Chương 5 Lừa gạt lẫn nhau
Làn gió nhẹ phe phẩy qua mặt nước, sóng chậm rãi gợn lăn tăn từng lớp, mang theo một cánh hoa rơi, không biết sẽ trôi dạt đến ngóc ngách nào. Giống như thời gian thấm thoắt thoi đưa, chẳng có cách nào níu giữ nổi.
Thợ ngọc Trương Nhị Bảo nhìn bụi đường bay tung qua song cửa với vẻ buồn chán tột cùng, nghĩ đến vị công tử trẻ tuổi ăn mặc sang trọng vừa phi ngựa rời đi đó, không khỏi nổi cơn tò mò, hỏi chưởng quỹ Tào Phương Thạc ngồi bên cạnh đang không ngớt thở dài trước một chiếc vòng ngọc: “Đó là Ngụy vương điện hạ ạ? Khí thế ngút trời thật!”
“Chính là Ngụy vương đấy! Gần đây Ngụy vương cực kỳ nổi trội, vừa viết sách vừa đi sứ.” Tào Phương Thạc đặt vòng ngọc xuống, chỉnh lại chiếc mũ phốc đầu màu đen đang đội, “Từ năm ngoái, trong kinh thường có tin đồn rằng thái tử thất đức, Ngụy vương sắp lên thay.”
“Chuyện cũ rích rồi. Không biết lần này rốt cuộc hươu chết về tay ai nhỉ?” Trương Nhị Bảo bị câu nói này khơi lên hứng buôn chuyện, “Nhưng không phải vẫn còn Ngô vương sao? Ngô vương lần lữa không rời kinh, lại khuấy cho vũng nước này càng thêm đục. Có điều mấy năm nay y nhậm chức ở Đại Lý tự, được tiếng tốt lắm!”
Tào Phương Thạc mỉm cười cầm chiếc quạt lông bên cạnh lên: “Danh bất chính ngôn bất thuận, Ngô vương có tốt đến mấy cũng đâu ích gì?” Trương Nhị Bảo càng thêm hào hứng, sán lại gần Tào Phương Thạc để nghe ông ta tỉ tê nói chuyện.
Thư phòng trong phủ Ngô vương được cả lùm thông bao quanh, đông ấm hè mát, vô cùng thích hợp cho người ở. Ngoài ra, từ nhỏ Lý Khác đã rất thích sưu tầm sách cổ các triều, vì vậy bày biện trong thư phòng đều phỏng theo phong cách thời Tây Chu, trông mộc mạc cổ kính bề thế, thành một vẻ riêng biệt.
Hôm nay Lý Khác dậy rất sớm, ở trong thư phòng vẽ tranh suốt hai canh giờ. Lý Khác lần lượt bày hết các loại thuốc màu lên bàn, sau khi dùng hai thanh chặn giấy đè phẳng tờ giấy trắng xong xuôi, y liền nhúng bút vào nước cỏ thiến [*] đã pha sẵn, nhanh chóng vẽ vài nét vào chính giữa. Hoa mẫu đơn màu cánh sen diễm lệ đẹp tươi, lại phảng phất mấy phần thanh cao trong sạch. Khóe miệng Lý Khác hơi hé nụ cười, y giơ tay chậm rãi vẽ năm đóa hoa lớn nhỏ khác nhau ở xung quanh, sau đó nhúng bút vào nước rửa sạch rồi lại nhấc lên vẽ nhụy hoa mẫu đơn.
Lá hoa không được dùng màu xanh quá đậm, hai màu tranh thắm, khách lấn át chủ, như thế sẽ khó lòng tôn lên nét đẹp của mẫu đơn, khó tránh lộ ra tục khí. Lý Khác ngẫm nghĩ, bèn pha thêm chút mực đen vào trong thuốc nhuộm màu xanh nước hồ, tuy màu tối hẳn đi, nhưng trông không chói như trước mà lại dịu mắt hơn nhiều. Những chiếc lá xanh bao quanh sáu đóa mẫu đơn đỏ, lặng lẽ tôn lên vẻ trang nhã cao quý của chúng. Lý Khác gác bút vẽ sang một bên, lấy một cây bút khác từ giá treo bút xuống, đứng dậy, suy nghĩ trong chốc lát, rồi thuận tay đề một bài thơ nhỏ bằng thể chữ tiểu triện lên góc trên bên phải bức tranh:
[*] - Rễ dùng làm thuốc hoặc nhuộm đỏ.
Khắp vườn cỏ thơm héo, nàng mới nhả hương ra.
Ngỡ từ trên trời xuống, nét nghiêng thành trong hoa.
Phú quý phong lưu lắm, rực rỡ vẻ kiêu sa.
Ngoảnh lại tự buồn bã, tiếc ngày xuân chóng qua.
Viết xong, y liền lấy ra một con dấu riêng trong hộp gấm nhỏ ở bên cạnh, quệt vào mực dấu rồi đóng lên bức tranh.
Quản gia Vũ Lương của vương phủ vẫn đứng bên cạnh đọc một xấp thiệp mời trong tay: “Mùng tám tháng Sáu, đại thọ năm mươi của Tương Dương trưởng công chúa. Ngày hai mươi sáu tháng Sáu, em trai của Hàn vương phi lấy vợ. Ngày hai mươi tháng Bảy, Cao Dương công chúa xuất giá. Ngày mùng hai tháng Tám, đầy tháng cháu nội nhà Uất Trì tướng quân..”
Mấy năm nay, phần lớn triều thần đã nhìn ra Lý Thế Dân rất coi trọng Lý Khác, nên đều có ý muốn kết giao với y. Đối với việc này Lý Khác chẳng mặn mà gì. Y vừa dọn dẹp bút vẽ vừa nói: “Sao mà nhiều thế? Còn nữa không?”
Vũ Lương đếm một lượt rồi mới nói: “Vẫn còn sáu tấm, đều là hai tháng tới. Điện hạ, đây không phải hoàng thân thì cũng là trọng thần, ngài không thể không đi!”
“Ai bảo là không đi? Đi hết!” Lý Khác buộc chặt cuộn tranh đã khô bằng dây tơ đỏ rồi đặt vào trong bình sứ men lam trước mặt, “Ngươi đi chuẩn bị quà giúp ta! Đặt tất cả thiệp mời xuống đây, đợi lát nữa ta viết thiệp trả lời xong thì ngươi đi gửi lại lần lượt”
“Tam đệ chớ quên tháng sau là đầy năm Thủ Quy nhà chúng tôi đó!” Vũ Lương đang vâng dạ thì nghe thấy một tràng cười sang sảng từ bên ngoài vẳng tới, Tiêu Nhuệ sải bước đi vào. Đầu đội mũ vàng ngọc tía, khuôn mặt gầy gò, đôi mắt sâu sáng lấp lánh dưới hàng lông mày rậm, sống mũi cao thẳng, khiến cả người gã trông tràn đầy sức sống.
