Préa anh đã nhận thấy một dẫy phao đè ở trên ấy..
Hai người nhẩy tùm xuống nước …
Gió thổi… Tiếng người kêu khóc, tiếng còi cấp cứu, tiếng sóng vỗ… Rồi chỉ còn tiếng sóng vỗ cùng gió thổi. Làn nước biếc mở ra rồi khép lại. Cái lòng Biển-Hồ man mác kia đã cuốn hút bao nhiêu vật rồi.
*
Dưới vòm trời tối om như mực, trên làn nước đen sì, anh Tư và Thu bám chặt lấy chiếc phao mà bơi. Con sóng vô tình cứ nhô lên tụt xuống
Sự chuyển-vần của vũ-trụ thì vô hạn, sức con người chỉ có chừng.
– Anh Tư ơi, tôi mệt lắm rồi, không bơi được nữa đâu.
– Có phải cô mệt thì cô cứ ôm chặt lấy chiếc phao đừng bơi nữa, để một mình tôi.
– Bây giờ ta bơi về đâu, có gần bờ không hở anh?
– Giời tối như thế này, tôi cũng không biết xa hay gần, ở phương nào, nhưng dễ thường ở phía này.
– Anh có chắc không, chứ suốt đêm ở trên mặt nước thế này thì tôi chịu làm sao nổi.
– Không thế thì biết làm thế nào. Ta cứ bơi cầm chừng nếu không đến bờ được thì sáng thế nào cũng có thuyền đánh cá đến cứu chúng ta.
– Chờ đến sáng thì tôi chết mất, tôi không còn sức đâu, tôi đến chết ở đây thôi.
– Cô đừng nói thế. Cô mà chết thì tôi cùng chẳng sống làm gì. Tôi biết về nói với vợ chồng Tao-Kê Lau-Mạnh làm sao? Cô nên nghĩ đến sự đau đớn của ba má cô khi được tin cô chết, cô nên cố lên đừng thất vọng. Con người ta phải có can đảm chiến đấu cho đến phút cuối cùng. Tôi chắc chúng ta cũng không xa bờ mấy vì tàu mới bắt đầu chạy ra Biển-Hồ độ hai ba giờ mà thôi.
Gió thôi, sóng vỗ hai người cứ bập bềnh trên làn nước. Một lúc lâu, Thu lại hỏi anh Tư:
– Sắp đến bờ chưa hở anh?
– Tối thế này tôi có trông thấy gì đâu.
– Anh Tư ơi, tôi mệt lắm, tôi đuối tay rồi.
– Cô nên cố, cô nên nghĩ đến ba má cô.
– Ba ơi, má ơi, con không được thấy mặt ba má nữa đâu.
– Cô nín đi khóc làm gì vô ích. Khóc thế âu bằng để cái sức ấy giữ gìn lấy thân thể cho hai cụ được thấy mặt. Hai cụ chỉ có một mình cô, cô có mệnh hệ nào thì hai cụ sống làm sao được?
Lời nói của anh Tư làm cho Thu phấn khởi. Nàng lại bơi.
– Thôi cô mệt lắm rồi đừng bơi nữa, cứ bám chặt lấy chiếc phao, mặc tôi.
– Anh Tư ơi, cái ơn cao dầy của anh em lấy gì mà trả được.
– Ơn mấy huệ gì, ta hẳng cố làm sao cho sống đã. Chết chìm ở đây thì Hà Bá lấy hết cả ơn lẫn huệ, còn đâu đến phần tôi.
Thu đương mệt lả cũng phải bật cười.
*
Đất! chân đụng vào đất, Thu mừng rú lên. Anh Tư chẳng nói gì.
Trong một đời người dễ mấy lần có những cái mừng như thế.
Đất! lúc ấy là sự sống rồi. Được khỏi chết, ai mà không mừng. Thế mà anh Tư cứ điềm nhiên, coi sự sống chết như chẳng có gì là đáng quan tâm. Khi biết chắc là đã đến đất, chắc là thoát chết, Thu sực nghĩ đến cái người đã cứu mình, cái người đã dành cho mình sự sung sướng lúc này, nàng vội chạy lại ôm chầm lấy anh Tư mà bảo:
– Chúng ta khỏi chết rồi, đất rồi.
