← Quay lại trang sách

Chương II

Ông chủ tịch bằng một dấu hiệu thận trọng, đáng lẽ phải gọi viên mõ toà bởi vì ông này đang lặng lẽ vòng đi vòng lại chiếc ghế dài của phiên tòa, lại đến ghé tai ông ta, trong khi Duché, viên luật sư trẻ của bên bị, nhợt nhạt và co nhúm lại, đang cố gắng đoán xem đã xảy ra điều gì.

Ông chủ tịch chỉ nói vài lời, và mọi người trong phòng xử theo dõi con mắt của ông ta đang đăm đăm nhìn lên những chiếc cửa sổ trổ trên cao lõng thõng dây kéo.

Những máy điều hoà nóng bỏng. Một thứ hơi nước vô hình, mỗi lúc càng cảm thấy mùi người, toả lên từ hàng trăm thân thể, chen vai thích cánh, từ áo quần ẩm ướt, từ hơi thở.

Viên mõ toà, với bước chân của người coi đồ thánh lễ, tiến lại một cái thừng cố mở một chiếc cửa sổ ra. Cửa không chịu mở. Ông ta làm đi làm lại đến ba lần, cửa vẫn đóng nguyên, những con mắt vẫn theo dõi ông, cuối cùng người ta nghe thấy một tiếng cười cáu kỉnh khi ông quyết định thử mở chiếc cửa sổ tiếp đó.

Do sự cố đó, mọi người trở lại ý thức về thế giới bên ngoài, khi nhìn mưa vỗ lên những ô kính, những đám mây ngoài kia, chợt nghe thấy rõ hơn tiếng phanh hãm của xe hơi và xe buýt. Cũng đúng thời gian chính xác đó, tiếng còi rú của một xe cấp cứu hay xe cảnh sát gì đó, như đánh dấu chấm hết thời gian tạm nghỉ.

Maigret chờ đợi, lo lắng, tập trung tư tưởng. Ông đã nhân thời gian tạm nghỉ liếc mắt nhìn Meurant và trong khi mắt họ chạm nhau, ông tưởng như đọc được lời trách cứ trong đôi mắt xanh của bị cáo.

Đây không phải là lần đầu tiên, tại cái vành gỗ chắn ấy, ông chánh thanh tra cảm thấy một sự nản lòng nào đó. Trong phòng làm việc của ông ở đường bờ sông Orfèvres, ông còn bám được vào thực tế và ngay cả khi ông chỉnh lại báo cáo của mình, ông vẫn có thể tin rằng những lời lẽ của ông gắn với chân lý.

Rồi nhiều tháng trôi qua, đôi khi một năm, nếu không phải hai năm, ông lại thấy mình, một ngày đẹp trời bị nhốt kín trong phòng nhân chứng với những người xưa kia ông đã thẩm vấn và đối với ông họ không còn chỉ là một kỷ niệm nữa. Đúng vẫn những con người đó, gác cửa, khách qua đường, nhà cung cấp đang ngồi trên những chiếc ghế dài của kho đồ thánh lễ, con mắt trống rỗng hay không? Có phải vẫn con người đó, sau ba tháng tù, trong cái ô những bị cáo hay không?

Người ta bất chợt bị đắm chìm vào cái vũ trụ phi nhân hoá, trong đó lời lẽ hàng ngày hình như không còn lưu loát nữa, trong đó những sự việc thường nhật nhất được diễn dịch bằng những công thức bưng bít. Chiếc áo đen của các thẩm phán, nẹp lông chồn trắng, chiếc áo đỏ của ông phó chưởng lý, làm tăng thêm nữa cái cảm giác của cuộc hành lễ có những nghi thức bất di bất dịch trong đó cá nhân chẳng là cái gì.

Tuy nhiên ông chủ tịch Bernerie điều khiển những cuộc tranh cãi bằng sự kiên nhân tối đa và sự tối đa của lòng nhân ái. Ông không ép nhân chứng kết thúc, không ngắt lời khi họ tỏ ra mất tinh thần trong những tình tiết vô tích sự.

Với các vị chánh toà khác chặt chẽ hơn, đôi khi Maigret xiết chặt nắm đấm tức giận và bất lực.