Lý Khác trông thấy gã, vội vàng đứng dậy đón: “Chẳng phải mấy hôm nay Nhuệ ca rất bận sao? Vẫn có thời gian đích thân đến đây à?”
Tiêu Nhuệ nâng tấm thiệp bằng cả hai tay, đưa đến trước mặt Lý Khác: “Gửi Ngô vương điện hạ tấm thiệp này, bận mấy cũng phải đến chứ nhỉ?”
“Vậy thì đa tạ Tiêu thiếu khanh. Lý Khác mỉm cười nhận lấy tấm thiệp, “Em nhất định sẽ chuẩn bị kỹ càng quà cho cháu trai em!”
Tiêu Nhuệ vén áo ngồi xuống, nhìn vào đôi mắt sâu thẳm lấp lánh của Lý Khác, cảm khái nói: “Đã hơn bốn năm rồi, tam đệ vẫn không định lấy vợ sao? Hôm qua bệ hạ còn than phiền với tôi rằng, chẳng hiểu rốt cuộc tam đệ muốn một vương phi như thế nào nữa. Có điều ngài cũng bảo sẽ không ép tam đệ. Ngài chiều tam đệ lắm đấy. Thực ra Tô cô nương mà thái tử giới thiệu cho tam đệ trông được mà, lại si tình với tam đệ, lẽ nào tam đệ không cân nhắc thật ư?”
Lý Khác cười: “Biểu huynh không ở đây thì lại đến lượt Nhuệ ca lải nhải bên tai em. Được rồi, nếu em gặp được cô nương tốt, nhất định sẽ nói với các vị ngay, đến hôm đó sẽ mời các vị uống rượu mừng!”
“Tính ra Giang Hạ vương thúc với Trinh Khanh hộ tống Văn Thành công chúa chắc cũng đến Thổ Phồn rồi, độ nửa tháng một tháng nữa sẽ về.” Tiêu Nhuệ cầm chiếc quạt hương bồ bên cạnh lên phe phẩy.
Mùi đàn hương từ từ theo gió lan tỏa trong không khí, Lý Khác thở dài thườn thượt, chậm rãi nói: “Tuyết Nhạn muội muội vẫn còn nhỏ tuổi, từ bé lại được nuôi nấng trong vương phủ, bỗng một ngày bị gả đến đất man hoang xa xôi, dù chồng là vua một nước, suy cho cùng vẫn đáng thương.”
Tiêu Nhuệ nghĩ một chút rồi lắc đầu nói: “Tam đệ là Ngô vương, là người con mà bệ hạ coi trọng, những lời này đáng lẽ không nên phát ra từ miệng tam đệ.”
“Đương nhiên em biết đó là sắp xếp tốt nhất!” Lý Khác vung cánh tay nói, “Nhuệ ca cứ coi như không nghe thấy là được. Có muốn ra ngoài đi dạo cùng em không, hiếm khi được ngày trời đẹp như hôm nay!”
“Không được đâu! Hồi sáng ra khỏi cửa, tôi đã hứa trưa sẽ về phủ ăn cơm cùng công chúa rồi.” Tiêu Nhuệ ném chiếc quạt hương bồ cho Lý Khác nói, “Hơn nữa, gần đây tôi có đứa cháu gái nhỏ sống ở trong phủ, phải chăm sóc cẩn thận, kẻo cha tôi giận mất.”
Lý Khác thừa biết tình cảm của Tiêu Nhuệ và chị cả mình vô cùng khăng khít, ngày trước y chỉ là ngưỡng mộ, mà nay bỗng nhiên lại thấy hơi buồn. Bốn năm rồi, y đã không còn vương vấn chuyện của Cảnh Nguyệt nữa, nhưng đồng thời cũng đóng chặt cánh cửa lòng. Y không muốn trao đi, cũng không dám trao đi, vì không chắc trao đi có được đáp lại hay không. Cho nên y thà chọn cho mình cô độc, dù là cô độc cả đời.
Ngọn Ly Sơn nhấp nhô trùng điệp, phong cảnh tuyệt đẹp, vì dáng núi giống một chú ngựa ô [*] phi nước đại nên có tên như vậy. Gần nghìn năm từ thời Tiên Tần đến nay, hành cung và bãi săn của hoàng gia luôn đặt ở đây, nên bình thường cực ít người ngoài bước vào. Sau khi phi nhanh mấy chục dặm, cuối cùng Lý Khác cũng ghìm cương ngựa lại, thong thả bước đi. Y không mang theo cung tên, vì mùa này hiếm thấy mãnh thú như hổ báo xuất hiện, còn các động vật hiền lành khác, y tuyệt đối không săn bắn bừa bãi.
Con ngựa trắng này của Lý Khác được nuôi lớn cùng với ngựa của Dương Chính Đạo, cực kỳ thông minh, cũng rất hiểu tính người. Mỗi lần, bất kể chạy xa đến đâu, nó cũng sẽ quay về theo đường cũ. Nhưng hôm nay, không biết vì nguyên nhân gì, nó đã đi vòng quanh cùng một chỗ ba bốn lần liền, cuối cùng lọt sâu vào rừng rậm lúc nào chẳng hay. Xưa nay Lý Khác là người không nhớ đường, nhìn bộ dạng hơi hổn hển của nó, trong lòng y bất giác hơi hoảng loạn.
[*] - Trong tiếng Trung, ly ( chữ tiếng Trung Quốc - ghi chú của người hiệu đính ebook) là ngựa ô.
Đột nhiên, cách đó không xa có tiếng hổ gầm vắng tới, hơn nữa càng lúc càng gần, gần đến nỗi đã lờ mờ nhìn thấy mãnh hổ. Một cơn gió lớn thổi qua, chỉ thấy con mãnh hổ đó chân dài đến sáu, bảy thước, mắt xếch trán trắng, mặt dữ tợn, mấy chiếc nanh trong cái miệng to như chậu máu lấp lánh dưới ánh mặt trời, mặt đất rung chuyển theo mỗi bước đi của nó. Ngựa trắng vừa thấy một con vật to lớn hung hãn như vậy, liền sợ hãi nghiêng về phía sau, phát ra tiếng hí thảm thương. Lý Khác thấy vậy, cũng giật mình thon thót. Lần gần nhất y gặp mãnh hổ là lúc đi săn cùng Lý Thế Dân hơn mười năm trước, lúc đó y và Lý Thế Dân cưỡi chung một ngựa, hơn nữa trong tay còn có vũ khí.