– Đất rồi thì ta đi lên, ta về nhà chứ sao?
Thế rồi anh sẽ nắm áo Thu mà bảo:
– Cô phải cởi quần áo ra vắt nước đi không nhỡ cảm thì khốn.
Thu phải kính phục trước cái cử-chỉ điềm-tĩnh ấy. Gặp gian nguy không chút bối-rối, sợ hãi, than vãn, được sống sót không một chút mừng lộ ra ngoài, vừa bước chân ra khỏi cửa ông Thần Chết đã nghĩ đến việc sau này ngay, con người ấy phải là một con người sắt, đã từng bao phen chạm trán với cái chết nên ngày nay nó không còn ý nghĩa gì nữa. Đời là một cuộc chiến đấu, cái khí-phách của kẻ làm trai là phải chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng chẳng nao lòng về thành bại.
– Anh Tư, anh Tư, anh đi đâu, anh làm gì đấy?
– Tôi ở đây mà, cô không cởi quần áo ra vắt cho ráo nước đi. Bây giờ mới gần sáng thôi, ta còn phải ngồi ở đây chờ sáng, chứ đêm tối thế này biết đi đâu.
Thu người đã mệt lử, cố gượng cởi quần áo ra vắt, xa xa nghe tiếng cành cây kêu răng rắc.
– Anh Tư làm gì ở đấy lâu thế?
– Tôi bẻ ít cành lá cho cô nằm. Chỗ này tôi chắc là chưa đến đất liền đâu, có lẽ chỉ là một cái cù-lao giữa Biển-Hồ thôi. Mai, chúng mình còn phải ở đây lâu, đợi thuyền.
– Chưa đến đất liền ư anh?
– Đất liền đâu đến chóng thế được, chung quanh Biển-Hồ mùa này ngập nước cả. Thôi cô lại đây mà nằm.
Thu lại, trần truồng lại, nắm quần áo ướt còn cầm ở tay. Nhưng lúc ấy chẳng phải là lúc nghĩ đến những điều thẹn-thò nhỏ nhặt. Phải vào cái cảnh ngộ như Thu mới biết ở đời có lúc ta không còn thì giờ nghĩ đến những sự ấy.
– Trời ơi, quần áo cô vắt còn đầy những nước.
– Anh vắt dùm tôi, tôi mệt, yếu tay quá. Thế anh nằm đâu?
– Được cô mệt cứ nằm đi, mặc tôi. Tôi phải thức chứ, đêm tối, nhỡ ra thì khốn.
– Ở đây còn có cái gì mà sợ.
– Con người ta lúc nào cũng phải phòng sự bất trắc, thứ nhất là cho cô.
Thu đối với anh Tư đã đeo một cái ân nặng, và cái bản-lĩnh của anh đã khiến cho phải kính phục, nay lại thấy những cách đối xử tử-tế thế, tài nào nàng chẳng cảm động, nàng vội ôm chầm lấy anh mà hảo:
– Anh Tư ơi, em sống đến ngày nay là nhờ anh. Em sống thì là vợ anh…
– Cô chỉ nói dại, cô quên rằng tôi là một tên bạn biển rồi sao? Cô ngồi xuống đây cho đỡ mệt.
– Em không quên đâu, em vẫn bảo với anh con người ta quý là ở cái bản-lĩnh của mình, chứ có phải là ở những cái bề ngoài đó đâu. Nếu anh mà không bằng lòng như thế thì xin anh để cho em chết ở đây.
– Bằng lòng thế nào, cô cứ nói lôi thôi mãi, ngồi xuống cho đỡ mệt, đàn muỗi nó kéo đến đây này. Để tôi lấy cành lá xua cho cô ngủ.
– Thôi thế thì em không sống làm gì. Sống mà xa anh thì thà rằng chết.
