Chương I
Ông đã đến đây hai trăm, ba trăm lần? Hay còn hơn thế? Ông không muốn đến, cũng không muốn nhớ lại từng trường hợp riêng rẽ, cả những lần nổi tiếng nhất, những lần đã đi vào lịch sử công lý, bởi đó chính là khía cạnh nặng nề nhất của nghề nghiệp ông.
Phần lớn những cuộc điều tra của ông tuy nhiên chẳng phải đều kết thúc ở toà Đại hình như hôm nay, hoặc ở toà Phúc thẩm sao? Ông có lẽ thích không biết tới nó hơn, trong bất kỳ trường hợp nào, luôn đứng ngoài những nghi lễ cuối cùng mà ông không bao giờ quên nổi chúng hoàn toàn.
Trong văn phòng của ông ở đường bờ sông Orfèvres, cuộc đấu tranh thường kết thúc vào buổi sáng, đúng ra vẫn còn là cuộc đấu tranh của con người với con người.
Vài hành lang phải vượt qua, mấy chiếc cầu thang phải leo lên, rồi đến một cảnh tượng khác hẳn, một thế giới khác, trong đó câu chữ không còn cùng một nghĩa, một vũ trụ trừu tượng, thần bí, vừa tôn nghiêm vừa lố bịch. Cùng với những nhân chứng khác, ông vừa rời khỏi phòng xử có những vách gỗ tốt nơi ánh sáng điện của những bóng hình cầu trộn lẫn với màu nhờ xám của một chiều mưa. Viên mõ toà, mà Maigret cam đoan luôn thấy lão vẫn già như thế, dẫn họ tới một căn phòng nhỏ hơn, như một thầy giáo dẫn học trò, và chỉ cho họ những chiếc ghế dài gắn chặt vào tường. Phần lớn ngoan ngoãn ngồi xuống, vâng theo những lời dặn dò của ông chủ tịch, không nói một lời, không cả dám nhìn những bạn đồng hành của họ. Họ nhìn thẳng trước mặt, căng thẳng, kín đáo, giữ bí mật của họ cho khoảnh khắc tôn nghiêm, lát nữa, chỉ có mỗi mình họ giữa một không gian đầy ấn tượng, họ sẽ bị thẩm vấn.
Hơi giống như trong kho đồ thánh. Lúc còn bé, mỗi sáng, đến phụ việc hành lễ ở nhà thờ làng, Maigret cũng cảm thấy bối rối như thế khi chờ đợi đi theo ông mục sư tới bàn thờ thắp sáng bằng những cây nến run rẩy. Ông nghe thấy những bước chân của những thiện nam, tín nữ không nhìn rõ mặt, tới ngồi vào chỗ, và tiếng đi đi lại của người coi giữ đồ thánh.
Giờ đây cũng vậy, ông có thể đi theo cuộc hành lễ đang diễn ra phía bên kia chiếc cửa không? Ông nhận ra tiếng của ông chủ tịch Bernerie, người xét nét nhất, tỉ mỉ nhất trong các vị quan toà, nhưng cũng có thể là người thận trọng nhất, người say mê nhất trong việc khám phá chân lý. Gầy gò, ăn mặc xuềnh xoàng, đôi mắt như lên cơn sốt, tiếng ho khàn, ông có dáng vẻ như một vị thánh canh cửa.
Tiếp đến là giọng nói của công tố viên Aillevard, giữ ghế Viện Công tố. Cuối cùng là tiếng bước chân lại gần của viên mõ tòa hé cửa gọi:
“Ngài Cảnh sát trưởng Segré.”
Segré vẫn không ngồi, liếc nhìn Maigret và đi vào phòng xử vẫn trong chiếc áo rét choàng ngoài và chiếc mũ màu xám trên tay. Những người khác thoáng nhìn theo ông ta, nghĩ rằng sẽ sớm đến lượt mình và lo lắng tự hỏi sẽ xử sự thế nào đây.
Chỉ thấy một khoảng trời nhỏ không màu qua những chiếc cửa sổ không với tới được và cao đến mức phải đóng mở nhờ một chiếc thừng, và ánh sáng điện tạc lên những khuôn mặt có những đôi mắt trống vắng.
Trời nóng, nhưng bỏ áo choàng ra thì bất tiện. Đang có những nghi lễ phía bên kia chiếc cửa, trong nghi lễ, mỗi người đều chăm chú và nếu Maigret xuyên qua những hành lang của tòa lâu đài mờ tối, đến bên cạnh cũng không sao: Ông cũng khoác chiếc áo choàng như mọi người và cầm mũ trên tay.
Lúc đó đang tháng mười. Ông chánh thanh tra mới chỉ đi nghỉ hè về được hai ngày, trong một Paris chìm ngập dưới mưa như không muốn dứt. Ông lại thấy Đại lộ Richard-Lenoir, rồi văn phòng của ông, với một tình cảm có lẽ khó xác định, và bước vào, vui buồn lẫn lộn.
Lúc nãy, khi ông chủ tịch hỏi tuổi ông, ông trả lời:
“Năm mươi ba tuổi.”