Nhưng hôm nay chỉ có một mình y, lại còn tay không. Có lẽ vì đói nên mãnh hổ nghe thấy tiếng kêu của ngựa trắng liền tăng tốc chạy về phía này. Con ngựa trắng sợ quá, cứ đứng đờ tại chỗ không nhúc nhích, Lý Khác nhất thời không biết phải làm sao, xuống ngựa chạy trốn thì cây cối san sát không chạy được, còn ngồi trên ngựa thì chẳng khác nào chờ chết. Y nổi tính ngang tàng, đến đâu thì đến! Mãnh hổ ngày càng gần, gần đến nỗi có thể nghe thấy tiếng thở của nó. Lý Khác nhắm mắt lại, cắn chặt môi, nắm lấy dây cương ngựa.
Lúc mãnh hổ chỉ còn cách y chừng bảy tám thước, chợt một mũi tên lông trắng bạc từ đằng sau bay tới, bắn trúng vào cổ họng nó. Trong chớp mắt mãnh hổ đã mất sức chiến đấu, chân trước mềm oặt ngã xuống, còn chưa kịp bò dậy thì hai mũi tên nữa đã vun vút bay tới, bắn trúng ngực và một mắt của nó, mãnh hổ chỉ kịp vùng vẫy hai cái rồi bất động hoàn toàn.
Thấy mãnh hổ mới đây vẫn còn oai phong lẫm liệt mà thoáng cái đã ngã xuống ngay trước mặt, Lý Khác vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, song nhiều hơn cả là thở phào nhẹ nhõm, thầm nghĩ chưa cần kể tới tiễn pháp của người này tinh tế chuẩn xác, ngay sự gan dạ sáng suốt này người thường cũng chẳng thể bì nổi, không biết là vị hào kiệt phương nào. Nghĩ đến đây, y bất giác giật dây cương một cái, ngựa trắng thấy mãnh hổ đã chết, cũng ngoan ngoãn quay đầu.
Chỉ thấy người đứng phía sau lại là một thiếu nữ khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, tay cầm cung tên, cưỡi một con ngựa lớn màu nâu đầu to trán rộng, đang tò mò nhìn Lý Khác. Nàng mặc một chiếc áo dài kiểu người Hồ màu tử đàn thêu loan phượng ngậm hoa, đầu đội mũ mạng che, trên mạng có đính mấy viên huỳnh thạch tím lấp lánh, vừa khéo che hết toàn bộ khuôn mặt nàng. Gió nhẹ thổi qua, làm tấm mạng bằng sa trắng dính sát vào mặt, nàng mới giơ tay bỏ nó xuống.
Lý Khác thấy đôi mắt nàng trong veo tựa như ngậm sương, nước da trắng trẻo hơn những cô gái bình thường, khóe miệng còn có đôi lúm đồng tiền nho nhỏ, trông muôn phần duyên dáng, anh khí ngời ngời. Nhất thời Lý Khác không khỏi ngây người, nếu không phải cả khu rừng vắng tanh vắng ngắt, thì dẫu thế nào y cũng chẳng tin tiểu cô nương trước mặt có thể bắn gục một con mãnh hổ hung hãn vô song.
Tiểu cô nương thấy bộ dạng y như vậy, chỉ cho rằng y vẫn chưa hoàn hồn, liền nhoẻn miệng cười với y, làm hai lúm đồng tiền trên má càng hẳn rõ: “Chẳng có ai như huynh cả, thấy hổ lao tới mà vẫn đứng đó chờ chết! Ngốc quá đi mất!”
Lý Khác nghe nàng nói thẳng thắn như vậy, cũng không nhịn được cười nhẹ một tiếng, bước lên hai bước nói: “Kinh hoảng luống cuống cũng là lẽ thường tình của con người mà! Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương! Không biết phủ nhà cô nương ở chốn nào? Hôm khác ta nhất định sẽ đến cửa bái tạ!”
Lời này rõ ràng hơi đường đột. Nhưng dường như cô gái đó chẳng để ý, thản nhiên nói: “Phò mã đô úy Tiêu thiếu khanh là chú ruột tôi!”
Giờ Lý Khác mới chợt vỡ lẽ, hóa ra cô cháu gái nhỏ mà Tiêu Nhuệ nói hồi sáng chính là nàng ta. Hay cho một Tiêu cô nương! Thật khiến y ngạc nhiên thán phục. Thế là y lại cười: “Hiếu Tĩnh hoàng đế nhà Lương [*] trước đây là ông nội cô, nguyên Tương Thành thứ sử Tiêu Huyễn là cha cô, đúng không?”
“Sao huynh biết?”
“Hiếu Tĩnh hoàng đế là ông cậu của ta, Tiêu thiếu khanh là cậu họ của ta.”
Cô gái cất cung tên trong tay vào chiếc túi trên lưng ngựa, nghĩ ngợi một hồi rồi mới chắp tay nói: “Kỳ Úc bái kiến Ngô vương ca ca. Hóa ra, ca ca đúng như những gì họ kể, trông thật khôi ngô đoan chính!”
Nghe lời khen ngợi không chút che giấu, lại nhìn khuôn mặt thoáng ửng hồng của nàng, trong lòng Lý Khác nảy sinh vài phần thương mến không sao kìm nổi. Y lại hỏi: “Em vừa bảo tên mình là gì?”
[*] - Tên là Tiêu Tông, anh ruột của Tiêu Vũ.
“Kỳ Úc.”
“Kỳ Úc, Kỳ Úc..” Lý Khác đọc thầm cái tên này trong lòng mấy lượt, rồi đột nhiên nhìn nàng nói, “Chiêm bỉ Kỳ úc, lục trúc y y. Hữu phỉ quân tử, như thiết như tha, như trác như ma. Sắt hề hạn hề, hách hề hoán hề. Hữu phỉ quân tử, chung bất khả huyến hề! ( Sông Kỳ khúc rẽ, trúc mọc xanh tươi. Quân tử văn nhã, như cắt như dùi, như gọt như mài [*] Uy nghi trang trọng, hiển hách rạng ngời. Quân tử văn nhã, rốt chẳng thể quên người! ) Tên của em thật là hay.”