Cả hôm nay nữa, ông biết mình đem lại từ thực tế một ánh xạ vô hồn, giản lược. Tất cả những gì ông vừa nói đều đúng, nhưng nó không làm cho cảm thấy được trọng lượng của sự vật, tỷ trọng của nó, sự run rẩy và mùi vị của nó.

Chẳng hạn, ông thấy có vẻ như những người sắp xét xử Gaston Meurant, cần thiết phải biết được cái quang cảnh căn hộ đại lộ Charonne đúng như ông đã phát hiện. Sự miêu tả của ông, vẻn vẹn vài câu chẳng đáng giá gì. Ngay từ lúc bước chân đến, ông đã bị xúc động bởi môi trường sống của cặp vợ chồng, trong cái ngôi nhà lớn, đầy những bà nội trợ và trẻ con, trông xuống nghĩa địa ấy. Về hình ảnh những gian phòng, sự trần thiết, đồ đạc của họ nó như thế nào ư? Trong phòng ngủ, không thật sự là một cái giường, mà là một loại đi-văng có góc vây quanh bằng những ngăn mà người ta quen gọi là góc ấm cúng.[1] Giường phủ bằng sa tanh màu da cam.

Maigret cố hình dung ra người thợ làm khung, người thợ thủ công bận rộn suốt ngày trong xưởng thợ của mình ở cuối một cái sân, làm việc xong trở về, thấy lại cái môi trường xung quanh nhắc nhở anh ta đến các cửa hàng cửa hiệu: những ánh đèn cũng được rây lọc như ở phố Manuel, những đồ gỗ quá nhẹ, quá hào nhoáng, những màu sắc nhợt nhạt…

Tuy nhiên, chính là những cuốn sách của Meurant người ta tìm thấy trong những ô sách, chỉ toàn những sách mua lại tại các cửa hàng sách cũ hoặc những quầy sách bên bờ sông: Chiến tranh và hoà bình của Tolstoy; mười tám tập đóng liền của Lịch sử chính thế chấp chính và Đế chế, trong một đợt xuất bản cũ cảm thấy giấy đã có mùi mốc, Phu nhân Bovary, một tác phẩm về động vật hoang dã và sát cạnh là cuốn Lịch sử các tôn giáo…

Có thể đoán con người đó tìm cách tự học. Cũng trong gian phòng đó, từng chồng báo tâm tình, những tạp chí in nhiều màu, những chuyên san điện ảnh, những tiểu thuyết bình dân chắc hẳn tạo thành món thức ăn cho Ginette Meurant cũng như những đĩa hát, gần máy quay đĩa chỉ mang những tiêu đề của những ca khúc trữ tình.

Họ xử sự với nhau thế nào, cô nàng và anh ta lúc tối, rồi suốt cả ngày chủ nhật? Họ trao đổi với nhau những lời lẽ gì? Cử chỉ của họ ra sao?

Maigret ý thức được là đã không đưa ra được một ý kiến đúng đắn về Léontine Faverges và căn hộ của bà ta nơi xưa kia các vị quý ông đã có một gia đình, một danh giá, đã có những cuộc viếng thăm bí mật và là nơi để tránh chuyện người này chạm trán với người kia, người ta giấu họ sau những tấm rèm dày.

“Tôi vô tội, lúc ấy họ đã chết rồi…”

Trong phòng xử cũng đầy ắp người như rạp chiếu phim, câu nói đó vang lên như một lời dối trá vô vọng, bởi vì đối với công chúng, những người chỉ biết vụ việc qua báo chí, đối với các viên bồi thẩm chắc cũng vậy thôi, Gaston là kẻ giết người không run tay với cả một bé gái mới đầu định bóp cổ, nhưng rồi, nôn nóng vì con bé lâu chết quá, đã làm nó chết ngạt bằng những chiếc gối lụa.

Đã sắp tới mười một giờ sáng, nhưng những người ở đây có còn chú ý đến giờ giấc hay ngay cả đời riêng của họ nữa không? Trong số những bồi thẩm, có một nhà buôn chim ở đường bờ sông Mégisserie, và một nhà thầu nhỏ đồ chì, bản thân làm việc cùng với hai công nhân.

Trong họ có ai đã lấy một người vợ giống như Ginette Meurant, và tối tối cũng đọc sách như bị cáo không?

