10- Cô gái Cồ-là
Những đồn điền phì nhiêu bát ngát đã làm cho bao nhiêu tỉnh thành nước Cao-mên được phồn thịnh sầm uất.
Trừ kinh đô Nam-vang là chỗ thị trường nhờ về sự thương mại mà được phồn thịnh chẳng kể, thì sầm uất nhất, đông đúc nhất, sản ra nhiều thóc gạo nhất là tỉnh Battambang. Người ta đã phải cho xứ Battambang là cái lẫm thóc của nước Cao-mên (le grenier du Cambodge).
Câu nói ấy cũng không phải là ngoa. Khắp tỉnh Battambang đi đến đâu cũng chỉ thấy những ruộng là ruộng. Một, chạp, đồng lúa chín, vàng dọi một màu, bao la bát ngát, hình như ông “Thần nông” đã quá yêu đứa con cưng là xứ Battambang kia mà đem trải cái thảm kim tuyến cho ngồi lên vậy. Suốt từ tháng bảy cho đến tháng chạp là mùa nước lớn khắp các đầu sông ngọn nguồn, hàng đoàn ghe lớn, bé, châu đầu nhau ở các bến để lấy thóc tải đi Chợ-lớn [1] Nếu ta ra Biển-hồ (lac Tonlésap) là chỗ hợp lại của các sông vùng này, ta sẽ thấy một cái trạng thái lạ lùng; trên mặt nước mênh mông xanh biếc, những lũ “kềnh nghê” đen lùi lũi [2], hết tốp này đến tốp khác, cứ lừ lừ mà lội về phía Nam…
Thóc gạo đã làm cho bao nhiêu huyện lỵ tỉnh Battambang thành ra những nơi đô hội đông đúc, phồn thịnh. Nhưng lạ thay, cách tỉnh lỵ độ sáu mươi cây số, có một nơi dân cư cũng đông đúc, sự buôn bán lại sầm uất hơn mà tuyệt nhiên chung quanh chẳng có một cây lúa nào; gạo ăn người ta phải đi mua tận Battambang đem về. Huyện lỵ ấy là xứ Bo (Pailin).
Bốn bề rừng rậm, núi cao như vây bọc chốn này vào những hàng rào kiên cố khác chi những lũy tre xanh đã bao phủ các làng mạc ở trung châu xứ Bắc-kỳ. Về đêm, lam sơn, chướng khi giết người xông lên mù mịt, những đàn muỗi vòi nhọn, bụng mọng là kho chứa bệnh sốt rét bay ra đen nghịt.
Những nỗi hiểm nghèo ấy đã khiến cho người Cao-mên nghe thấy tiếng “đi Bo” nlnư nghe tuyên án tử hình vậy. Ấy thế mà phố xá hàng quán san sát, kẻ lại người đi tấp nập dường như không để ý gì đến những tay sai đắc lực của ông Thần Chết nó rình ở bên mình. Nếu ta nhìn kỹ khách qua lại trong phố phường, ta không trông thấy cái đầu trọc tếu, cái quần cộc tếch của các chú Chệệt, cũng không thấy cái sarong [3] loang lổ, cái sampot [4] thắt đuôi của người Cao-mên, ta chỉ thấy những sằn-lây [5] sặc sỡ, những áo chẽn cụt tay mùi xanh, mùi đỏ… là thứ y phục riêng của người Cồ-là (Birmans).
Chợ-lớn là cái “tổ” người Khách ở Nam kỳ mà Bo (Pailin) là cái “tổ” người Cồ-là ở Cao-mên. Nhưng Khách-trú họ kéo nhau đến Chợ-lớn để buôn bán, chứ người Cồ-là họ kéo nhau đến chỗ “ma thiêng nước độc” này để làm gì? Mà ở chốn rừng cây kẽ đá này họ lấy kế sinh nhai gì để nuôi sống?
Đồi, núi chập chùng bao phủ xứ Bo này là những mỏ thủy soạn (tục gọi là hột xoàn Xiêm. Xứ Battambang trước kia thuộc quyền cai trị của nước Xiêm) và các ngọc quý đấy. Sở dĩ, người Cồ-là họ chẳng nề quan san, chẳng quản sống chết mà đến đây là vì ngoài việc kiếm những đá thủy soạn nó đã là một mối lợi to, họ lại còn cái hy vọng: một ngày kia, số phận đưa lại, họ sẽ kiếm được một viên ngọc quý nó làm cho họ trở nên giàu to ngay. Những sự may mắn ấy thường đã xẩy ra luôn. Năm 1912, một viên ngọc bán sang Mỹ được hơn 30,000 $. Năm 1915, một viên ngọc bán được hơn 10,000$. Năm 1919 một viên bán sang Londres 50,000$. Còn những viên ngọc bán bạc nghìn thì thường năm vẫn có. Nội thành phố Bo, đi đến đâu cũng chỉ nghe thấy tiếng kẽo kẹt của cái bàn đạp thợ tiện hòa lẫn với tiếng xè xè của cái mặt bàn đá dùng để mài thủy soạn.