Kỳ Úc nghe y đọc bài thơ này bằng giọng hay như vậy, chợt thấy rung động trong lòng: “Hồi còn sống cha em thường nói, con gái cũng như con trai, vì vậy đã mời những thầy giáo giỏi nhất dạy em đọc sách và cưỡi ngựa bắn cung ngay từ nhỏ. Ông ấy bảo, kết cục của phụ nữ không chỉ là gả làm vợ người, cùng chồng dạy con, họ cũng cần có khoảng trời rộng lớn hơn.”
Lý Khác gật đầu: “Ông ấy nói không sai.
“Đáng tiếc ông ấy đã qua đời ba năm về trước.” Vành mắt Kỳ Úc bỗng đỏ hoe lên, nàng cúi đầu vuốt ve bộ lông dày của con ngựa nâu, rồi nhích lại nhìn con ngựa trắng của Lý Khác, nói, “Con ngựa của em tên là Khinh Vân, của ca ca thì sao? Tên nó là gì?”
[*] - Chỉ trau dồi học vấn và tu dưỡng đạo đức.
“Của ta..” Lý Khác nghĩ ngợi hồi lâu, rồi đành phải nói: “Tuy đã nuôi nó nhiều năm, nhưng ta vẫn chưa đặt tên hẳn hoi cho nó!”
“Vậy... em sẽ chọn giúp ca ca!” Kỳ Úc rút một cây thoa bạc trên đầu xuống, lắc lắc trước mặt con ngựa trắng trêu nó, “Gọi là Lưu Phong đi!”
Trời bỗng đổ mưa to, dường như đến giờ con ngựa mới hoàn hồn, hưng phấn ngửa cổ lên trời hí vang hai tiếng, có vẻ rất hài lòng với cái tên của mình. Kỳ Úc nghiêm túc nhìn Lý Khác nói: “Lưu Phong đồng ý rồi, ca ca thì sao?”
“Em đã gọi nó là Lưu Phong rồi, ta há có lý do để không đồng ý sao?” Lý Khác dở khóc dở cười nói, “Cơ mà, cái tên này thật sự rất hay! Phảng phất hề nhược khinh vẫn chi tế nguyệt, phiêu diêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết. ( Phảng phất chừ như mây nhẹ che bóng nguyệt, phiêu diêu chừ tựa gió lùa tung bông tuyết. [*] ) Lưu Phong của ta với Khinh Vân của em vừa khéo thành một đôi!”
Kỳ Úc nghe vậy, liền cúi đầu cười mỉm: “Chỉ trách nữ thần sông Lạc, sao mà đẹp đến thế, khiến người ta không thể quên được!”
“Nữ thần sông Lạc đâu có tội gì! Muốn trách thì phải trách thơ phú của Trần Tư vương quá mê hoặc lòng người!” Lý Khác lại cưỡi ngựa đi thêm mấy bước, rồi quay sang nói với Kỳ Úc, “Em thường một mình cưỡi ngựa ra ngoài à? Tiêu thiếu khanh cũng yên tâm sao?”
[*] - Hai câu trong bài Lạc thần phủ (bài phủ về nữ thần sông Lạc) của Trần Tư vương Tào Thực.
Kỳ Úc nghe y nói vậy, ngẩng đầu thấy cảnh trời chiều đã ngả về Tây thì giật mình, vội vàng kéo dây cương chạy vài bước, rồi thình lình ngoảnh đầu nói với Lý Khác, “Ngô vương ca ca, em đi trước đây. Giờ còn chưa về, chắc tiểu thúc thúc sốt ruột lắm.”
Lý Khác gật đầu, bỗng cao giọng nói: “Mấy hôm nữa ta sẽ đến Tiêu phủ tìm em nói chuyện.”
Mấy hôm sau vào lúc hoàng hôn, Lý Khác mang theo thiệp hồi âm vừa mới viết xong sang phủ của Tiêu Nhuệ. Vòng qua ba lối nhỏ quanh co, Lý Khác mới đến phòng trong. Tương Thành công chúa đang chơi đùa với Thủ Quy hãy còn quấn tã. Lý Khác tiến lên thi lễ, gọi một tiếng: “Trưởng tỉ.”
Thủ Quy vươn cánh tay nhỏ bé mũm mĩm ra, cười như nắc nẻ với Lý Khác. Lý Khác vội vàng đón lấy đứa bé, nựng nịu khuôn mặt trắng nõn mềm mại của nó, trong lòng không khỏi trào dâng biết bao dịu dàng. Tương Thành công chúa nhìn dáng bế trẻ con thành thạo của y, buột miệng nói: “Tam đệ đã thích trẻ con như vậy, còn không mau lấy vương phi di!”
“Minh Giác, nàng đừng lo lắng cho tam đệ nữa. Cả đời này tam đệ không kết hôn cũng chẳng có gì đáng ngại. Tiêu Nhuệ nhìn bộ dạng vui mừng hớn hở của Thủ Quy trong vòng tay Lý Khác, nói, “Chí ít tam đệ cũng có thời gian để chơi với con trai chúng mình.”
Lý Khác ngoảnh lại, chẳng đếm xỉa đến gã, chỉ gật đầu với thiếu nữ bên cạnh gã: “Kỳ Úc muội muội cũng ở đây à, xem ra ta đến thật đúng lúc.
“Ngô vương ca ca,” Kỳ Úc mỉm cười nhìn về phía bức tranh trên bàn nói, “ca ca mau lại xem bức tranh này, tiểu thúc thúc vừa mới tặng cho em đấy”
Lý Khác tiến lên hai bước, quan sát kỹ càng một lượt, thấy phía trên của bức tranh là một vùng núi sông cao vút hiểm trở được bọc trong sương mù, bốn phía là hàng chục cây thông cây bách thẳng tắp và kỳ vĩ, một dòng sông đã đóng băng chạy dài đến tận chân núi, trên nền tuyết quanh sông có mười mấy đứa trẻ đang nô đùa với đủ các biểu cảm khác nhau, quanh chúng là rất nhiều dấu chân lớn nhỏ không đều. Phía dưới bên trái bức tranh có một con dấu, Lý Khác sửng sốt: “Tranh của Triển Tử Kiền, hiếm có!”