“Tiếp tục đi, ông chánh thanh tra.”

“Tôi đã hỏi anh ta việc sử dụng chính xác thời gian của mình vào buổi chiều hai mươi bảy tháng hai. Lúc hai giờ, như thường lệ, anh ta mở cửa hàng và treo sau cánh cửa tấm biển nhỏ yêu cầu trao đổi ở xưởng thợ. Anh ta đến xưởng và đã làm được nhiều khung. Đến bốn giờ, anh ta thắp đèn và quay lại cửa hàng để bật điện sáng tủ hàng, vẫn theo anh ta ở trong xưởng thợ, đến quãng gần sáu giờ thì nghe thấy tiếng bước chân ngoài sân, có người gõ lên cửa kính. Đó là một ông già, anh ta chưa bao giờ gặp. Ông ta tìm một khung dẹt, kiểu dáng lãng mạn, khổ 40x50cm cho một bức tranh thuốc nước Italy vừa mua. Meurant cho ông ta xem một mớ khổ khác nhau. Sau khi hỏi giá, ông già đã đi mất.”

“Có tìm thấy nhân chứng đó không?”

“Có, thưa ông chủ tịch. Ba tuần sau mới thấy. Đó là một người có tên Germain Lombras, giáo sư piano, sống ở phố Picpus.”

“Ông có tự mình thẩm vấn ông ta không?”

“Có. Ông ta khẳng định, một buổi tối, khoảng gần tám giờ ông ta đã đến xưởng của Meurant. Ông ta tình cờ đi qua trước cửa hàng, và hôm trước, ông ta đã mua được một bức tranh phong cảnh Napoli tại một nhà buôn đồ cũ.”

“Ông ta có nói bị cáo ăn mặc thế nào không?”

“Hình như Meurant mặc một chiếc quần màu xám dưới một áo khoác lao động bằng vải thô và không đeo cravat.”

Công tố viên Aillevard ngồi ghế công tố, theo dõi sự trình bày của Maigret theo hồ sơ mở ra trước mặt, có ý yêu cầu được nói, ông chánh thanh tra vội nói thêm:

“Không thể đủ bằng chứng xác định cảnh đó diễn ra vào thứ ba hoặc thứ tư nghĩa là hai mươi sáu hay hai mươi bảy tháng hai.”

Đến lượt bên bị bào chữa. Viên luật sư trẻ, mà mọi người đều thấy ở con người này một tương lai sáng chói, đại thể, đã tỏ ra như thế trong vụ án này. Ông ta với bất cứ giá nào phải tỏ ra là một người tin chắc vào bản thân và vào lý lẽ ông ta bảo vệ và cố gắng kiềm chế giữ vững hai bàn tay đang phản bội mình.

Maigret tiếp tục bằng một giọng vô tư:

“Bị cáo một mực nói rằng sau khi ông khách hàng già đi khỏi, anh ta đã đóng cửa xưởng, rồi đóng cửa hàng đi về bến xe buýt.”

“Điều đó xác định anh ta khởi hành đến các miền xung quanh lúc sáu giờ rưỡi?”

“Gần như vậy. Anh ta xuống xe buýt ở phố Martyrs và đi về phố Manuel.”

“Anh ta có một ý định đặc biệt nào khi tới thăm cô mình không?”

“Đầu tiên, anh ta khai là không, rằng đó chỉ là cuộc thăm viếng thông thường như anh ta có lệ ít nhất mỗi tháng một lần, thế nhưng hôm sau, khi chúng tôi phát hiện ra chuyện tấm hối phiếu không thanh toán, anh ta phản cung.”

“Ông hãy nói về tấm hối phiếu đó.”

“Ngày hai mươi tám, Meurant phải trả một hối phiếu khá quan trọng, đã bị cự tuyệt từ tháng trước. Anh ta không đủ tiền.”

“Hối phiếu đó có đây không?”

“Có.”

“Nó đã được thanh toán?”

“Không.”

Phó chưởng lý bằng một động tác tựa như quét sạch đi cái bằng chứng thiên vị Meurant, còn Pierre Duché lại quay về phía bồi thẩm đoàn như lấy đó làm chứng cứ.