Tháng tám năm 1925, xứ Bo đương mải miết về sự tìm ngọc, chẳng có chuyện gì mới, lạ, thì cái tin: “thầy giây thép cũ sắp đi, thầy giây thép mới sắp đến” làm cho người Cồ-là ở đây phải để ý vì ngoài ông Đại-lý người Pháp, quan Chanfaikhand [6] người Cao-mên thì thầy thông giây thép đứng vào cái địa vị thứ ba. Thầy giây thép lại có quan hệ mật thiết với họ hơn, là vì ngày nào họ cũng phải ra giây thép để gửi thư, gửi thủy soạn, gửi điện tín đi các nước mà họ đều không biết chữ Pháp, phải nhờ thầy giây thép đề địa chỉ hoặc xem hộ.
Thầy giây thép mới? Họ muốn biết mặt, họ nóng biết người, thế rồi một hôm họ đã được mãn nguyện. Cái xe bò kĩu kịt, cao lêu đêu đã đưa lại cho họ một chàng thư sinh mặt mũi trắng trẻo ngơ ngác hãi hùng như chim mất tổ, mà rồi họ phải lạ mắt về cái khăn xếp đen sì, cái áo the xúng xính, cái quần ống sớ trắng tinh cùng cái ô lục soạn cầm ở tay như một cái ba-toong.
Ở chỗ tứ chiếng quần cư này, nào áo Tây, nào áo Khách, nào cà-puông [7] nào sampot đỏ, nào chàng-mạng tím, nào sằn-lây xanh, nào caseng [8] vàng, trăm thứ mùi lòe loẹt sặc sỡ như thế, mà bỗng đem vất một cậu “thư sinh khăn lượt, áo the” vào đây thì có khác gì đương năm 1934 này, ta đem một cô thiếu nữ “cũ rích” nhẫn quần, dép cong, nón quai thao, khăn vành dây ném vào giữa phố hàng Ngang, hàng Đào là chốn vườn hoa tân thời đầy những bóp đầm, ô đầm, đường ngôi lệch, giầy cao gót không. Họ lạ mắt, họ chướng mắt là phải lắm.
Nhưng máy thuyên chuyển quan chức nó vô tình có nghĩ đâu đến cái chỗ “kỳ quan” ấy, nó cứ điềm tĩnh ném tung ra khắp xứ Đông Pháp những cái hiện tương “phì cười” như thế.
Thầy Thông U… mới đổi ở Bắc kỳ vào Cao-mên được ba tháng, đương làm việc ở nhà Bưu-điện Pnompenh, bỗng được tin phải đổi đi Pailin. Nghe tin, thấy phát lạnh cả người, nhưng trên đường công danh, không thể lùi được. Thầy phải nhắm mắt mà đi, bụng vẫn khấn thầm tiên tổ phù hộ độ trì cho được bình yên vô sự mà về. Ngồi trên cái xe bò nó đưa thầy lên xứ Pailin, thầy còn nghe văng vẳng những lời anh em dặn bảo: phải đề phòng bệnh sốt rét, phải uống cho nhiều quinine, phải tiêm quinoforme, phải uống nước lọc, phải đun cho sôi, phải lọc cho kỹ, phải uống rượu, phải kiêng hoa quả, phải… Ôi hàng trăm cái “phải” như thế nữa, mỗi lần thầy nghĩ đến, thấy rùng mình rợn gáy tưởng chừng như con quỷ “sốt rét” nó chạy xổ đến nắm tóc, xách cổ thầy mà ném cho ông Thần Chết vậy.
Thầy đến xứ Bo, thầy thấy rừng núi chập chùng mà thầy bùi ngùi cho thân thế, lo sợ cho tính mệnh. Một điều nữa buồn thêm cho thầy là không biết một tiếng Cao-mên, một tiếng Cồ-là nào, thành thử có mồm cũng như câm, có tai như điếc, tâm sự u uất ở trong lòng chẳng còn biết than thở với ai. Có anh loong-toong người Cao-mên cũng biết được vài tiếng Annam nhưng chẳng qua chỉ đủ dùng làm thông ngôn trong khi mua tem, bán tem, giữ giấy, giữ má xì xằng mà thôi.