Vẻ mặt Kỳ Úc tràn ngập niềm vui không thể kìm nổi: “Đây là bức Đạp tuyết đồ của ông ấy. Người người đều bảo bức tranh này đã thất lạc trong chiến loạn cuối Tùy, nào ngờ đến nay nó vẫn có thể xuất hiện lại trên đời. Tuy chỉ có nửa bức, nhưng thế là quý giá lắm rồi”
“Tranh sơn thủy của Triển Tử Kiền quả thật diễm lệ tân kỳ.” Vì hưng phấn, Lý Khác bất giác nói nhanh hẳn lên, “Bức Đạp tuyết đồ này lấy màu xanh của thông bách và màu nõn chuối của áo khoác mà lũ trẻ mặc trên người làm chủ đạo, khéo léo giấu đi vẻ quạnh quẽ của trời đông băng tuyết, trong trầm ổn không mất đi linh động, trong linh động lại hiện ra ung dung. Không hổ là họa gia đệ nhất triều Tùy.”
“Ông ấy có được danh tiếng tốt đẹp đến mức này, không chỉ nhờ tài vẽ trác việt hơn người, mà còn vì nhân phẩm cương trực không a dua” Kỳ Úc mặc chiếc váy xòe dài bằng gấm Thục mịn, lấp lánh dưới bóng xế nắng tà chiếu rọi.
Lý Khác đảo mắt cười hỏi: “Em cho rằng nhân phẩm quan trọng hơn tài năng học vấn sao?”
“Cũng không hẳn. Kho đụn đầy mới hay lễ tiết, áo quần đủ mới biết nhục vinh. Trong những năm chiến loạn ăn chẳng đủ no, ai có thể đem lại ấm no, trăm họ tự nhiên sẽ nhận làm chủ, cho dù kẻ đó từng bỏ vợ vứt con, giết người như ngóe. Kỳ Úc nói đĩnh đạc chẳng cần suy nghĩ, “Nhưng vào thời thái bình như hiện nay, bệ hạ lại là đấng minh quân trị thế nghìn năm khó gặp, dùng người tất nhiên không thể ‘chỉ cần tài là cất nhắc. Giống như tận khoa tiến sĩ Cát Văn Tân, không chỉ bỏ vợ tái hôn trong thời gian để tang mẹ, còn nuốt chửng gia tài vốn thuộc về người em trai út. Dầu hắn quả thật có tài kinh bang tế thế, chẳng phải bệ hạ cũng đã hạ lệnh vĩnh viễn không bổ nhiệm sao?”
Giọng nói của Kỳ Úc nhẹ nhàng uyển chuyển, tựa chim sơn ca ngày xuân, khiến lòng người vui vẻ. Trái tim Lý Khác như bị một thứ tình cảm chưa từng có va mạnh, rung động và khát khao mãnh liệt ấy có vẻ giống biểu huynh đối với Tuyết Lộ, Nhuệ ca đối với trưởng tỷ, hoặc là mẹ đối với cha.
Tiêu Nhuệ nghe họ nói chuyện ăn ý với nhau như thể bên cạnh không có người, trong lòng chợt động, lập tức trao đổi một ánh mắt hân hoan đôi bên thừa hiểu với Tương Thành công chúa.
Một lúc lâu sau, Lý Khác mới giúp Kỳ Úc chỉnh lại cây trâm mành mành trên mái tóc: “Em còn nhỏ tuổi mà đã có kiến thức như vậy, thật là hiếm thấy. Chẳng trách Nhuệ ca luôn khoe rằng người như em chỉ trên trời có còn dưới đất không.”
Mặc dù Tiêu Nhuệ và Tiêu Huyễn là anh em họ nội, nhưng tuổi tác chênh nhau rất lớn, lại nhiều năm không ở cùng một chỗ, tất nhiên quan hệ không thân thiết lắm. Mãi đến ba năm trước, Tiêu Huyễn lâm bệnh qua đời, khi họ đến Tương Thành chịu tang, Tiêu Nhuệ mới gặp Kỳ Úc - giọt máu duy nhất của Tiêu Huyễn - lần đầu tiên. Khi đó Kỳ Úc mới chỉ hơn mười tuổi đã tỏ rõ tính cách kiên cường khiến người khác khó quên. Lần này Kỳ Úc vào kinh, Tiêu Vũ đã dặn đi dặn lại rằng, nhất định phải chăm sóc cô cháu gái này cho thật tốt. Tuy Tiêu Nhuệ lờ mờ đoán được cha mình có ý muốn kén rể cho con bé, nhưng không biết rốt cuộc Lý Khác có phải là sự lựa chọn lý tưởng trong lòng ông ấy không.
“Nhuệ ca..” Lý Khác thấy vẻ mặt trầm tư của Tiêu Nhuệ, liền gọi, “Nhuệ ca có được bức Đạp tuyết đồ này từ đâu vậy?”
Tiêu Nhuệ nghe thấy câu này mới sực tỉnh, tạm ngừng suy nghĩ lan man: “Từ chỗ Hầu đại tướng quân, mua hết hai mươi lạng bạc. Ông ta bảo mình là người thô lỗ, không thích mấy thứ cao thâm khó dò của đám văn nhân.
“Hai mươi lạng?” Lý Khác lắc đầu quầy quậy, “Muội muội, ta cho em hai trăm lạng bạc, em có chịu bán lại cho ta không?”
Kỳ Úc cuộn bức tranh ôm vào trong lòng nói: “Còn lâu! Em cũng không thiếu bạc tiêu.”
Lý Khác dang tay nói: “Nhìn xem! Khổ thân Hầu đại tướng quân.”
Đang nói chuyện thì có một tiểu nha hoàn rảo bước gõ cửa đi vào, báo tin Tề trưởng sử đang cuống quýt tìm hai vị trưởng quan Đại Lý tự để cầu cứu. Ông ta bảo là bí thư thừa Tô Đản đang đau khổ vì cái chết của nhị phu nhân thì sáng nay tam phu nhân lại chết một cách vô cùng khó hiểu. Tô Đản là quan kinh hàm tòng ngũ phẩm thượng, trưởng nữ lại là chính phi của thái tử, tuy ông ta chưa hề gây áp lực với nha môn, yêu cầu phải phá án trong vài ngày, nhưng trưởng sử Tề Trưởng Thăng vẫn nơm nớp lo lắng, sợ một ngày nào đó vị quốc trượng [*] tương lai này bỗng dưng lại hung hăng dâng tấu vạch tội mình bất lực trước mặt hoàng đế.
Từ khi mở nước đến nay, triều Đường không đặt chức kinh triệu doãn [*] mà lấy Ung Châu mục kiêm luôn chức này. Ung Châu mục hiện nay là Ngụy vương Lý Thái, em cùng mẹ của thái tử. Nhưng mấy năm nay Ngụy vương bận tranh quyền đoạt sủng với thái tử, bồi đắp thế lực cho mình, chức Ung Châu mục này chẳng qua chỉ là danh nghĩa, người nắm thực chức là trưởng sử phủ Ung Châu Tề Trưởng Thăng. Tuy vị Tề trưởng sử đã ngoại tứ tuần này tính tình có hơi cẩu thả, nhưng làm quan hay làm người đều ngay thẳng, bình thường xử án thì phần lớn được người khác tín phục. Nhưng nay đang lúc nghỉ lại đến thẳng tư dinh của Tiêu Nhuệ, thật là hiếm thấy.