Sự việc cũng làm Maigret day dứt. Nếu bị cáo sau khi cắt họng cô mình và bóp chết con bé Cécile Perrin đã cuỗm những đồng tiền vàng và những giấy bạc giấu trong cái lọ Tàu, thêm nữa, đã chiếm đoạt những trái phiếu, thì vì lý do gì, trong khi anh ta còn chưa bị tình nghi, anh ta có thể nghĩ sẽ không bao giờ như thế nữa lại không thanh toán hối phiếu, phó mặc để bị quy tội vỡ nợ như thế?

“Các thanh tra của tôi đã tính toán thời gian anh ta phải đi từ phố La Roquette đến phố Manuel. Bằng xe buýt, vào giờ đó, mất độ nửa giờ, bằng taxi, hai mươi phút là đủ. Một cuộc điều tra những người lái taxi không đem lại điều gì, cũng không hơn gì theo những người lái xe buýt. Không ai nhớ được Meurant. Theo những lời cung kế tiếp và anh ta đã ký, anh ta đến phố Manuel lúc bảy giờ kém mười lăm. Anh ta không gặp ai trong cầu thang, cũng không thấy bà gác cửa. Anh ta gõ cửa nhà cô mình, ngạc nhiên thấy không ai trả lời và nhận ra chìa khoá vẫn cắm trong ổ khoá. Anh ta vào thấy mình đứng trước cảnh tượng đã miêu tả.”

“Đèn vẫn còn thắp sáng cả?”

“Chiếc đèn lớn ở chân bộ sa lông, có chảo đèn màu cá hồi thôi. Meurant tin là có đèn trong các phòng khác, nhưng đó là một cảm giác thì đúng hơn, bởi vì anh ta không vào các phòng đó.”

“Anh ta giải thích việc xử sự của mình thế nào? Tại sao anh ta không gọi thầy thuốc, báo cảnh sát?”

“Bởi sợ bị kết tội. Anh ta thấy một ngăn kéo bàn giấy kiểu Louis XV mở và đã đóng lại. Cũng vậy, anh ta cắm lại vào chiếc lọ Tàu những bông hoa giả, nằm dưới sàn. Lúc đi khỏi, anh ta tự nhủ, làm như vậy, có thể mình đã để lại vân tay và anh ta đã lau sạch bàn và cái lọ bằng chiếc khăn tay của mình. Anh ta cũng lau sạch nắm đấm cửa, và trước khi bước xuống cầu thang, anh ta mang theo cái chìa khoá.”

“Anh ta làm gì với cái khoá.”

“Anh ta ném xuống một cái cống.”

“Anh ta về nhà thế nào?”

“Bằng xe buýt, tuyến đi về đại lộ Charonne, qua những phố ít trở ngại hơn và hình như về đến nhà bảy giờ ba nhăm.”

“Chị vợ không ở nhà?”

“Không. Như tôi đã nói, chị ta đến rạp chiếu bóng khu vực xem phim buổi năm giờ. Chị ta rất hay đi xem phim, hầu như hàng ngày. Năm người bán vé nhìn ảnh đều nhớ ra chị ta. Meurant, trong khi đợi vợ đã hâm lại món xúp giò và đậu xanh còn thừa, rồi anh ta dọn thìa nĩa ra bàn ăn chờ vợ. “

“Điều đó có xảy ra thường xuyên không?”

“Rất thường xuyên.”

Mặc dầu quay lưng lại công chúng, nhưng Maigret có cảm giác mọi người, nhất là các bà đang cười.

“Ông đã hỏi cung bị cáo bao nhiêu lần?”

“Năm lần, mà một lần mất mười một tiếng. Vì không còn gì thay đổi trong những lời cung của anh ta, tôi đã chỉnh lý lại báo cáo của tôi, mà tôi đã chuyển cho ông dự thẩm, và từ đó, tôi không có dịp nào gặp lại anh ta nữa.”

“Khi đã bị tống giam, anh ta không viết cho ông?”

“Có. Bức thư đó đã cho vào hồ sơ. Anh ta, một lần nữa khẳng định với tôi, anh ta vô tội, và yêu cầu tôi canh chừng vợ anh ta.”

Maigret tránh cái nhìn của Meurant, lúc này đang khẽ cựa quậy.

“Anh ta không nói với ông, anh ta ngụ ý điều gì, cũng không phải anh ta sợ cho vợ mình?”