Mỗi khi đứng trước cửa tò vò nhà giây thép nhìn ra, thầy trông thấy làn mây đen kéo đến bao phủ một góc giời, mà thầy bồi hồi ngây ngất, mà thầy lo sợ, mà thầy tự bảo: “Có lẽ ta đến bỏ xác ở xứ người”. Rồi thầy nhìn trong tưởng tượng hình như thấy hai cánh cổng nhà thương Battambang đã mở ra để đón lấy cái thân thể phù thũng, xanh nhợt, vàng ỏng của thầy, rồi nhà Bưu-điện Battambang sẽ phải đánh cái tin ai oán là cái tin thầy chết về Hà-đông cho thân mẫu thầy. Gia đình thầy biết trông cậy vào ai?! Nghĩ đến đấy, thầy toát mồ hôi trán. Trông thầy lúc bấy giờ, hai mắt lim dim, mặt mũi nhợt nhạt như một người đã chết, tưởng chừng không còn cái sức mạnh gì lôi thầy lại cõi đời này được nữa, thì bỗng chuông máy báo ran, thầy lại sẽ mở mắt từ từ đến ngồi trước bàn máy lóc cóc, lóc cóc… ném tung những tin vui, buồn, sống, chết đi khắp các nơi.
Một tháng, hai tháng… Thầy sống như thế, thầy vẫn sỗng, thầy vẫn phải sống bằng cái bộ mặt ngơ ngác ủ rũ ấy, đeo nặng những tư tưởng lo sợ bi ai ấy cùng cái hy vọng: sắp đến ngày được đổi đi chỗ khác. Cứ cuối tháng thầy gửi các giấy má kế toán về phòng bưu điện Pnompenh, thầy lại kèm thêm cái đơn xin đổi cho quan Chánh.
Những đơn liên tiếp cùng một giọng “bã mía” ấy đã làm cho quan Chánh tòa bưu điện Cao-mên phải bực mình mà tự nghĩ: nếu cuối tháng sau, nó còn xin đổi lôi thôi nữa, ta sẽ viết giấy khiển trách.
Đến cuối giêng năm 1926, ngài dở những giấy kế toán ở Pailin gửi về thì chỉ thấy nào: K.16, K.16 bis, F.23, nào K.29, nào F.22..[9] chẳng thấy cái đơn xin đổi “hàng tháng” kia đâu nữa. Ngài phải lấy làm lạ mà tự nghĩ: “thằng bé đã chịu phép ở yên mà làm phận sự rồi”. Ngài tưởng lầm. Ngài có biết đâu: thằng bé chịu ở yên là vì một lẽ khác, chứ không phải vì phận sự.
Một sự bất ngờ cũng như trăm nghìn sự bất ngờ khác thường xẩy ra ở đời gây nên những việc tày đình mà ta không hề tưởng đến, đã khiến thầy Thông U… chạm trán với Néang Mia, một gái Cồ-là đẹp nhất vùng Bo này. Lần đâu, thoạt nhìn thấy nàng, thầy tưởng chừng như được gặp một cô thiếu nữ của sông Hương, núi Ngự mà một bà tiên đã dùng gậy thần-xích biến bộ quần áo dài lướt mướt kia ra bộ vũ y rực rỡ này. Phải, cũng khổ mặt bầu bĩnh ấy, cũng nước da trắng trẻo mịn màng ấy, cũng nụ cười bí mật mà tình tứ, cũng đôi con mắt lóng lánh ấy. Có khác là khác cái áo lụa chẽn mỏng không ống tay mùi hường, cái sằn-lây mùi hoa lý, đôi sà-bai chơn [10] nẹp xanh nẹp đỏ cùng là mái tóc cánh phượng búi ngược xòa ra như một cái tán nhỏ ở trên đầu. Thầy trông thấy con người đẹp đẽ mặn mà ấy trong bộ xiêm áo màu sắc ấy, thầy tưởng tượng như gặp nàng tiên ở chốn giao trì. Thầy đâm mê, đâm yêu rồi đem lòng ước vọng. Rồi mỗi khi cô Néang Mia ra nhà giây thép mua tem, gửi hàng thầy lại chùng chình làm ra chậm trễ, dùng một vài tiếng Cao-mên mới học được, ngỏ lời ghẹo cợt (ở xứ này người Cồ-là giao thiệp với người ngoài thường dùng tiếng Cao-mên). Dẫu những tiếng cộc-lổng mà thầy nói còn chưa đúng giọng, như slanh (yêu) chô-chất (bằng lòng)… chẳng đủ giải hết được bầu tâm sự của thầy, nhưng cô Néang Mia dường như cũng hiểu. Cô nói gì thầy chẳng hiểu, hay cũng hiểu lỏm bỏm, nhưng thầy xem dáng điệu cũng có thể đoán chắc được: cô cũng chẳng ghét thầy mà có lẽ hình như cô cũng mến thầy. Rồi ở tập lịch treo trên tường, mỗi một tờ mà người loong-toong hàng ngày bóc đi, là một lần tư tưởng ủ dột ở trong thần trí thầy nó bay đi, nhường chỗ cho những cảm giác thú vị và nồng nàn của ái tình. Rồi lòng “lo chết”, chỉ “muốn xin đổi” cũng dần dần nguội lạnh đi mà cuối tháng ấy quan Chánh sở Bưu-điện Cao-mên cũng không nhận được lá đơn xin đổi của thầy Thông U… nữa.