Lý Khác khẽ gật đầu với Tiêu Nhuệ: “Chúng ta đi một chuyến.”
“Bí thư thừa họ Tô... Kỳ Úc từ từ động não, nói: “Nhị cô nương nhà họ là bạn cũ của em. Ngô vương ca ca, em đi cùng hai người có được không? Xảy ra chuyện như thế này, nhất định là cô ấy đau khổ lắm.”
[*] - Bố vợ của vua.
[*] - Chức quan giữ nhiệm vụ quản lý hành chính và trị an ở kinh đô.
Lý Khác cười, gật đầu nói: “Vậy thì đành phải để em chịu thiệt làm hộ vệ cho ta thôi.”
Tô phủ nằm về phía Nam phường Đức Hưng ở mặt Đông thành Trường An, nhìn từ bên ngoài thì không khác những dinh phủ của quan kinh thông thường, nhưng bài trí bên trong lại đặc biệt xa hoa cầu kỳ. Tô Đản có khuôn mặt gầy gò, hốc mắt trũng sâu, trông khí sắc vô cùng tệ, giọng nói cũng khàn đặc: “Ngô vương điện hạ và Tiêu thiếu khanh đích thân đến đây, thần thẹn không dám nhận.
Lý Khác nhìn cảnh tượng hỗn loạn gà bay chó chạy trong phủ một lượt, bất giác nhíu chặt mày, khi nhìn sang bộ dạng ủ rũ chán chường của Tô Đản, y không khỏi nảy sinh ba phần thông cảm. Thực ra mối quan hệ giữa Lý Khác và thái tử Lý Thừa Càn trước giờ vẫn ổn, nhất là mấy năm nay y làm quan ở kinh, hai anh em cũng thường qua lại. Thái tử từng nói đùa với y rằng, tuy ông bố vợ này của mình làm quan thận trọng chắc chắn, nhưng xử lý việc nhà thì giống hệt như kẻ ngốc, dù sủng ái mấy nàng thiếp, nhưng lại cực kỳ sợ vợ.
Lúc này, Tô đại phu nhân Vương thị đang ở trong sân chỉ đạo một đám nha hoàn vẩy nước trừ tà, dán bùa chú. Tô Đản thấy vậy cũng chẳng quản mấy người bọn họ đang ở đây, vội xông tới lùa hết đám nha hoàn đang bận bịu ra ngoài. Vương thị thấy bộ dạng hung hăng dữ tợn của ông ta, không nhịn được hừ lạnh một tiếng, vứt chiếc bình sứ trắng trên tay xuống đất, quay người đi thẳng. Lý Khác và Tiêu Nhuệ nhìn nhau thầm nghĩ, ngay trước mặt họ mà vị phu nhân la sát này cũng chẳng chút kiêng dè, thảo nào trong phường có lời đồn rằng Vương thị là quỷ dạ xoa đầu thai.
Tô Đản thấy tình cảnh này, lúng túng ra mặt, chỉ biết cúi người chắp tay vái lia lịa: “Ngô vương điện hạ thứ tội, người vợ kết tóc này của thần thật quá...”
Lý Khác chẳng mấy quan tâm đến những chuyện thê thiếp tranh sủng kiểu này, vì vậy bình thản nói: “Không sao.”
Phòng trong có bốn bức bình phong gỗ lim hình mai lan cúc trúc, người phụ nữ nằm trên chiếc giường phía sau bình phong khuôn mặt tái nhợt, trán quấn mấy lớp gạc dày, bên trên vẫn thấy vết máu đỏ tươi thấm ra, đã tắt thở từ lâu. Cạnh giường có một thiếu nữ toàn thân mặc đồ tang đang khóc sướt mướt. Kỳ Úc vội vàng tiến lên hai bước nắm lấy tay cô ta, gọi một tiếng: “Tô Việt.”
Tô Việt nhướng đôi mắt sưng đỏ vì khóc, nghẹn ngào nói: “Tiêu tỉ tỉ!”
Tô Đản ở bên cạnh nói: “Tô Việt, mau đến bái kiến Ngô vương điện hạ.”
Lúc này Tô Việt mới đứng dậy nhã nhặn thi lễ với mọi người, nhưng nước mắt vẫn lã chã tuôn rơi không sao ngăn nổi. Tô Việt liếc nhìn Lý Khác ăn mặc lộng lẫy ở bên cạnh, rồi lại kéo tay Kỳ Úc, tựa đầu vào vai nàng, vẫn không ngừng nức nở. Kỳ Úc đành phải đưa cô ta ra phía sau bức bình phong bên kia, rót cho cô ta một cốc nước, an ủi vài câu rồi mới hỏi: “Rốt cuộc mẹ em có chuyện gì vậy? Vừa nãy trên đường ta nghe Tề trưởng sử kể lộn xộn rối rắm, nên cũng chưa hiểu hoàn toàn.
“Mẹ em...” Tô Việt vừa định kể lại chuyện xảy ra hồi sáng thì chợt nhớ ra một chuyện khác còn quan trọng hơn đối với cô, liền hạ giọng thì thào với Kỳ Úc, “Tiêu tỉ tỉ có quan hệ gì với Ngô vương điện hạ vậy? Vừa nãy em thấy vẻ mặt ngài ấy khi nhìn Tiêu tỉ tỉ rất đặc biệt.”
Bốn năm trước, tam phu nhân dẫn Tô Việt đến Tương Thành thăm hỏi mấy người thân cũ sống ở đó. Ai ngờ giữa đường họ gặp phải một đám thổ phỉ, định cướp của cướp sắc, vừa may được các hộ vệ của phủ thứ sử đi ngang qua cứu giúp. Thứ sử Tiêu Huyễn thấy họ là thân quyến của bí thư thừa, bèn để họ tạm thời ở lại phủ một đêm. Khi đó hai cô bé Tô Việt và Kỳ Úc mới hơn mười tuổi trò chuyện rất vui, còn trao đổi cả vật mình yêu thích với nhau, bảo rằng ngày sau nhất định phải gặp lại. Thấy tâm trạng cô ta đã ổn định lại đôi chút, Kỳ Úc mới yên tâm, ngồi co gối đối diện với cô ta, nói: “Ngài ấy là anh họ ngoại của chị.”