“Không, thưa ông chủ tịch.”

“Ông có tìm thấy người em trai không?”

“Mười lăm ngày sau tội ác ở phố Manuel, tức là đúng ngày mười bốn tháng ba.”

“Ở Paris à?”

“Ở Toulon, không có hộ khẩu cố định ở đó, thời gian rõ ràng nhất của anh ta, là thường xuyên di chuyển dọc bờ biển, lúc đến Marseille, lúc thì đến Nice và Menton. Thoạt tiên anh ta được cảnh sát điều tra Toulon cho biết, do uỷ thác điều tra. Rồi bị triệu đến văn phòng của tôi, anh ta đến, không cả đòi phí đi đường được ứng trước. Theo anh ta, từ tháng Giêng, anh ta không hề đặt chân đến Paris và còn cung cấp tên của ba nhân chứng, anh ta đã chơi bài với họ ở Bandol ngày hai mươi bảy tháng hai. Các nhân chứng này đều đồng ý như vậy. Họ cũng thuộc cùng môi trường với Alfred Meurant, nghĩa là môi trường được chăng hay chớ.”

“Ông chuyển báo cáo của ông cho ông dự thẩm ngày nào?”

“Báo cáo hoàn tất, cũng như những lời cung khác nhau đã được bị cáo ký, đã được chuyển giao ngày hai mươi tám tháng ba.”

Người ta đang đi đến khoảnh khắc tế nhị. Nội trong những người giữ một vai trò quan trọng, chỉ có ba người biết điều đó. Trước hết là ông công tố viên Justine Aillevard, người mà hôm trước, lúc năm giờ, Maigret đã đến thăm ở Viện Công tố. Rồi, ngoài bản thân ông chánh thanh tra, ông chủ tịch Bernerie, cũng được ông phó chưởng lý cho biết rõ hôm qua, chậm hơn vào buổi tối.

Nhưng cũng còn có những người khác nữa mà công chứng không ngờ tới, cũng đang đợi chờ khoảnh khắc đó, là năm viên thanh tra mà Maigret đã chọn trong số ít quen thuộc nhất, những người thuộc đội chống tệ nạn xã hội thường được gọi là Đội Thời lưu.

Từ lúc khai mạc phiên toà, họ đã ở trong phòng, lẫn vào quần chúng, ở những điểm chiến lược, quan sát các bộ mặt, theo dõi các phản ứng.

“Vậy, ông chánh thanh tra, cuộc điều tra của ông đã chính thức kết thúc ngày hai mươi tám tháng ba.”

“Đúng vậy.”

“Từ ngày hôm ấy, tuy nhiên ông vẫn quan tâm đến các sự kiện và hành động của những người có liên hệ gần hoặc xa với bị cáo?”

Luật sư bên bị đứng phắt lên chuẩn bị phản đối. Chắc chắn ông ta sẽ nói người ta không có quyền mớm các sự kiện không ghi trong hồ sơ, chống lại khách hàng của mình.

“Yên tâm, ông luật sư.” Ông chủ tịch bảo ông ta. “Ông sẽ thấy ngay thôi, nếu tôi sử dụng những quyền lực chuyên đoán của tôi để mở ra một sự phát hiện bất ngờ của vụ án, không phải vì mục đích làm nặng tội thêm bị cáo.”

Ông phó chưởng lý nhìn ông thầy cãi trẻ tuổi với nét châm biếm hơi có chút kẻ cả.

“Tôi nhắc lại câu hỏi của tôi, rốt cuộc, ông chánh thanh tra Maigret có hay không, tiếp tục cuộc điều tra của mình một cách chính thức?”

“Có, thưa ông chủ tịch.”

“Theo lệnh của thủ trưởng của ông à?”

“Thoả thuận với ông Giám đốc cảnh sát điều tra.”

“Ông có cho Viện Công tố biết không?”

“Mới chỉ hôm qua thôi, thưa ông chủ tịch.”

“Ông dự thẩm có biết ông tiếp tục quan tâm đến vụ án này không?”

“Tình cờ tôi nói với ông ấy thôi.”

“Thế nhưng, ông lại không hành động theo chỉ thị của ông ấy cũng không theo chỉ thị của ông Tổng chưởng lý?”