Thu vùng chạy đi. Anh Tư nắm lại không kịp anh chạy theo… Đêm tối biết Thu chạy đằng nào?
– Em Thu, lại anh bảo đã.
Không giả nhời.
– Em lại đây không nhỡ gặp hùm beo, cá sấu thì khốn.
Anh Tư la to lên như thế để Thu sợ phải chạy lại, nhưng cũng không thấy giả nhời. Anh Tư sợ hãi hét lên:
– Em Thu, em Thu.
Giọng thiết tha đầy những lời hứa nồng nàn.
Vẫn im lặng. Anh Tư đi lang thang, lắng tai nghe.
Tiếng khóc tấm-tức ở đằng mé Biển-Hồ. Anh Tư vội rảo bước đến.
Lúc ấy đã gần rạng đông, trông đã hơi rõ. Anh thấy Thu ôm đầu khóc ở dưới gốc cây, gần mặt nước.
– Sao em Thu lại thế.
Thu không giả nhời chỉ khóc.
– Em nín đi để anh nói cho em nghe. Anh là một kẻ tội tù ở xứ Bắc trốn vào đây, anh không thể đem cái đời khốn khổ của anh mà làm hại một đời an nhàn sung sướng của em được. Biết đâu chốc nữa người sen đầm vẫn rình mò tìm kiếm anh kia chẳng lại xích tay mà đưa đi, em nên biết…
– Em chẳng biết gì hết. Em chỉ biết anh không thương đến em thì em không muốn sống nữa. Anh ơi, sống mà không được gần anh thì sống làm chi cho thêm khổ.
Nàng lại khóc to lên anh Tư lại gần nắm tay bảo:
– Em phải biết em không thể làm vợ một tên tù trốn được?
– Tội tù mặc, em sẽ đem tiền bạc của em mà vận động cho anh được khỏi tội, mà dù có chẳng được đi chăng nữa, em cũng rất lấy làm vinh hạnh được làm vợ một kẻ tù tội như anh. Dù anh có mắc tội giết người phải chết chém đi chăng nữa, em cũng lấy làm sung-sướng được làm vợ một kẻ tử tù như anh.
Rồi nàng lấy tay khẽ vuốt ve anh Tư.
Trước cách cử-chỉ chung tình ấy, anh Tư thấy lòng mình hồi- hộp cảm-động anh liền bế Thu vào lòng mà bảo:
– Anh không ngờ trong bước đường đời khốn đốn, anh lại gặp được một người có tấm lòng quý hóa như em. Cái thân anh ngày nay từ họ hàng cho chí bè bạn ai cũng lẩn trốn, không dám dàn mặt, sợ lụy đến mình. Họ coi anh ghê sợ hơn kẻ cùi hủi, thế mà em chẳng quản gì, em chỉ biết yêu anh, một lòng yêu anh mà chẳng nghĩ gì hậu vận, chẳng sợ làm vợ một đứa tù tội. Anh còn sống ngày nào, anh xin nhớ.
*
Cái tin tàu Vĩnh-phát bị đắm ở giữa Biển-Hồ làm cho Mi-Hây chết ngất đi.
Cái tin anh Tư được thoát nạn làm cho nàng sống lại.
Trong hai ngày trời, Mi-Hây đã được biết hai cái thái cực của tình-cảm: cực đau đớn, cực vui sướng.
Nghe tin anh Tư bị nạn, nàng mới biết cái chết của anh là cái chết của nàng.
Được tin anh Tư thoát nạn, nàng mới hiểu cái sống của anh là cái sống của nàng.
Kẻ kia mà chết đi, thì nàng phải chết, thương mà chết, buồn mà chết.