Tô Việt thấy Kỳ Úc tuy mặc đồ nam, không thoa son phấn, nhưng vẫn toát ra khí chất chỉ thiếu nữ quý tộc mới có, khiến cô ta không khỏi tự thẹn vì thua kém. Chị gái con mẹ cả của cô đã lấy thái tử, còn cô đối với Ngô vương từ lâu đã bén sâu rễ tình, vốn dĩ hy vọng cha mình có thể thông qua mối quan hệ của thái tử phi mà giúp cô giành được địa vị vương phi, hoặc ít ra cũng là trắc phi hạng nhất. Nhưng một hai năm nay, mẹ cả và mẹ đẻ căng thẳng đến mức kiếm tuốt vỏ nỏ giương cung, trông bộ dạng dữ tợn của mẹ cả thì chẳng thể hy vọng gì vào bà ta được. Nay lại thấy bên mình Ngô vương đột nhiên xuất hiện một cô em họ, cô lại càng cảm thấy buồn chán.
Kỳ Úc rõ ràng không nhìn ra chút đố kỵ le lói trong lòng người em gái năm xưa, cứ thế nói ra những lời thân mật từ tận đáy lòng.
Lý Khác nghe Tô Đản và mấy nha hoàn nói xong, đôi mày càng nhíu chặt hơn: “Ý các ngươi là, sáng nay tinh thần của tam phu nhân bỗng nhiên khác thường, sau đó phu nhân xông ra ngoài cửa đâm vào hòn non bộ mà chết sao?”
Liễu Diệp, người vừa nãy mở miệng đầu tiên, nói với giọng hơi run rẩy: “Vâng. Lúc đó nô tì vô cùng sợ hãi, vừa chạy vừa la lớn gọi người, nhưng tam phu nhân quá khỏe, nô tì và mấy chị em khác đều không ngăn cản được, chỉ biết trơ mắt nhìn phu nhân lao đi mà chẳng quay đầu lại. Khi bọn nô tì chạy đến thì phát hiện trên đầu phu nhân toàn là máu, bụng còn găm cả một thanh chủy thủ.”
“Đồ vô dụng!” Tô Đản ở bên cạnh cố nén cơn giận, nghiến răng nghiến lợi mắng.
“Không phải bọn chúng vô dụng, là do tam phu nhân bảo bối của ông làm chuyện xấu, sau khi bị tôi phát hiện thì cảm thấy xấu hổ cắn rứt, nên mới muốn chết cho xong chuyện Đại phu nhân đã đi từ lâu giờ không biết tại sao lại trở lại, liên tục cúi người hành lễ với Lý Khác và Tiêu Nhuệ, nói: “Vốn là chuyện xấu trong nhà, không ngờ lại làm phiền Ngô vương điện hạ và Tiêu thiếu khanh đích thân qua hỏi, thiếp thân thật sự áy náy không yên.”
Lý Khác thấy lúc này bà ta vẻ mặt ôn hòa, mang dáng dấp mệnh phụ khoan thai quý phái, lại nhớ đến lúc mới vào cửa bà ta đanh đá chua ngoa ra sao, không khỏi có chút ngạc nhiên, phải chăng con người ta ai cũng có hai bộ mặt hoàn toàn khác nhau? Y bèn hỏi: “Chuyện mà Tô phu nhân nói rốt cuộc là thế nào?”
Dường như đại phu nhân đã đoán trước được y sẽ hỏi câu này, liền ôn tồn nói: “Tối hôm qua, thiếp thân phát hiện ả lấy trộm mười mấy thỏi vàng trong kho của nhà đi dấm dúi cho thằng em không nên thân của ả. Thiếp thân vốn định dàn xếp cho êm chuyện, để ả tự giác trả lại vàng, nào ngờ ả không những không biết hối cải, mà còn vênh váo bảo dù lang chủ có biết cũng chẳng sao, sau đó thiếp thân mới nói là sẽ tố cáo ả với Tề trưởng sử để xử theo phép nước.”
“Ý của phu nhân là tối qua bà ấy vẫn còn bình chân như vại, mà sáng hôm sau đã phát điên lao đi tự sát không kịp đuổi theo sao?” Tuy Lý Khác vẫn hỏi nương theo câu chuyện bà ta kể, nhưng nghe thế nào cũng thấy kỳ lạ.
Có vẻ Tiêu Nhuệ cũng nghe ra điểm khác thường trong câu này, bèn quay sang hỏi Liễu Diệp: “Hồi sáng tam phu nhân ăn gì?”
Liễu Diệp nói: “Nô tì chuẩn bị canh ngân nhĩ hạt sen cho tam phu nhân như thường lệ, chỉ có điều tam phu nhân bảo là bà ấy nhạt mồm nhạt miệng, chỉ ăn hai miếng rồi thôi. Gần nửa canh giờ sau thì xảy ra chuyện.”
Giờ đã là tháng Sáu, lại thêm lúc này trong phòng có không ít người tụ tập, vì vậy mọi người cảm thấy nóng nực khác thường. Tô Đản vừa lấy khăn lau mồ hôi đầy mặt, vừa nói: “Ngô vương điện hạ, sau khi xảy ra chuyện, thần đã cho đại phu kiểm tra kỹ lưỡng bát canh ngân nhĩ hạt sen đó, chẳng có gì không ổn cả.”
Lý Khác không để tâm đến ông ta, chỉ nhìn quanh cách bài trí trong phòng, ánh mắt đột nhiên dừng tại bức tranh trên tường. Tuy không có chữ ký, nhưng y vừa nhìn đã nhận ra ngay quang cảnh đó là nửa còn lại của bức Đạp tuyết đồ. Y bước tới, từ từ đưa tay xoa mấy chục dấu chân trên nền tuyết của bức tranh, buột miệng nói: “Kỳ muội, em mau qua đây xem!”
Kỳ Úc nghe thấy y gọi liền bước ra từ phía sau tấm bình phong, vừa thấy bức tranh, lập tức không kiềm chế nổi, mừng ra mặt: “Hóa ra nửa bức tranh còn lại là như thế này. Ca ca nhìn cụ già mặc áo tơi nón lá, một mình thả câu bên sông kìa, vẽ đẹp thật đấy. Nửa bức tranh này tập trung vào cụ già, là tĩnh, nửa bức tranh kia chú trọng vào lũ trẻ, là động. Một già một trẻ, một tĩnh một động, lại có thể hài hòa đến thế trong cùng một bức tranh. Triển Tử Kiền đúng thật là bậc thầy hội họa tài ba!”