Và điều đó có nghĩa, theo nguyên tắc hai năm nữa, ông sẽ về hưu. Ông luôn nghĩ tới điều đó và thường vui mừng vì điều đó. Nhưng, lần này, nghỉ hè về, việc về hưu đó không còn là một khái niệm mơ hồ và xa xôi nữa. Đó là một sự kết thúc lô gích, không thể cưỡng lại và hơi bất ngờ.
Trong ba tuần trôi qua ở sông Loa, tương lai đã được vật thể hoá đồng thời với việc gia đình nhà Maigret cuối cùng mua một ngôi nhà, nơi sẽ trôi qua những ngày già lão của họ.
Việc đó xảy ra hầu như ngoài ý muốn của họ. Cũng như những năm trước, họ đang đi xuống một khách sạn ở Meung-sur-Loire, họ vẫn quen ở đó, mà ông bà chủ, ông bà Fayet coi họ như người nhà.
Những tấm giấy quảng cáo trên các bức tường của cái thành phố nhỏ này thông báo việc phát mại một ngôi nhà miền quê ngoại thị. Ông bà Maigret đã tới thăm. Đó là một ngôi nhà rất lâu đời, có tường xám bao quanh một khu vườn, làm người ta nghĩ tới nhà của một mục sư. Ông bà Maigret đã bị những hành lang lát gạch màu xanh lơ, cái bếp có những xà lớn, nền bếp cách mặt đất ba bậc thềm còn cả chiếc bơm nước ở một góc, quyến rũ. Phòng khách có cảm giác như phòng nguyện của một tu viện, và chỗ nào, cửa sổ cũng có ô kính vuông cắt tách một cách huyền bí những chùm ánh sáng mặt trời.
Lúc tuyên bán, ông bà Maigret đứng ở cuối phòng, nhiều lần đưa mắt hỏi nhau, và cả hai đều ngạc nhiên khi ông giơ tay trong khi những người dân quê quay đầu lại… Hai lần?… Ba lần?… Tuyên bán!
Lần đầu tiên trong đời, họ là chủ sở hữu và ngay ngày hôm sau, họ cho gọi thợ chì và thợ mộc tới. Những ngày cuối cùng, họ bắt đầu bắt chước những nhà chơi đồ cổ trong vùng. Họ đã mua ngoài những thứ khác, một hòm gỗ đựng vũ khí của François đệ nhất, đem đặt ở hành lang tầng trệt, gần cửa phòng khách, nơi có một chiếc lò sưởi bằng đá.
Maigret không nói việc đó với Janvier, cũng không với Lucas, với bất cứ ai, có vẻ như ông hơi xấu hổ với việc chuẩn bị cho tương lai như thế, như thể đó là sự phản bội đối với đường bờ sông Orfèvres.
Đêm trước, hình như với ông, văn phòng của ông không còn hoàn toàn vẫn là cái văn phòng đó, ông bắt đầu cảm thấy mình như một người xa lạ.
Hai năm nữa, ông sẽ đi câu cá và chắc hẳn những buổi chiều mùa đông, thế nào chả đi chơi bài Belote với mấy người quen ở một góc quán cà phê nơi ông đã bắt đầu quen đến uống.
Ông chủ tịch Bernerie đặt ra những câu hỏi rất rõ ràng, và ông chánh thanh tra Quận Chín cũng trả lời không kém rõ ràng những câu hỏi đó.
Trên những ghế dài, xung quanh Maigret, những nhân chứng, đàn ông và đàn bà tất cả đều đã qua văn phòng ông và một số đã qua đấy hàng mấy tiếng đồng hồ. Có phải tại họ quá xúc động bởi sự tôn nghiêm của nơi này mà hình như họ không nhận ra ông không?
Không phải ông là người sắp thẩm vấn họ nữa, đúng như vậy. Họ không còn thấy mình trước mặt một con người như họ nữa, mà là trước một cỗ máy vô hồn, và cũng không chắc họ có sẽ hiểu những câu hỏi sẽ đặt ra cho họ không. Chiếc cửa hé mở. Đến lượt ông. Cũng như đồng nghiệp của ông ở Quận Chín, ông cầm mũ trên tay, không nhìn phải, nhìn trái, ông đi thẳng đến cái bục hình nửa vầng trăng dành cho nhân chứng.
“Tên, họ ông, tuổi và tư cách…”
“Maigret Jules năm mươi ba tuổi, chánh thanh tra khu vực thuộc sở cảnh sát điều tra Paris.”
“Ông không phải họ hàng của bị cáo, cũng không phải là người phục vụ cho bị cáo… Giơ bàn tay phải lên… Hãy thề nói sự thật, chỉ sự thật thôi…”
“Tôi xin thề…”
Ông nhìn, bên phải mình, những bóng dáng của các viên bồi thẩm, những bộ mặt lộ ra từ khoảng tranh tối tranh sáng sáng rõ hơn, và bên trái, sau những chiếc áo đen của những luật sư, bị cáo, ngồi giữa hai lính cảnh vệ mặc đồng phục, cằm tì lên hai bàn tay bắt chéo đang chăm chăm nhìn ông dữ dội.