“Không, thưa ông chủ tịch.”

“Việc này cần thiết phải được làm rõ. Chính vì vậy mà tôi đã coi về mặt công quyền, cuộc điều tra ấy như một loại phụ lục gì đó. Vì lý do nào, thưa ông chánh thanh tra, ông đã tiếp tục sử dụng các thanh tra viên của ông vào những việc khám phá mà sự đình hoãn trước toà Đại hình bởi phòng công tố, không trở nên cần thiết nữa?”

Mức độ yên tĩnh trong phòng xử đã thay đổi. Không còn nghe thấy tiếng ho khẽ và không chiếc đế giày nào nhúc nhích trên sàn.

“Tôi không thoả mãn với những kết quả đã thu được” Maigret cấm cảu nói.

Không thể nói trong lòng ông ta thế nào. Động từ thoả mãn chỉ diễn tả một cách không đầy đủ tư tưởng của ông. Những sự kiện, theo linh khiếu của ông, không gắn kết với các nhân vật. Làm sao cắt nghĩa được điều đó trong khung cảnh tôn nghiêm của phiên toà Đại hình, nơi người ta chỉ yêu cầu ông những lời lẽ chính xác?

Ông chủ tịch cũng có một kinh nghiệm lâu đời như ông, thậm chí còn lâu hơn về những vụ hình sự. Tối tối, ông ta đem về những hồ sơ để nghiên cứu trong nhà mình ở đại lộ Saint-Germain, ánh đèn trong phòng làm việc của ông thường sáng đến tận hai giờ sáng. Ông đã thấy diễn ra trong ô bị cáo và ở vành móng ngựa, những người đàn ông và đàn bà đủ loại. Sự tiếp xúc của ông với đời, tuy nhiên vẫn không đúng nguyên tắc chăng? Bản thân ông không đi đến xưởng thợ phố La Roquette, cũng không đến căn hộ lạ lùng ở đại lộ Charonne. Ông không biết tới sự đông đúc của những chung cư đó, cũng chẳng biết sự đông đúc của những phố đông dân, những quán rượu, những vũ trường, khu phố.

Người ta dẫn đến cho ông những bị cáo, giữa hai cảnh binh và những gì ông biết về họ, ông đều khám phá trong những trang hồ sơ. Những sự kiện. Những lời lẽ. Những câu chữ. Nhưng quanh đó là gì?

Các ông phụ thẩm cũng trong trường hợp đó. Phó chưởng lý cũng vậy. Ngay cả phẩm cách những chức vụ của họ cũng cô lập họ với thế giới còn lại, trong đó họ hợp thành một cù lao riêng rẽ.

Trong số những bồi thẩm, trong số những khán giả, một số nào đó biết đâu lại khá hơn đến mức hiểu được tính cách của Meurant, nhưng những người đó không biết nói đúng chương mục, hoặc không biết gì về bộ máy phức tạp của công lý. Maigret, bản thân ông, chẳng phải đồng thời ở hai phía thanh chắn sao?

“Trước khi để ông tiếp tục, ông chánh thanh tra ạ, tôi muốn ông nói cho chúng tôi biết kết quả phân tích vết máu thế nào. Tôi nói máu tìm thấy trên bộ complet xanh của bị cáo ấy.”

“Đó là máu người. Những phân tích tỉ mỉ của phòng thí nghiệm tiếp đó đã chỉ ra máu đó và máu nạn nhân biểu hiện một số đầy đủ những đặc trưng giống nhau, để có thể tin chắc một cách khoa học rằng người ta đang đứng trước cùng một thứ máu.”

“Mặc dầu như vậy, ông vẫn tiếp tục cuộc điều tra của ông?”

“Phần nào chính vì điều đó, thưa ông chủ tịch.”