Những câu hỏi “ta có phải chết ở chốn này không, có được đổi đi chỗ khác không” ở trong óc thầy cũng bay đi mà nhường chỗ cho những câu hỏi khác: “Nếu cha mẹ Néang Mia bằng lòng gả nàng cho ta, ta có thể đem nàng về Bắc-kỳ được không? Nàng có thuận theo ta về Bắc không? Nàng đã yêu ta, ta đã yêu nàng, có xa nhau được không?” Nghĩ đến nông nỗi phải xa người yêu, nghĩa là phải rời bỏ chốn rừng thiêng nước độc là xứ Bo “giết người” này, thầy Thông U… tê tái trong lòng dường như lúc bước ra đi cái tay ngọc ngà của người yêu đã nắm “ruột gan” thầy mà lôi trở lại. Thầy thấy một làn mây hắc ám, thê lương nó bao bọc lấy tâm hồn thầy, tưởng chừng như thầy bước ra khỏi chốn “chứa đầy những lam sơn chướng khí” này là thầy đã bước chân vào cõi chết: cõi chết của tấm lòng đã không biết sống làm vui. Trước kia thầy sốt sắng mong mỏi được chóng xa xứ Bo này bao nhièu thì ngày nay, thầy lại sốt sắng mong được ở lại bấy nhiêu. Ngày nay, thầy coi cái chết của tâm hồn còn ghê gớm bằng mấy cái chết của xác thịt. Lúc ấy giá con quỷ sốt rét nó hiện ngay lên nhe nanh dơ vuốt mà bảo thầy: “Nếu mày không đi khỏi chốn này, tao sẽ bắt ngay mày đi”, thầy cũng cả quyết mà giả nhời ngay: “Tôi xin chết ở đây”.
Trong khi thầy Thông U…lòng đang sôi nổi về những tư tưởng ấy thì ngoài phố Bo, người ta cũng sôi nổi lên về cái tin thằng Mang-Seng-Khet, đầy tớ nhà cô Néang Mia mới kiếm được một viên ngọc đá rất quí. Dân Cồ-là cư ngụ ở đấy đều rủ nhau lại nhà thân phụ cô Néang Mia để coi viên ngọc ấy, để ước giá mà có lẽ cũng là để nuôi lấy cái lòng ghen ghét đối với anh đầy tớ may mắn kia. Ấy thói đời trâu buộc vẫn ghét trâu ăn mà kẻ không gặp may vẫn ghét kẻ gặp may.
Trong cái nhà gạch ba gian, bao nhiêu người xúm xít chung quanh viên đá cuội to bằng cái trứng gà – một viên đá vì chưa mài thì chưa thành ngọc được – kẻ bàn ra người nói vào ầm ỹ:
– To nhỉ, nặng đến hơn một trăm carats.
– À, viên hồng bảo thạch, bán được giá lắm đấy.
– Có lẽ bán được 20,000$.
-Không được 20,000$, nhưng thể nào cũng bán được hơn 10,000$ nhưng phải mài khéo lắm mới được giá ấy. Ở đây, không có máy tốt, mài hỏng mất, phải gửi đi Rangoon hay Londres.
– Phải gửi đi Londres hay New York chứ đừng gửi đi Rangoon, ở đấy mài cũng chưa được khéo.
Thằng Mang-Seng-Khet nghe những lời bàn luận ấy mà mừng. Mà cũng đáng mừng thật. Nó sang đây làm đầy tớ nhà Néang Mia đã sáu năm nay, trải bao lao khổ, lương lậu lại ít ỏi, chẳng để dành được một đồng be [11], nay bỗng được cái của “giời cho” hon một vạn ấy, thì đáng mừng biết bao. Nhưng kể nó cũng là gan. Đương nghèo kiết mà phút chốc trở nên giầu có như thế, quá mừng mà không chết, cũng là đáng khen lắm.
Hôm ấy, Néang Mia lại đi đong gạo ở Battambang nên không hay, mấy hôm sau nàng về, thằng Mang-Seng-Khet vội vã nói cho nàng biết.
– Thưa cô, tôi mới kiếm được một viên ngọc đá quý.
– Đáng bao nhiêu?
– Ít ra cũng được vạn bạc.
– Thế thì cô mừng cho mày, mày đã gửi đi mài rồi chứ?
– Chưa, anh em cứ bảo tôi gửi đi ngay, nhưng tôi muốn đợi cô về đưa cho cô xem.Tôi còn gửi cụ, nếu cô muốn xem tôi đi lấy cho cô xem.
Sau nó lại ngập ngừng ấp úng nói tiếp:
– Nếu cô bằng lòng… tôi sẽ đem biếu cô.
– Thế là nghĩa lý gì, tao không hiểu. Bằng lòng cái gì?