Họ đã trải qua những giờ phút dài dặc, cả hai, mặt đối mặt với nhau trong cái văn phòng quá oi nóng ở đường bờ sông Orfèvres, và đã đến mức phải tạm ngừng cuộc thẩm vấn để vừa ăn bánh sandwich, uống bia vừa tán gẫu như hai người bạn.
“Nghe đây, Meurant.”
Có thể đôi khi Maigret đã “cậu tớ” với hắn chăng?
Ở đây một rào chắn không thể vượt qua đã dựng lên giữa họ và con mắt của Gaston Meurant cũng khách quan như của chánh thanh tra.
Chủ tịch Bernerie và Maigret cũng quen biết nhau không phải chỉ vì đã tán gẫu ngoài hành lang, mà bởi vì đây là lần thẩm vấn thứ ba mươi người này bắt người kia phải chịu đựng.
Không còn lại một dấu vết gì. Mỗi người giữ vai trò của mình như thể họ vốn là những người xa lạ, những chức sắc của một lễ hội, cũng cổ kính và đầy nghi thức như lễ Misa.
“Có phải chính ông, ông chánh thanh tra đã chỉ đạo cuộc điều tra về các sự việc mà toà đang xét xử không?”
“Vâng thưa ông chủ tịch.”
“Ông hãy quay về phía các vị bồi thẩm và nói với họ những gì ông biết.”
“Ngày hai mươi tám tháng hai vừa rồi, khoảng một giờ chiều, tôi đang ở trong văn phòng ở đường bờ sông Orfèvres, thì tôi nhận được điện thoại của ông cảnh sát trưởng Quận Chín. Ông này báo cho tôi biết một vụ giết người vừa mới được phát hiện ở phố Manuel ngay gần phố Martyrs, và họ đang tới hiện trường. Mấy phút sau, một cú điện thoại của phòng công tố gọi cho tôi mời tôi đến và cử cả những chuyên viên giám định nhân dạng và chuyên viên phòng thí nghiệm đến.”
Maigret nghe thấy vài tiếng ho, và sau ông, những đế giày xê dịch trên sàn nhà. Đây là vụ đầu tiên của mùa xét xử và mọi chỗ đều có người. Có thể có cả những khán giả đứng ở phía cuối, gần chiếc cửa lớn có người mặc đồng phục canh giữ.
Ông chủ tịch Bernerie thuộc thiểu số các vị quan toà, áp dụng Luật Tố tụng hình sự theo đúng văn bản không chịu bằng lòng nghe, ở toà Đại hình, một bản tóm tắt chỉ dẫn, mà là tái lập văn bản trong từng chi tiết nhỏ.
“Ông đã thấy ông công tố viên ngay trên hiện trường?”
“Tôi đến trước ông viện phó mấy phút. Tôi thấy tại chỗ, ông Cảnh sát trưởng Segré, kèm theo viên thư ký và hai thanh tra khu vực. Không ai trong họ nói động đến đã xảy ra việc gì.”
“Ông hãy nói cho chúng tôi những gì ông đã trông thấy.”
“Phố Manuel là một phố thanh bình, nhiều tư sản ở, ít người qua lại, chạy xuống phía dưới phố Martyrs. Ngôi nhà mang số hai mươi bảy ở gần như giữa phố. Trạm gác của người gác cửa không ở tầng hầm, mà là ở tầng trệt. Viên thanh tra đợi tôi, dẫn tôi lên tầng hai, ở đó, tôi thấy hai cửa trông ra hành lang. Cửa bên phải hé mở, trên một biển đồng, có tên: Bà Faverges.”
Maigret biết đối với chủ tịch Bernerie, mọi cái đều đáng kể và không nên bỏ thiếu cái gì nếu không muốn ông ta ra lệnh nhớ lại.
“Trong lối vào, được một bóng điện mờ chiếu sáng, tôi không nhận ra bất kỳ một sự suy suyển nào.”
“Khoan đã. Trên cửa có dấu vết cậy bẻ khoá không?”
“Không. Nó đã được các chuyên gia xem xét sau đó ổ khoá đã được tháo rời ra, đi đến nhận định không một dụng cụ thông thường nào được dùng để bẻ cậy khoá.”
“Cảm ơn ông, ông tiếp tục đi.”
“Căn hộ gồm bốn phòng không kể phòng đợi. Đối diện với phòng đợi là phòng khách có cửa kính treo rèm màu mỡ gà, chính trong cái phòng khách thông với phòng ăn bằng một cửa kính, tôi thấy hai xác người.”
“Chính xác những xác người ấy nằm ở đâu?”