Lắm kẻ trách đàn bà yêu giai mà chẳng nghĩ gì đến cha mẹ đến danh-dự. Phải, họ quên là phải, đến cái thân họ kia, họ còn chẳng tiếc, họ tiếc gì đến ai. Cái danh-dự của kẻ tình chung chỉ là làm một kẻ tình chung không hai lòng. Họ sống về sự yêu thương của người yêu, nay cái nguồn yêu thương kia đã chết, cái lẽ sống của họ vì đó mà chết theo, thế mà ta cố bắt họ phải sống thì có khác chi quân hung-đồ tàn-bạo kia đem kẻ thù, xẻo mũi, cắt tai, chặt chân, chặt tay mà không giết. Sống như thế là một cái sống đau-đớn, ai-oán kinh-khủng gấp mười cái chết.
Nước Mỹ có văn minh là ở chỗ tìm kiếm những cách làm cho kẻ tử tù được chết một cách không đau đớn.
Người ta đã viện ra bao nhiêu lẽ bắt những kẻ thất vọng vì tình phải sống. Khéo khéo đem xây lâu đài trên vũng bùn, căn cứ vào đâu?
Sống mà thấy trái tim mình đã dập nát cứ dần dần khô cạn đi, héo hắt đi, ôi cái hình ảnh mới ghê gớm! Đó là cái hình ảnh ghê gớm của một cái chết chậm chạp, ai-oán, não-nùng của một kẻ khốn khổ đã bị kẻ thù đem khoét mũi, xẻo tai, chặt chân tay lại còn đem tẩm bổ thuốc thang cho.
Sống thêm một ngày nào là kéo dài cái chết ghê gớm kia ra một ngày ấy.
Mi-Hây đang ngắc-ngoải thì cái giây thép ở Dũng-Sa-Năng đánh về làm cho nàng sống lại. Nàng rú lên một tiếng mừng cũng như Thu lúc được thấy đất.
Con tàu Paul Blanchet mới áp mạn, bọn thủy thủ vừa mới bắc cầu xong thì đã thấy một cô con gái xinh tươi, mặc áo cà-puong [5] du bọn họ ra mà sấn xuống.
– Anh Tư!
– Em Hây!
Mi-Hây chạy lại ôm chầm lấy anh Tư, gục đầu vào vai anh, khóc nức nở chẳng nói một tiếng gì. Lúc ấy nàng đã quên hết, quên rằng em Thu nàng đứng đó, quên rằng bọn hành khách đang xúm-xít nhìn nàng, nàng chỉ biết người yêu của nàng đã sống sót về đây. Nàng chẳng trông thấy chi hết, nàng chỉ thấy anh Tư yêu quý của nàng mà thôi.
Khi cái ái-tình tuyệt-đối của một cô gái ngây thơ nó đã phát-lộ ra thì không còn có một cái trợ-lực nào ngăn cản nổi. Cái sức mạnh của nó là chỗ không toan tính. Giầu nghèo, sang hèn, xấu đẹp, tập quán, dư luận, quá khứ, tương lai, mọi cái đều không có giá-trị gì nữa. Yêu là tất cả.
*
Người ta có thể san sẻ một khối tình được không? Ái-tình có thể bắt ta hy-sinh, chứ không bao giờ dung thứ sự san sẻ. Nếu vì cái hạnh phúc của người yêu, ta có thể hy-sinh tính-mệnh, tài-sản, danh-dự cho đến khối tình ta được, nhưng đứng nhìn người yêu đem tấm lòng âu yếm ta đi âu yếm một kẻ khác thì là một điều trên cái sức mạnh của ta.
Anh Tư đứng vào cái địa vị rất khốn khổ là thấy hai người yêu anh đau đớn vì minh mà tự mình không còn cách gì chữa những vết thương kia được.
Hai người cũng đem một tấm lòng trong sạch yêu anh, dẫu cảnh-ngộ, trường-hợp có khác, nhưng hai ngọn lửa lòng kia đều đã bốc lên cõi tuyệt-đích của ái-tình. Xưa nay anh đã trải bao nhiêu nỗi gian nan mà lòng anh chẳng hề nao núng, ngày nay anh thấy anh phải mềm lòng trước sự đau thương của hai trái tim ngây thơ kia.