– Nếu cô bằng lòng thương…. thương… thương đến … đến tôi, tôi xin đem viên ngọc ấy làm lễ cưới …
– Đồ ăn mày, đồ ăn xin, mày tưởng viên ngọc của mày đã quý lắm sao, vạn bạc của mày đã to lắm đấy! Tao thèm vào, từ rầy mày còn nói láo lếu như thế tao tát vỡ mặt mày ra. Đồ khốn nạn!
Nàng mắng thằng Mang-Seng-Khet, rồi nàng lại nghĩ đến thầy Thông U… Nàng tưởng tượng giá góp hết các hòn đá quý trong thiên hạ lại, nàng cũng không yêu bằng một nụ cười của “anh chàng Bắc kỳ” si tình mà thực thà kia vậy.
Miệng đời thường nói: tiền là nhất. Nhưng nếu xét kỹ ra, nó có “nhất” là “nhất” với những người cho nó là nhất mà thôi. Ta quẳng rõ nhiều tiền ra có thể “mua được tiên”, có thể mua được ngọc quý chứ vị tất đã mua được một trái tim, vị tất đã khiến nó phải “nóng hổi” vì ta được. Như thế thì tiền vị tất đã quý bằng “trái tim đỏ”, như thế thì, “trái tim đỏ” chỉ có thể lấy “trái tim đỏ” mà đánh đổi được thôi. Trái tim đỏ! người là vật báu vô giá quý nhất ở trong cõi đời này. Mà cũng đáng khen cho thằng gia nô Mang-Seng-Khet kia. Nó có con mắt tinh đời thực. Nó đã nhìn thấy một vật quý hơn hòn ngọc quý của nó.
Thằng Mang-Seng-Khet bị mắng, xấu hổ ôm đầu cút mất, nó đành phải đem viên ngọc đá đóng hộp để gửi đi mài, rồi để bán lấy tiền mà trở về Cồ-là (Birmanie) an hưởng sung sướng cho bỏ cái công trình lao khổ bao nhiêu năm nay, nhưng nó vẫn tiếc không đem viên ngọc “chết” mà đổi lấy viên ngọc “sống” được.
Sáng hôm sau, nhà giây thép Pailin vùa mới mở cửa, nó đã đem cái hộp vào.
– Thưa thầy, thầy gửi giùm cái hộp này cho con.
– Phát tài nhỉ, thầy mừng cho mày. Định gửi đi đâu?
– Thưa thầy, thầy đề cho con đi Londres, cái địa chỉ đây, thầy cứ đề theo như thế. Nhưng gửi cách thế nào chắc chắn nhất thầy bảo con.
– Kể vật nhiều tiền như thế này phải đem về nhà giây thép Battambang gửi theo cách khai giá (valeur déclarée) mới là chắc chắn.
– Xa quá, đương mùa mưa, xe ô-tô hàng sẽ không đi lại được. Đường rừng lầy lội, nguy hiểm, con đâu dám đi bộ. Thôi thầy cứ xem ở đây có cách nào chắc chắn nhất thì thầy gửi cho con.
– Ở đây, không có quyền nhận những vật gửi theo lối khai giá, cách gửi đảm bảo (recommandé) là chắc chắn hơn cả.
– Thế thầy cử gửi như thế cho con cũng được. Ở trong hộp, ai biết là cái gì mà sợ họ ăn cắp, mà đã đảm bảo thì còn mất đi đâu.
Thầy Thông U… đề chỗ ở, biên vào sổ rồi viết biên lai đưa cho thằng Mang-Seng-Khet. Xong rồi, thầy đem cái hộp bỏ vào cái tủ sắt con, kê ở bên tường. Cái tủ này cũng như trăm nghìn cái tủ sắt của các nhà bưu điện nhỏ, ít tiền xuất nhập, nó đều không có ổ khóa chữ, chỉ toàn dùng khóa thường mà thôi.
Mười một giờ. Thầy Thông U… ăn vội ăn vàng rồi sấp ngửa ra phố vào nhà Néang Mia trò truyện cũng như mọi ngày.
Hai giờ rưỡi thầy về, ung dung cầm chìa khóa mở tủ để lấy tem bán cho người ta, thì ôi thôi! cái hộp không cánh đã bay đằng nào? Lục soát, tìm kiếm mãi chẳng thấy đâu, thầy vội vàng bảo loong-loong đi trình ông Đại-lý và ông Phủ. Ông Phủ hôm ấy lại đi việc quan vắng, chỉ một mình ông Đại-lý đến. Ông khám xét nhà cửa, tủ sắt một lượt kỹ càng, rồi ông bèn gọi loong-toong đến hỏi cung. Cung hỏi xong, ông bèn gọi thầy Thông U… lại gần mà sẽ bảo:
– Việc này mờ tối lắm. Tôi xét kỹ càng các cửa ngõ, ngoài sân trong nhà không có một vết tích gì có thể chứng thực rằng: đã có một kẻ gian tiềm nhập vào đây. Mà ban ngày ban mặt, nếu có ai vào thì láng giềng chung quanh tất có kẻ trông thấy. Kẻ ăn trộm này có lẽ là người trong nhà. Mà trong nhà này thì không có ai, chỉ có một mình thầy, mà có lẽ chính là thầy.