“Xác người đàn bà, liền đó tôi biết tên là Léontine Faverges nằm soài trên tấm nệm, đầu quay về phía cửa sổ, họng bị cắt đứt bằng một dụng cụ không thấy trong căn phòng nữa, trên tấm nệm là một vũng máu đường kính năm mươi xăngtimét. Còn về xác đứa trẻ…”
“Có phải cô bé Cécile Perrin, độ bốn tuổi, quen sống với Léontine Faverges không?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch. Xác đứa bé còng queo trên chiếc trường kỷ thời Louis, mặt vùi dưới chiếc gối ôm bằng lụa. Theo như thầy thuốc khu vực, và một lúc sau, bác sĩ Paul đã xem xét, đứa bé sau khi bị bóp cổ lúc đầu, đã bị tắt thở bởi cái gối đó.”
Có tiếng xôn xao trong phòng xử nhưng cũng đủ để ông chủ tịch ngẩng đầu đưa mắt nhìn khắp lượt khán giả, để trở lại yên lặng.
“Sau khi ông công tố viên đi xuống, ông vẫn lưu lại trong căn hộ đến tối cùng với các cộng tác viên của ông chứ?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch.”
“Ông hãy nói cho chúng tôi biết, ông đã rút ra được những nhận xét gì?”
Maigret chỉ ngập ngừng mấy giây.
“Ngay lúc đầu, đồ nội thất và cách trang trí đã đập vào mắt tôi. Trên giấy tờ của mình, Léontine Faverges được ghi là vô nghề nghiệp. Bà ta sống bằng khoản lợi nhuận nhỏ, chăm sóc Cécile Perrin, mà mẹ nó, một vũ nữ của một quán rượu, không thể tự mình trông nom nó.”
Người mẹ đó, Juliette Perrin, ông đã thấy khi bước vào phòng xử, đang ngồi ở hàng đầu các khán giả, bởi vì cô ta ăn mặc kiểu thường dân. Tóc nhuộm màu hung đỏ, cô ta mặc một áo choàng lông.
“Ông hãy nói chính xác cho chúng tôi biết, cái gì trong căn hộ làm cho ông sửng sốt.”
“Một sự phát hiện không bình thường, một kiểu cách đặc biệt khiến tôi nhớ lại vài căn hộ trước khi ban hành những điều luật về nghề mại dâm. Bộ sa lông, chẳng hạn phủ dạ quá dày, quá mềm mại, với sự tiêu sài quá mức về đệm, gối, những bức tranh lẳng lơ. Những chao đèn màu dịu, tất cả đều giống như trong hai phòng ngủ có quá nhiều gương so với thông thường. Tôi hiểu ra ngay, quả thực trước kia Léontine Faverges đã sử dụng căn hộ của mình làm nhà chứa. Sau khi những điều luật mới đã được ban hành, bà ta còn tiếp tục một thời gian nữa. Đội chống tệ nạn xã hội đã tới nhắc nhở bà ta và chỉ sau nhiều lần bị phạt tiền, bà ta mới chịu ngừng mọi hoạt động.”
“Ông đã xác định được các nguồn tài sản của bà ta là gì chưa?”
“Theo như bà gác cửa, những người láng giềng và tất cả những ai quen biết bà ta kể lại, bà ta có tiền để dành, bởi bà ta chưa bao giờ hoang phí. Sinh ra ở Meurant, là em gái của mẹ bị cáo, bà ta đến Paris vào tuổi mười tám, và đã làm việc một thời gian với tư cách là người bán hàng trong một cửa hàng lớn. Hai mươi tuổi, bà ta lấy một người tên là Faverges, đại lý thương mại, ba năm sau, ông ta chết trong một tai nạn ô tô. Khi đó cặp vợ chồng này sống ở Asnières. Trong một số năm, người ta thấy người đàn bà trẻ đó lui tới những quán bia ở phố Hoàng gia, và thẻ hành nghề của bà ta lại thấy ở đội chống tệ nạn xã hội.”
“Ông có tìm ra, trong việc lui tới của bà ta thời đó, một người nào đó, mới đây lại có thể nhớ tới bà ta, rồi làm việc tồi tệ với bà ta?”
“Bà ta sống trong môi trường của mình như một người cô độc, điều đó ít khi xảy ra. Bà ta để dành được tiền, cho phép bà ta sau này đến sinh sống ở phố Manuel.”
“Lúc chết, bà ta sáu mươi hai tuổi?”
“Vâng. Bà ta béo mập hơn, nhưng theo như tôi xét đoán, bà ta vẫn giữ được chút dáng vẻ thanh xuân và một sự đỏm dáng nào đó. Theo những nhân chứng đã được thẩm vấn, bà ta rất gắn bó với con bé mà bà ta nuôi ăn trọ, không đủ với khoản tiền còm trả cho bà ta, hình như lo sợ bị cô quạnh.”
“Bà ta có một khoản tín dụng ngân hàng hoặc tiết kiệm nào không?”
“Không. Bà ta không tin những cơ sở tín dụng, những công chứng viên những cơ sở cho vay nói chung, và giữ trong nhà tất cả những gì mình có.”
“Người ta có tìm thấy tiền không?”
“Rất ít, những giấy bạc nhỏ trong túi xách tay, và một số tiền nữa trong ngăn kéo tủ bếp.”
“Có một nơi cất giấu nào các ông phát hiện ra không?”