Viên luật sư trẻ, đang chuẩn bị chống lại những lời trình bày của Maigret, không tin vào tai mình nữa, lo âu, trong khi đó ông chánh thanh tra vẫn tiếp tục gầm gừ:

“Nhân chứng trông thấy một người đàn ông mặc complet xanh và áo mưa màu mận chín lúc năm giờ ra khỏi căn hộ Léontine Faverges là rõ ràng về giờ giấc. Giờ đó, vả lại cũng đã được một nhà buôn khu phố đó khẳng định, và cái bà kia đã đến nhà ông ta trước khi đi đến phố Manuel tới nhà bà thợ khâu. Nếu như người ta chấp nhận chứng cứ giáo sư Lombras, dẫu ông này không chắc lắm ngày mình đến thăm phố La Roquette thì bị cáo vẫn còn trong xưởng thợ của mình với chiếc quần xám lúc sáu giờ. Chúng tôi đã tính toán thời gian cần thiết để đi từ xưởng thợ về căn hộ ở đại lộ Charonne, rồi lại thời gian để thay quần áo và cuối cùng để đi đến phố Manuel. Việc đó diễn ra, ít nhất cũng phải mất năm nhăm phút. Sự việc tấm hối phiếu chưa được thanh toán ngày hôm sau cũng không phải không khiến tôi chú ý.”

“Vậy là ông quan tâm tới Alfred Meurant, em trai của bị cáo?”

“Vâng, thưa ông chủ tịch, đồng thời, các cộng tác viên của tôi và tôi bắt tay vào những cuộc tìm kiếm khác.”

“Trước khi cho phép ông đưa ra kết luận về việc đó, tôi cần phải tin chắc những cuộc tìm kiếm đó phải liên quan chặt chẽ đến công việc đang tiến hành.”

“Nó có liên quan đó, thưa ông chủ tịch. Trong nhiều tuần lễ, những thanh tra của đội quản lý các khách sạn, nhà trọ đã đưa ra một số bức ảnh trong số đông nhà chứa ở Paris.”

“Những bức ảnh nào?”

Tiếng cười ồ lên trong phòng xử. Ông chủ tịch đưa mắt nhìn. Yên lặng trở lại, Maigret lau mồ hôi trán, vướng víu vì chiếc mũ vẫn luôn trên tay.

“Sự theo dõi đó, dù đứt quãng” Ông chánh án hỏi, không phải không có chút hài hước “phải chăng là kết quả của bức thư mà bị cáo từ trong tù đã gửi cho ông và phải chăng với mục đích bảo vệ vợ mình?”

“Tôi không cho là như thế.”

“Nếu tôi hiểu đúng, ông tìm cách phát hiện ra những nơi chị ta thường lui tới?”

“Trước hết, tôi muốn biết liệu đôi khi chị ta có vụng trộm gặp gỡ em chồng không. Rồi, không thu được kết quả tích cực, tôi liền tự hỏi chị ta đi lại với ai, và chị ta dùng thời gian của mình vào việc gì.”

“Một câu hỏi nữa, ông chánh thanh tra. Ông đã được nghe Ginette trả lời ở cảnh sát điều tra. Chị ta đã khai với ông, nếu tôi nhớ đúng, chị ta trở về nhà ngày hai mươi bảy tháng hai, vào lúc tám giờ tối và đã thấy bữa tối được chuẩn bị sẵn sàng. Chị ta có nói với ông chồng mình mặc bộ complet nào không?”

“Một chiếc quần màu xám. Không mặc veston.”

“Và sau bữa điểm tâm sáng, khi anh ta rời vợ mình?”

“Mặc bộ complet màu xám.”

“Mấy giờ thì chị ta rời khỏi căn hộ ở đại lộ Charonne?”

“Khoảng bốn giờ.”

“Tức là Meurant có thể về thay quần áo, tiếp đó lại ra đi, rồi lại trở về, lại thay quần áo mà chị ta không biết gì?”

“Thực tế là có thể như vậy.”

“Ta hãy trở lại việc bổ sung điều tra ông đã tiến hành.”

“Việc theo dõi Ginette Meurant không đem lại điều gì. Từ khi chồng bị tống giam, phần lớn thời gian, chị ta ở nhà, chỉ ra ngoài đi chợ, thăm tù, và hai ba lần một tuần, xem phim. Việc theo dõi này, như tôi đã nói, không liên tục, mà chỉ thỉnh thoảng. Những kết quả của nó không khẳng định ít hơn những điều mà những người hàng xóm và những người bán hàng chợ cho chị ta nói với chúng tôi. Hôm kia, tôi đi nghỉ hè về, và tôi thấy một báo cáo trên bàn giấy tôi. Có lẽ nên giải thích thì tốt hơn rằng ở cơ quan cảnh sát, người ta không bao giờ quên để mắt hoàn toàn tới một vụ việc, khiến cho một việc bắt giữ đôi khi lại xảy ra tình cờ, hai ba năm sau tội ác hoặc vụ phạm tội.”