– Thế quan lớn ngờ cho tôi ăn cắp giấu đi mà phao lên như thế hay sao?
– Tôi không ngờ mà tôi dám chắc như thế, vì rằng lúc thầy bỏ cái hộp vào tủ khóa lại, người loong-toong tuy có biết nhưng thầy vẫn có mặt ở đây. Nó dù có muốn lấy cũng không lấy được. Tôi đã bảo cái hộp ấy là người trong nhà lấy, mà thằng loong-toong đã không lấy thì còn ai? Thầy không có đầy tớ, vợ con; ở nhà này chỉ có một mình thầy. Tôi sở dĩ mà không bắt giam thầy ngay là vì công việc nhà giây thép khẩn cấp không thể một ngày không có người, hai là tôi nghĩ thương thầy còn trẻ dại. Nếu có phải thầy trót tham mà lấy thì phải giả lại cho người ta. Nếu từ nay đến sáng mai, thầy không hồi tâm lại tôi sẽ phải làm theo bổn phận. Mà nếu làm ra, thầy vừa mất việc, vừa phải tội. Thầy nên nghĩ kỹ kéo hối không kịp.
Ông Đại-lý nói xong rồi về, để hai người lính lại gác cổng không cho thầy Thông U… đi đâu.
Rộng lượng thay ông Đại-lý! Nhưng không lấy thì đào đâu ra mà giả lại cho người ta được.
Một mối ngờ! một mối ngờ mà sức người không làm cho tiêu tán đi được, độc địa thay!
Ăn cắp! mất việc! phải tù! ba tiếng sét đánh liền liền ngay bên tai cũng không làm cho thầy Thông U… kinh hãi bằng. Tâm sự thầy lúc ấy thế nào chẳng cần phải nói ta cũng đủ hiểu. Thầy oan, thầy đau đớn về nỗi oan. Thầy muốn gào thét để tỏ nỗi oan.
Nhưng thầy xét ra cũng vô hiệu. Cứ như lời quan Đại-lý nói thế, các tang chứng đã buộc chết cho thầy không còn cách nào mà gỡ cho khỏi tội được nữa. Thầy tự nhủ: “Nỗi hàm oan này, có chăng chỉ ông giời cùng ta biết mà thôi… mà có lẽ chỉ Néang Mia biết nữa mà thôi: vì nàng biết chắc ta không thể nào đè ép lương tâm mà làm một việc đê hèn như thế được”.
Ôi, lòng tín ngưỡng của ái tình còn mạnh hơn lòng tín ngưỡng của tôn giáo! mà chỉ có những người nào yêu nhau mới biết tin nhau mà thôi.
Thầy Thông U… nghĩ đến Néang Mia lòng đau như cắt, hình như có một sức mạnh bí mật gì bảo cho thầy biết: có lẽ cuộc tình duyên của thầy sẽ vì việc chẳng may này mà tan nát. Thầy lại tưởng tượng đến cảnh éo le não nùng của gia đình thầy: cha đã chết, nhà thì nghèo, mẹ thì già, bốn em còn dại ; nếu nhất đán được cái tin ghê gớm này, nếu nhất đán thầy mất việc không tiền gửi về thì.. Nghĩ đến đấy, thầy tưỏng chừng như mẹ và bốn em cũng cùng phải chịu chung một cảnh xót thương tù ngục sau này của thầy. Thầy thấy ruột gan thầy như xé.
Người ta thường nói: “Những người con hiếu, những người anh hiền mới là những người tình nhân không hai lòng”. Thật đúng lắm.
Trong nhà giây thép, thầy Thông U… như nằm trên đống lửa mà ngoài thì người kéo đến ngóng tin đông như hội. Họ bàn luận, phỏng đoán xôn xao. Nhưng to tiếng nhất là thằng Mang-Seng-Khet. Nó được cái tin ghê gớm ấy nó tưởng chết ngay mà không chết được. Nó lại nghe người ta nói: “Những vật đảm bảo mà nhỡ có thất lạc thì nhà bưu điện chỉ đền cho 25 quan tiền Tây mà thôi”. Nó lại càng thất vọng, mà đã thất vọng thì tất nhiên là nó phải căm, hờn, oán, giận cái người mà đã làm cho nó thất vọng ấy. Nó chạy như bay đến nhà giây thép. Nếu không có hai người lính cản nó lại, có lẽ nó đã xông vào đánh đập thầy Thông U… rồi.