“Hình như có. Khi Léontine Faverges bị ốm, vài ba lần những năm gần đây, bà gác cửa lên giúp việc bếp núc và trông nom đứa trẻ trên chiếc tủ ly ở phòng khách, có một chiếc lọ tàu cắm hoa giả. Một hôm, bà gác cửa, để rũ bụi cho hoa, đã lôi bó hoa ra khỏi lọ và thấy, ở đáy lọ, một túi vải hình như gói những đồng tiền vàng. Theo như khối lượng và trọng lượng, bà gác cửa cho là phải tới hơn một nghìn đồng. Thí nghiệm đã được tiến hành trong văn phòng tôi với một túi vải và một nghìn đồng. Có vẻ thí nghiệm xác nhận là đúng. Tôi đã cho thẩm vấn những nhân viên của những ngân hàng khác nhau ở vùng phụ cận. Ở chi nhánh ngân hàng tín dụng Lyon, người ta nhớ tới một phụ nữ giống với đặc điểm của Léontine Faverges đã nhiều lần đến mua trái phiếu ghi tên. Một trong viên thủ quỹ tên là Duras đã nhận ra bà ta sau khi được xem ảnh.”
“Vậy có thể những trái phiếu đó là những đồng tiền vàng trong căn hộ. Thế mà ông không tìm ra cái gì à?”
“Không, thưa ông chủ tịch. Chúng tôi đương nhiên là tìm kiếm dấu tay trên chiếc lọ, trong các ngăn tủ và gần như khắp mọi chỗ trong căn hộ.”
“Không kết quả gì?”
“Chỉ có vân tay của hai người sống ở đó và vân tay của chàng trai giao hàng mà thời gian biểu đã được xác nhận. Lần giao cuối cùng là sáng ngày hai mươi bảy. Thế mà, theo bác sĩ Paul, người đã tiến hành khám nghiệm tử thi hai lần, tội phạm diễn ra ngày hai mươi bảy tháng hai lại vào khoảng năm giờ đến tám giờ buổi tối.”
“Ông đã thẩm vấn tất cả mọi người trong ngôi nhà?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch. Họ đều khẳng định điều bà gác cửa đã nói với tôi, bà chỉ biết Léontine Faverges không tiếp bất kỳ người đàn ông nào ngoài hai người cháu của bà ta.”
“Ông muốn nói bị cáo, Gaston Meurant và em trai anh ta, Alfred?”
“Theo như bà gác cửa, Gaston Meurant đến thăm bà ta thường xuyên, tháng một hai lần, và lần gần nhất cách đây khoảng ba tuần. Còn người em trai, Alfred Meurant, hiếm khi thấy xuất hiện ở phố Manuel bởi vì bà cô ghét gặp anh ta. Thẩm vấn bà láng giềng cùng hành lang bà Solange Lorris, thợ khâu, tôi biết một trong những khách hàng của bà này đã tới thử quần áo lúc năm giờ rưỡi ngày hai mươi bảy tháng hai, bà này tên là Ernie, sống ở phố Thánh Georges. Bà ta khẳng định lúc mình lên cầu thang, một người đàn ông ra khỏi căn hộ của người chết và khi gặp bà, hắn ta làm ra bộ vui vẻ. Đáng lẽ đi xuống, hắn lại lên tầng ba. Bà ta không nhìn được rõ mặt hắn, vì cầu thang tối quá. Theo bà ta, người đàn ông mặc bộ complet màu xanh nước biển và một áo mưa màu mận có đai lưng.”
“Hãy nói cho chúng tôi biết ông đã tiến hành làm việc với bị cáo như thế nào?”
“Trong khi các nhân viên của tôi và tôi khám xét căn hộ chiều ngày hai mươi tám tháng hai, và chúng tôi bắt đầu hỏi những người cư trú, thì báo chí buổi tối thông báo tội ác và cung cấp một số những tình tiết.”
“Khoan đã, tội ác đã được phát hiện ra thế nào?”
“Trưa hôm đó, ý tôi nói hôm hai mươi tám, bà gác cửa ngạc nhiên không trông thấy bà Léontine cũng chẳng thấy con bé con theo thông lệ, vẫn đi học trường mẫu giáo khu vực. Bà ta lên bấm chuông cửa, không thấy trả lời một lúc sau bà ta lại lên, vẫn không có kết quả, cuối cùng đã gọi điện đến Đồn Cảnh sát. Để báo cho Gaston Meurant, bà ta chỉ biết hắn là thợ đóng khung tranh và sống cạnh nghĩa địa Cha Lachaise. Tôi chẳng cần phải tìm hắn, bởi sáng hôm sau…”
“Tức ngày mồng một tháng ba.”
“Vâng. Sáng hôm sau tôi nói thế, hắn ngẫu nhiên trình diện ở Cảnh sát Quận Chín, nói hắn là cháu nạn nhân, và cảnh sát Quận Chín đã gửi hắn đến cho tôi…”
Ông chủ tịch Bernerie không thuộc những vị thẩm phán ghi ghi chép chép, hoặc trong lúc tiến hành phiên toà, giải quyết văn thư của họ. Ông cũng không lim dim ngủ gật, con mắt ông không ngừng đưa từ nhân chứng sang bị cáo, đôi khi liếc nhanh nhìn các vị bồi thẩm.