“Nói một cách khác, trong những tháng gần đây, người ta không tiến hành những việc khám phá có hệ thống, về những việc làm và hành động của Ginette Meurant?”

“Đúng vậy. Những thanh tra nhà trọ và thanh tra chống tệ nạn xã hội, cũng như những thanh tra của tôi không có gì hơn ngoài tấm ảnh của chị ta trong túi, người em chồng cũng vậy. Có cơ hội họ lại đưa ra. Thế là ngày hai mươi sáu tháng chín, một nhân chứng nhận ra tấm ảnh người thiếu phụ này là ảnh một trong những nữ khách hàng đều đặn của mình.”

Meurant lại cựa quậy, và lần này chính ông chủ tịch nghiêm khắc nhìn anh ta. Trong phòng xử, ai đó phản đối, chắc hẳn là Ginette Meurant.

“Nhân chứng đó là Nicolas Cajou, quản lý một nhà chứa ở phố Victor-Massé, ở gần ngay Quảng trường Pigalle. Thường lệ, ông ta ở trong văn phòng của nhà hàng của ông ta, và qua cửa kính, theo dõi những cô gái đi đi đến đến.”

“Ông ta không bị thẩm vấn cuối tháng ba hoặc tháng tư, như các chủ chứa khác?”

“Lúc đó ông ta ở bệnh viện để mổ, và người em dâu thay thế ông ta, tiếp đó, ông ta trải qua ba tháng phục hồi sức khoẻ ở Morvan, quê ông ta, và chỉ đến tận cuối tháng chín, một nhân viên của đội quản lý các nhà trọ mới tình cờ cho ông ta xem bức ảnh.”

“Bức ảnh của Ginette Meurant?”

“Vâng, chợt nhìn, ông ta đã nhận ra ngay, và nói, cho tới khi ông ta đi nằm viện, chị ta đến cùng một người đàn ông mà ông ta không biết. Một cô hầu phòng, Geneviève Lavancher, cũng nhận ra bức ảnh.”

Tại bàn các nhà báo, người ta nhìn nhau, rồi nhìn ông chánh án với vẻ ngạc nhiên.

“Tôi cho rằng người bạn trai mà ông vừa bóng gió nói tới không phải là Alfred Meurant.”

“Không, thưa ông chủ tịch. Hôm qua, trong văn phòng tôi, tôi đã cho gọi Nicolas Cajou và chị hầu phòng, tôi đã chỉ cho họ xem những thẻ trắc định nhận dạng cốt để tự khẳng định rằng người bạn trai của Ginette Meurant không thuộc trong số người quen thuộc của chúng tôi. Người đàn ông tầm vóc nhỏ, mập mạp, tóc nâu sẫm, hắn ta ăn mặc cầu kỳ, ngón tay đeo một chiếc nhẫn mặt đá màu vàng, tuổi chừng ba mươi và hút thuốc lá Mỹ, hết điếu này sang điếu khác, đến nỗi sau mỗi lần tới phố Victor-Massé, người ta thấy đầy gạt tàn những đầu thuốc, một vài đầu thuốc có dấu son môi. Thực tế, tôi không đủ thời gian để tiến hành một cuộc điều tra sâu sắc trước khi có bản cáo trạng. Nicolas Cajou vào viện ngày hai mươi sáu tháng hai. Ngày hai mươi lăm, ông ta còn trong văn phòng khách sạn và ông ta khẳng định ngày hôm đó, ông ta đã nhận cho đôi ấy thuê phòng.”

Một xoáy lốc bùng lên trong phòng xử, ông chủ tịch cao giọng, điều này ít khi xảy ra với ông, ông tuyên bố:

“Trật tự, nếu không tôi giải tán.”

Một giọng nói phụ nữ cố cất lên:

“Thưa ông chủ tịch, tôi…”

“Im lặng!”

Còn bị cáo, hai hàm nghiến chặt, anh ta nhìn Maigret căm hận.

[1] Cosy corner: đi-văng có kệ đặt ở góc tường.