Néang Mia cũng lại coi, thấy thiên hạ họ nghi cho thầy Thông U… ăn cắp nàng tự nghĩ: “Không có lẽ, người yêu của ta lại là một người ăn cắp được, con người như thế không có thể nào làm một việc đê hèn như thế được”. Nàng nghĩ đến đấy muốn kêu to lên cho mọi người biết: “Người yêu của tôi không phải là kẻ ăn cắp, mà không khi nào ăn cắp được.” Nàng thấy Mang-Seng-Khet nó xắn xiêm áo, hoa tay múa chân, gào, thét, chửi, mắng ầm ĩ mà nàng muốn chạy lại tát cho nó mấy cái. Nhưng nàng suy đi xét lại làm như thế đã chẳng ích gì cho người yêu, mà chỉ thêm xấu hỗ cho nàng, nàng bèn nghiêm sắc mặt bảo thằng Mang-Seng-Khet:
– Nào đã biết ai ăn cắp mà mày hàm hồ như thế, còn chờ ông Đại-lý xét xem phải trái ra làm sao đã, mà dù người ta có lấy của mày cũng đã có nhà nước định tội, mày không có phép chưởi người ta như thế. Bước về ngay đi. Đồ khốn nạn chỉ quen láo lếu.
Như một đám mây mà trận gió kéo lại cuốn ngay đi, cơn lôi đình thằng Mang-Seng-Khet bỗng tiêu tán đi đâu mất. Nó bèn ôm đầu lủi thủi trở về như một con chó nép lưng dưới con mắt giận dữ của người chủ. Nhưng dù sao nó cũng không quên việc nhờ người làm đơn để đi kiện thầy Thông U…
Lúc người đến xem đã được hả tấm lòng tò mò, tản về hết như một đàn ruồi thấy có ăn thì bâu đến, lúc no bụng lại kéo nhau đi, nàng bèn cho tiền hai người lính rồi lẻn vào nhà giây thép.
Trông thấy thầy Thông U… nằm gục ở trên giường, nàng thương quá chạy lại bế thầy vào lòng mà hỏi đầu đuôi, nhưng thầy Thông U… chỉ khóc tấm tức mà không nói được. Lâu lâu thầy mới dùng những tiếng Cao-mên “bập bẹ”, mà ú ớ bảo nàng:
– Tôi không ăn cắp mà tôi sẽ phải tù.. mẹ tôi đói, em tôi rét.
Rồi thầy giơ năm ngón tay lên hình như muốn tỏ cho Néang Mia biết: có năm người sẽ phải điêu đứng khổ sở vì thầy. Nàng nghe thầy nói lại càng ghì chặt lấy thầy, như muốn cho nỗi buồn rầu sôi nổi ở trong lòng thầy nó chuyển bớt sang mình nàng để cùng được chịu nỗi cay đắng của người yêu.
Thầy Thông U… lại nói:
– Thôi thế là tình duyên đôi ta tan nát, mới gặp nhau có ba tháng, đã phải chia lìa, đau ruột quá; tôi thề với mình tôi không ăn cắp, mình có tin tôi không?
– Dầu ai có cắt cổ tôi đi, tôi cũng nói mình không phải là quân ăn cắp, tôi tin bụng mình lắm.
Rồi nàng lại sợ hai chữ “cắt cổ” tiếng Cao-mên nó khó quá thầy không hiểu, (mà có lẽ thầy cũng chưa học đến) nàng liền nắm tay thầy, giơ lên, cứa cứa vào cổ nàng, để ra hiệu cho thầy biết. Thầy hình như hiểu bèn nói:
– Tang chứng buộc chết cả cho tôi rồi, người yêu có thương tôi cũng chẳng gỡ tội cho tôi được, người yêu đã tin tôi, thế là tôi mừng rồi.
Lạ thay, một anh nửa câm, một chị nửa điếc, họ làm thế nào tỏ tâm sự cho nhau biết được, mà hiểu nhau được, mà yêu nhau được. Giá dụ có người biết tiếng Cao-mên lắng tai nghe thầy Thông U… nói cái tiếng Cao-mên, dở Cao-mên, dở Annam pha Tây, đá Cồ-là ấy thì đến phì cười vỡ bụng, mà cũng không hiểu là thầy muốn nói gì nữa. Nhưng Néang Mia hình như hiểu cả mà nàng nói gì, thầy Thông U… như cũng biết hết. Ấy bọn chung tình họ có cần nói ra miệng đâu, con mắt họ, sắc mặt họ, giọng nói họ, mà thứ nhất luồng điện trong quả tim họ thông ngôn cho họ, tỏ bầy tâm sự giùm họ.
Thần ái tình! Thần ái tình! ngươi thật có những phép thần thông mầu nhiệm lạ thường, chỉ có những kẻ nào thờ người mới hiểu biết mà thôi. Ngươi thật đã làm cho người câm biết nói, người điếc biết nghe. Người không phân biệt màu sắc, không phân biệt giống nòi, rộng thay lòng bác ái của nhà ngươi!