“Ông hãy kể lại thật chính xác chừng nào hay chừng ấy cuộc trao đổi đầu tiên của ông với Gaston Meurant.”
“Anh ta mặc một bộ complet màu xám và một áo mưa màu nâu hồng đã cũ. Anh ta tỏ ra xúc động thấy mình trong phòng làm việc của tôi, và tôi thấy hình như vợ anh ta đã giục anh ta đến gặp.”
“Chị ta có đi theo chồng không?”
“Chị ta ở lại ngoài phòng chờ. Một trong những viên thanh tra của tôi đến báo cho tôi biết và tôi đã yêu cầu chị ta vào. Meurant khai anh ta đã đọc báo và Léontine là cô mình, và cùng với em trai mình anh ta, tin rằng mình đại diện cho tất cả gia đình nạn nhân, anh ta tin phải báo cho mọi người biết về mình. Tôi đã hỏi anh ta rằng anh ta giữ những quan hệ ra sao với bà già, và anh ta đã trả lời tôi những quan hệ ấy rất tốt đẹp. Lần nào trả lời tôi anh ta cũng thêm rằng lần đến thăm gần nhất của anh ta tới phố Manuel là vào ngày hai mươi ba tháng giêng. Anh ta không thể cho tôi địa chỉ của người em trai vì đã cắt đứt mọi quan hệ.”
“Vậy ngày mồng một tháng ba, bị cáo đã quả quyết bác bỏ việc có mặt ở phố Manuel ngày hai mươi bảy tháng hai, ngày xảy ra tội ác?”
“Vâng, thưa ông chủ tịch. Thẩm vấn lịch làm việc của anh ta, anh ta nói với tôi, đã làm việc trong xưởng thợ của mình ở phố La Roquette, đúng sáu giờ rưỡi tối hôm ấy. Tiếp đó tôi đến thăm ngay xưởng thợ, cũng như cả cửa hàng. Cửa hàng này, chỉ có một tủ hàng khá hẹp, chồng chất khung ảnh và tranh khắc. Một cái móc có nam châm, đằng sau cửa kính, cho phép móc một cái biển nhỏ ghi chú: “Trường hợp vắng mặt, xin trao đổi ở cuối sân”. Một lối đi nhỏ không sáng sủa mấy dẫn tới xưởng thợ, nơi Meurant chế tác các khung tranh ảnh.”
“Có bà gác cửa không?”
“Không. Ngôi nhà chỉ gồm có hai tầng đi lên bằng cầu thang ngoài sân. Đó là một dinh cơ rất lâu đời, do hai ngôi nhà liền nhau ghép lại.”
Một trong những viên phụ thẩm, mà Maigret không quen, bởi ông ta mới từ tỉnh lên, nhìn thẳng phía trước mặt đám công chúng đến xem với vẻ không nghe thấy gì hết. Một vị khác ngược lại da dẻ hồng hào, tóc bạc, gật gù tán thưởng tất cả những lời khai của Maigret, một số câu có trời biết tại sao nhiều ông lại mỉm cười vẻ hài lòng. Còn các vị bồi thẩm, các vị vẫn ngồi nguyên không nhúc nhích như thể là những nhân vật bằng thạch cao được đắp từ một máng ăn ngày Giáng sinh.
Luật sư của bị cáo, Pierre Duché là một người trẻ tuổi, và đây là vụ án quan trọng đầu tiên của ông ta. Nóng nảy, luôn sẵn sàng chồm lên, thỉnh thoảng lại cúi gằm xuống hồ sơ dày đặc ghi chép của mình.
Có lẽ có thể nói chỉ có Gaston Meurant không quan tâm tới những gì diễn ra xung quanh anh ta, đúng hơn là anh ta tham dự vào cảnh tượng đó như thể nó không liên quan gì tới anh ta. Đó là một người đàn ông khoảng ba mươi tám tuổi, khá to lớn, đôi vai rộng, tóc vàng hung hung quăn, nước da hung đỏ, mắt xanh. Tất cả mọi nhân chứng đều miêu tả anh ta là một người tính tình mềm mại và trầm tĩnh, ít có quan hệ xã hội, thời gian dồn hết vào xưởng thợ ở phố La Roquette và nơi ở của mình ở đại lộ Charonne, và qua những cửa sổ căn hộ này, nhìn thấy hết những tấm bia mộ ở nghĩa địa Cha Lachaise. Anh ta tiêu biểu khá rõ cho mẫu thợ thủ công cô đơn, và nếu có điều gì đó lạ lùng đó chính là người đàn bà anh ta đã chọn.
Ginette Meurant nhỏ bé, gọn gàng, với cái nhìn, sự mềm mại của đôi môi, dáng người khiến người ta nghĩ ngay tới những chuyện ân ái. Kém chồng mười tuổi, chị ta có vẻ còn trẻ hơn tuổi thật của mình, và có thói quen thơ trẻ chớp chớp lông mi với vẻ như chẳng hiểu gì.