Cái phút đau đớn nhất trong đời anh có lẽ là cái phút não-nùng mà Mi-Hây biết anh đã đính-ước cùng Thu vậy. Anh thấy nàng ngất đi mà anh tưởng chừng như trái tim anh đã vỡ ra. Anh trông thấy Thu khóc, anh cũng khóc chẳng biết xử trí ra làm sao.
Anh xét anh không thể bắt hai người phải sống một cái đời nửa sống nửa chết như thế được, không thể để cho hai gia-đình phải khốn-đốn vì anh được. Biết bao lần Thu khóc lóc bảo anh rằng Thu sẽ chết để cho anh đành lòng mà sum họp với Mi-Hây. Nhưng anh có thể quên Thu được không, anh có thể để như thế được không? Anh là một tên trọng-tù người ta đang tìm kiếm, chẳng chóng thì chầy, cái tông-tích anh sẽ bại lộ, lúc ấy thì sao? Anh có thể lạm dụng cái không biết của người mà làm một việc đê-hèn như thế được không. Anh có thể ngồi nhìn hai bông hoa kia phải héo-hắt vì anh được không? Không không. Danh-dự anh nó bảo anh không thể thế được. Anh đã đưa hai người vào một con đường cùng thì bổn phận anh phải tìm cho hai người một lối ra…
☆
Một đêm, những cây cối vùng Biển-Hồ đã được trông thấy một thiếu-niên vừa đi vừa khóc ở trên con đường độc đạo từ Bac Préa đi Battambang. Chàng vừa đi vừa quay cổ lại nhìn cái trại của Tao-Kê Lau-Mạnh. Rồi chàng lại khóc. Rồi chàng lại đi. Rồi chàng lại quay cổ lại.
Cái thơ anh Tư để lại làm cho Mi-Hây và Thu chết điếng.
Hai em yêu quý của anh.
Anh là một tên tội tù ở xứ Bắc trốn tránh vào đây. Hai em đã chẳng nề sang hèn rủ lòng thương đến, anh thật cảm kích không cùng. Nhưng anh xét anh không thể đem cái đời cơ-khổ của anh mà làm nhỡ cái đời chứa chan những hi-vọng tốt đẹp của các em được. Nếu hai em có thực yêu anh thì xin quên anh đi. Từ nay phương trời cách biệt, anh dẫu chẳng bao giờ được gặp mặt hai em nữa, nhưng cái hình ảnh yêu quý của hai em lúc nào cũng luôn luôn ở bên mình anh… Sống thì anh xin giữ cho nguyên vẹn ở trong trái tim anh mà chết thì anh đem theo.
Các em ơi, các em quên anh đi, đó là lời cầu khẩn cuối cùng của anh đó, xin các em chớ vì anh mà bỏ phí một đời hạnh phúc.
Trong khi anh lên thác xuống ghềnh lăn lóc ở nơi chân trời mà được tin hai em sung sướng thế là anh sung sướng rồi.
TƯ
Thu và Hây xem xong ôm nhau khóc thảm thiết. Anh Tư đi, đem cái lẽ sống của hai người đi. Hai người trước kia không thể cùng gặp nhau trên con đường tình-ái thì nay lại gặp nhau ở trên con đường đau thương..
Mà từ đấy, nước non cây cối ở Biển-Hồ đã được nghe tiếng rền-rĩ của hai trái tim thất vọng nó dần dần khô héo đi
Chú thích:
[1] – Chủ hiệu khách.
[2] – Người Cao-mên gieo mạ về khoảng tháng 5, tháng 6. Lúc ấy lại là vụ mưa, thành thử những miền chung quanh Biển-Hồ bị ngập nước, người ta không cày cấy gì được.
[3] – Đầy-tớ có nợ của chủ. Nó cũng gần một nghĩa với chữ nô-lệ.
[4] – Giống như con Kỳ-đà mà to hơn. Nó thường ở trên mặt sông mà sống bằng những giống vật chết trôi, nổi ở mặt nước.
[5] – Một thứ áo cũng như áo dài ta nhưng khâu kín tà như áo đầm. Đàn-bà Khách lai ở Cao-mên thường mặc.
HẾT