Hai người lẳng lặng một lúc lâu, rồi thầy Thông U… lấy tay chỉ vào mình, chỉ về phía dinh ông Đại-lý, chỉ về phía Bắc rồi đập, đập vào đầu mà khóc to lên, muốn nói mà ấp úng không thành tiếng, mà cũng chẳng biết nói thế nào, (biết tiếng Cao-mên bao nhiêu mà nói). Thầy ra hiệu như thế, dẫu là Thánh cũng vị tất đã hiểu, thế mà Néang Mia hiểu cả, nàng hiểu thầy muốn nói: nếu thầy phải tù, mất việc thì khổ cho nàng, khổ cho mẹ thầy cùng các em thầy.
Nàng hiểu như thế, nàng biết như thế nên tấm lòng thương yêu người con thảo, người anh hiền lại tăng tiến lên cực điểm mà tấm lòng hi sinh cho người yêu, cho gia đình người yêu bỗng nổi lên. Hai con mắt nàng lúc bấy giờ sáng quắc như ngụ một ý quả quyết làm một việc hiểm nghèo gì.
Nàng bèn ôm chặt lấy thầy Thông U… ghé răng vào môi thầy cắn mạnh một cái, rồi vùng đứng dậy ra cửa, như đem hết bao nhiêu ái tình chứa chất ở trong lòng nàng, đem hết linh hồn gửi lại người yêu chỉ lấy một cái xác thịt không ra đi.
Lúc nàng về đến nhà, vội gọi thằng Mang-Seng-Khet xuống bếp bảo:
– Mày đầu đơn kiện chưa?
– Thưa cô, tôi kiện nó rồi, ông Đại-lý nói với tôi thế nào nó cũng phải tù.
– Nói láo nào, mày có tiếc hòn ngọc đá ấy không?
– Sao không tiếc, nhưng may ra còn tìm được.
– Nếu mày tìm được, tao bằng lòng lấy mày làm chồng, mày có cho tao không?
– Tôi đã bảo tôi không tiếc gì cả, chỉ tiếc không lấy được cô mà thôi.
– Nếu thế thì mày ra dinh ông Đại-lý xin rút đơn kiện thầy, Thông U… ra, nói là thầy bỏ quên cái hộp ngọc trong ngăn kéo, nay thầy đã tìm thấy đem trả lại mày rồi. Nếu mày bằng lòng nói thế, tao sẽ lấy mày làm chồng.
– Đã tìm được đâu mà nói thế?
– Không tìm được cũng như tìm được ; tìm được thì khi tao lấy mày rồi tao cũng đem vất đi, mà không tìm được, thì tao cũng là vợ mày. Mày quý hòn ngọc hơn tao à?
– Không không, tôi chỉ sợ cô nói dối, khi rút đơn ra rồi, cô lại lật lọng không lấy tôi.
– Mày trông tao có phải con người lật lọng không. Nếu mày không tin thì ngay bây giờ đây, mày muốn thế nào, tao cũng bằng lòng (!!!!)
Ôi, nghe cái giọng nói thảm thiết của nàng, cái vẻ mặt đau đớn của nàng lúc nói câu ấy, thì cho dẫu đá cũng phải chẩy máu mắt – nếu đá có mắt. Đứa gia nô cục súc kia, dường như cũng biết cảm động, bèn nói:
– Thôi cô nói thế là đủ rồi, là tôi tin cô rồi, để tôi đi ngay lại dinh ông Đại-lý xin rút đơn ra, nhược bằng ông ấy làm khó khăn tôi cũng cố lạy van để ông ấy bỏ việc này đi.
Xứ Bo (Pailin) qua một đêm huyên náo lại yên tĩnh như thường. Ai cũng cứ tưởng là thầy Thông U… đã tìm thấy cái hộp ngọc đưa giả lại thằng Mang-Seng-Khet rồi.
Hòn ngọc? Hòn ngọc? nó ở đâu? Ai lấy? Ta còn chờ thời gian bảo cho ta biết. Vấn đề bí mật ấy hiện còn chìm đắm trong chỗ tối tăm, nhưng giữa nơi thanh thiên bạch nhật, thằng Mang-Seng-Khet đã nghiễm nhiên là chủ nhân ông “hòn ngọc biết nói” kia, mà từ đấy ta đã được thấy trong đám đông viên chức nhà Bưu-điện, một người cứ lủi thủi đi, lủi thủi về, ai hỏi chẳng buồn nói, gọi chẳng buồn thưa, mặt mày ủ rủ khô héo như một cái thây ma.
Chú thích:
[1] Sông vùng Battambang cứ vụ nước lên, thì những thuyền trọng tải từ 300 tạ đến 40.000 mới vào được.
[2] – Các ghe thường sơn hắc ín.
[3]-[4]-[5] – Đại để là một thứ “váy”
[6] – Quan huyện
[7] – Cà puông: một thứ áo dài khâu kín tà.
[8] – Caseng: khăn quàng cổ.
[9] – Tên riêng giấy má kế toán nhà Bưu-điện
[10] -Một thứ dép như dép Nhật-bản.
[11] – Một thứ tiền trinh trị giá bằng đồng kẽm.