“Thời gian biểu, bị cáo cho ông biết từ mười bảy giờ đến hai mươi giờ ngày hai mươi bảy tháng hai như thế nào?”
“Anh ta nói với tôi đã rời xưởng lúc sáu giờ rưỡi tối, tắt đèn cửa hàng, đi bộ trở về nhà như thường lệ. Vợ anh ta không có ở nhà. Chị ta đi xem phim vào buổi năm giờ và thường hay như vậy. Chúng tôi có bằng chứng của người bán vé. Đó là rạp chiếu ở ngoại ô Thánh Antoine, mà chị ta là một khách quen. Khi chị ta trở về, sớm hơn tám giờ một chút người chồng đã dọn bàn ăn, chuẩn bị cho bữa tối.”
“Luôn như thế à?”
“Hình như thế.”
“Bà gác cửa, ở đại lộ Charonne có trông thấy người thuê nhà về nhà không?”
“Bà ta không nhớ, chung cư đó gồm khoảng hai chục căn hộ và lúc gần tối, người đi đi về về rất đông.”
“Ông có nói với bị cáo về cái lọ, những đồng tiền vàng và những trái phiếu không?”
“Không phải hôm đó, mà là hôm sau, ngày mồng hai tháng ba, khi tôi triệu anh ta tới phòng làm việc của tôi. Tôi cũng chỉ vừa mới được bà gác cửa ở phố Manuel nói về số tiền bạc đó.”
“Bị cáo có tỏ ra biết rõ điều đó không?”
“Sau phút ngập ngừng, cuối cùng anh ta cũng đã nói với tôi là có.”
“Người cô có tiết lộ với anh ta không?”
“Một cách gián tiếp. Tôi phải buộc mở ngoặc đơn ở đây. Khoảng năm năm trước đây, trước sự nài nỉ của vợ mình, Gaston Meurant hình như đã bỏ nghề để mua lại ở phố Con đường Xanh, một cửa hàng ăn uống, cà phê.”
“Tại sao ông lại nói “trước sự nài nỉ của vợ mình”?”
“Bởi vì người đàn bà này, khi Meurant quen biết cách đây tám năm vốn là gái hầu bàn trong một tiệm ăn ở ngoại ô Thánh Antoine. Chính vì tới ăn cơm ở đó, mà Meurant đã gặp gỡ chị ta. Anh ta đã lấy chị ta, và theo lời chị ta, chị ta khẩn khoản đòi để chị ta thôi làm việc ở đấy. Meurant cũng chấp nhận. Tham vọng của Ginette Meurant, không phải chỉ trở thành bà chủ một tiệm ăn kiêm cà phê một ngày nào đấy, mà còn đòi chồng mình, nếu có cơ hội…”
“Làm những việc tồi tệ nữa?”
“Vâng. Ngay từ những tháng đầu tiên, Meurant đã buộc phải hỏi cô mình vay tiền.”
“Bà ta có cho vay không?”
“Có! Rất nhiều lần. Cứ theo người cháu, trong chiếc lọ Tàu không những có một túi tiền vàng mà còn một chiếc ví cũ đựng nhiều trái phiếu, giấy bạc nữa. Chính bà ta đã lấy tiền từ chiếc ví giao cho anh ta. Vừa cười, bà ta vừa gọi chiếc lọ là cái két sắt Tàu của mình.”
“Ông đã tìm thấy người em trai của bị cáo, Alfred Meurant?”
“Không phải thời kỳ đó. Tôi chỉ biết, qua hồ sơ của chúng tôi, anh ta sống một cuộc sống bất thường và đã bị kết án hai lần vì tội ma cô.”
“Các nhân chứng có khai nhìn thấy bị cáo trong xưởng thợ buổi chiều xảy ra tội ác, sau năm giờ không?”
“Không thấy vào lúc đó.”
“Theo anh ta, anh ta có mặc bộ complet xanh và chiếc áo mưa màu mận chín không?”
“Không. Bộ complet là bộ mặc hàng ngày, màu xám và một áo choàng gabardine màu nâu hồng nhạt anh ta vẫn thường mặc khi đi làm.”
“Nếu tôi hiểu đúng, không có yếu tố rõ ràng nào cho phép ông khởi tố anh ta.”
“Đúng vậy.”
“Ông có thể nói cho chúng tôi biết, dựa trên cái gì trong những ngày tiếp sau vụ tội phạm, ông lại tiến hành điều tra không?”
“Trước hết, dựa trên quá khứ của nạn nhân, bà Léontine Faverges và về những người đàn ông mà bà ta quen biết. Chúng tôi cũng quan tâm cả tới việc lui tới của mẹ đứa bé, Juliette Perrin, biết rõ trong chiếc lọ tàu đựng gì có thể đã nói chuyện đó với bè bạn.”
“Những khám phá ấy không đem đến điều gì cả?”
“Không. Chúng tôi đã thẩm vấn tất cả cư dân trong khu phố, tất cả những ai đã có thể trông thấy hung thủ đi qua.”
“Không kết quả?”
“Không kết quả.”
“Nghĩa là, tới sáng ngày mồng sáu tháng ba, việc điều tra còn ở điểm chết.”
“Đúng vậy.”
“Sáng ngày mồng sáu tháng ba, chuyện gì đã xảy ra.”
“Tôi đang ở trong phòng làm việc, thì mười giờ tôi nhận được một cú điện thoại.”
“Ai ở đầu dây bên kia?”
“Tôi không biết. Người này không muốn nói tên ra và tôi ra hiệu cho thanh tra Janvier đang đứng cạnh tôi, thử định vị nguồn gọi.”
“Có được không?”
“Không. Cuộc điện đàm quá ngắn. Tôi chỉ nhận ra tiếng treo máy đặc trưng của điện thoại công cộng.”
“Là đàn ông hay đàn bà nói với ông?”
“Đàn ông. Tôi cam đoan hắn nói qua một khăn tay để làm biến giọng đi.”
“Hắn nói với ông điều gì?”
“Nguyên văn: “Nếu ông muốn khám phá hung thủ vụ Manuel, ông hãy yêu cầu Meurant cho ông xem bộ complet xanh, ông sẽ thấy ở đó những vết máu”.”
“Rồi ông đã làm gì?”
“Tôi đi đến chỗ ông dự thẩm. Ông này trao cho tôi lệnh khám nhà. Cùng với thanh tra Janvier, chúng tôi đến đại lộ Charonne lúc mười một giờ rồi lên tầng ba, bấm chuông căn hộ nhà Meurant. Vợ Meurant ra mở cửa cho chúng tôi. Chị ta mặc áo ngủ, đi giày da lừa. Chị ta nói với chúng tôi rằng chồng mình ở xưởng và tôi đã hỏi chị ta rằng chồng chị có một complet màu xanh không. “Hẳn rồi,” chị ta trả lời, “bộ anh ấy mặc ngày chủ nhật”. Tôi yêu cầu được xem căn hộ đủ tiện nghi, duyên dáng, khá vui mắt, nhưng vào giờ này vẫn còn lộn xộn. “Tại sao ông muốn xem bộ complet ấy?”. “Một xác minh đơn giản thôi…”. Tôi theo chị ta vào phòng ngủ, và chị ta lấy ra một bộ complet màu xanh nước biển trong tủ. Tôi cho xem lệnh khám nhà. Bộ complet đã được gói trong một túi đặc biệt tôi mang theo và thanh tra Janvier thu thập những chứng cớ thông lệ. Nửa giờ sau, bộ quần áo đã trong tay các chuyên gia phòng thí nghiệm, tin tức buổi chiều cho tôi biết có vết máu trên ống tay phải và trên lót áo, nhưng tôi phải đợi đến hôm sau mới biết là máu người. Trong khi ấy, từ buổi trưa, tôi cho theo dõi bí mật xung quanh Gaston Meurant và vợ anh ta. Sáng hôm sau, ngày mồng bảy tháng ba, hai người của tôi, thanh tra Janvier và Lapointe, mang theo lệnh dẫn độ, có mặt ở xưởng thợ phố La Roquette và đọc lệnh bắt giữ Gaston Meurant. Anh ta tỏ ra sửng sốt. Anh ta không tỏ ý chống lại nói: “Chắc chắn đây là sự hiểu nhầm”. Tôi đợi anh ta trong phòng làm việc của tôi. Chị vợ, ở phòng bên cạnh tỏ ra nóng nảy hơn anh ta.”
“Ông có thể, không sử dụng những ghi chép, nhắc lại gần đúng cuộc trao đổi giữa ông với bị cáo hôm đó không?”
“Tôi tin là được, thưa ông chủ tịch. Tôi ngồi ở bàn giấy và để anh ta đứng. Thanh tra Janvier đứng bên cạnh anh ta còn thanh tra Lapointe ngồi ghi tốc ký cuộc thẩm vấn. Tôi đang bận ký văn thư và việc đó chiếm mất một số thời gian. Cuối cùng tôi ngẩng đầu nói với anh ta bằng một giọng trách cứ: “Meurant, như thế là không tử tế. Tại sao anh nói dối tôi?”. Tai anh ta đỏ lên, đôi môi mấp máy. “Cho đến nay,” Tôi tiếp tục, “tôi không nghĩ anh như là một kẻ có khả năng phạm tội và cũng không là một kẻ bị tình nghi. Nhưng bây giờ anh muốn tôi nói với tôi ra sao khi tôi biết anh đã đến phố Manuel ngày hai mươi bảy tháng hai? Anh đến đó để làm gì? Vì lý do gì mà anh giấu giếm việc đó?”.”
Ông chủ tịch ngả người về phía trước như để không bị mất điều gì tiếp theo.
“Anh ta trả lời ông ra sao?”
“Anh ta ấp úng, đầu cúi xuống: “Tôi vô tội. Lúc đó họ đã chết cả rồi!””