Tô Đản sớm đã nhìn ra Ngô vương và thiếu niên cải trang thanh tú này có quan hệ không bình thường, lúc này thấy họ thích thú bức tranh ấy như thế, liền thức thời nói: “Nếu Ngô vương điện hạ thích nó, thần sẽ...”
Nói được nửa chừng, ông ta cố ý dừng lại không nói nữa. Đương nhiên Lý Khác hiểu ý của ông ta. Mấy năm qua, ngoại trừ quà của họ hàng, bạn bè thân thiết tặng y, phần lớn những thứ khác y đều trả lại. Nhưng giờ đây đối với bức tranh này, y lại hơi do dự. Đúng lúc y không biết trả lời như thế nào, Kỳ Úc lại mở miệng trước: “Nếu Ngô vương điện hạ thích thì chỉ cần nhìn thêm vài lần, về nhà cũng vẽ lại được.”
Lý Khác nhìn nàng cười tươi tắn, không khỏi khen thầm trong bụng: Thật là một cô gái thông minh!
Tô Việt đi ra theo Kỳ Úc thấy cảnh này, càng khẳng định suy nghĩ của mình, lại nhìn sang mẹ đẻ nằm trên giường đã thành một xác chết từ lâu, liền giậm chân rất khẽ.
Ngoài chính thất phu nhân Vương thị, Tô Đản còn nạp tổng cộng năm người thiếp nữa, trong đó ông ta sủng ái nhất là nhị phu nhân đã chết lần trước. Tam phu nhân xuất thân nhà buôn, vì có chút nhan sắc nên được Tô Đản nạp vào trong phủ. Bởi tính tình hiền dịu, lại sinh ra Tô Việt, nên Tô Đản đối đãi với bà ấy cũng coi như không tệ lắm. Nhưng nếu nói về tình cảm sâu đậm, thì thật sự không có. Song bà ấy đã chết, lại chết không rõ ràng như vậy, Tô Đản cũng tuyệt đối không thể thờ ơ bỏ mặc.
Tô Việt nghĩ đến đây, không khỏi thương thân tủi phận, liền chuẩn bị sẵn rất nhiều nước mắt, quỳ phịch xuống trước mặt Lý Khác: “Điện hạ, mẹ ruột tôi thật sự không làm những chuyện như vậy. Đêm hôm qua, mẹ cả đến tìm mẹ tôi, ép mẹ tôi nhận đã ăn trộm thỏi vàng, bằng không sẽ tố cáo cậu tôi tham ô kho bạc, còn gả bừa tôi làm tiểu thiếp nhà người ta.”
Cô khóc sướt mướt như hoa lê dính mưa, nhưng rõ ràng Lý Khác không tỏ vẻ thương hương tiếc ngọc như cô mong muốn, thậm chí còn chẳng nhìn cô thêm lần nào, chỉ đợi đại phu nhân trả lời như đang xem kịch. Trên thực tế, những lời Tô Việt nói có năm phần thật, năm phần giả. Hôm đó đại phu nhân quả thật đến quấy rầy tam phu nhân, song cụ thể nói những gì thì chỉ là suy đoán của cô mà thôi.
Quả nhiên đại phu nhân tức đến mức mày liễu dựng ngược, sải bước đi tới kéo cô từ dưới đất lên, gắn giọng nói: “Mày to gan đấy, dám vu cáo mẹ mày trước mặt nhiều người thể à!”
Tô Việt ứa nước mắt nhìn sang Lý Khác lần nữa, nhưng Lý Khác vẫn không đổi sắc mặt, chỉ mải ngắm nghía nửa bức Đạp tuyết đồ trên tường, nghĩ xem lúc về phải làm thế nào mới vẽ được một bức giống hệt để tặng cho Kỳ Úc. Tiêu Nhuệ thấy y không có ý ra tay, cũng vui vẻ khoanh tay đứng nhìn. Cuối cùng Tề Trưởng Thăng đứng ở đằng sau không chịu nổi nữa, giơ tay tách đại phu nhân và Tô Việt ra. Đại phu nhân đỏ mặt tía tai, rõ ràng cơn giận vẫn chưa tan hết.
Thấy hai người cuối cùng cũng chịu yên, Tiêu Nhuệ mới hỏi: “Đại phu nhân phát hiện ra tam phu nhân trộm vàng trong kho như thế nào?”
Đại phu nhân ném phăng cây trâm vừa mới giật từ trên đầu Tô Việt xuống đất, giẫm mạnh mấy cái, cười khẩy bảo: “Liễu Diệp, ngươi lại đây nói!”
Liễu Diệp gạt mọi người bước ra, mặt đỏ bừng, cúi đầu khẽ nói: “Hôm đó nô tì đi cất mấy súc gấm Thục mà lần trước thái tử phi tặng vào kho, nào ngờ gặp đúng lúc tam phu nhân đang hớt hải đi từ trong kho ra, lại vừa khéo đâm sầm vào bà ấy, mấy thỏi vàng cứ thế rơi xuống đất.”
“Vậy thì lạ thật.” Lý Khác lấy chiếc quạt tơ tằm giắt ở bên hông ra, vừa quạt vừa nhìn xuống Liễu Diệp, “Ngươi là nha hoàn của tam phu nhân mà! Sao việc vào kho quan trọng như vậy đại phu nhân lại giao cho ngươi làm? Tam phu nhân ăn trộm bị ngươi bắt gặp, bí mật quan trọng như vậy, thông thường mà nói, bà ấy sẽ phải dùng các cách như ép buộc, dụ dỗ để ngươi giữ kín cho bà ấy, nhưng cuối cùng người vẫn mách chuyện này với đại phu nhân. Cho nên đại phu nhân mới bảo, hôm qua bà ấy đến để làm chuyện to hóa nhỏ, nhưng Tô cô nương lại nói là đại phu nhân cố ý vu cáo hãm hại. Tam phu nhân đã biết ngươi tố cáo với đại phu nhân, sao sáng nay bà ấy vẫn để ngươi hầu bữa sáng cơ chứ? Hơn nữa, ngươi bảo lúc tam phu nhân phát điên ngươi không ngăn nổi, nên mới gọi các nha hoàn khác đến. Nói cách khác, lúc đó bên cạnh bà ấy chỉ có một mình ngươi. Lẽ nào đối với ngươi, đến nửa phần hiềm khích khúc mắc bà ấy cũng không có hay sao? Mấy người các ngươi, rốt cuộc ai đang nói dối?”
Giọng nói của Lý Khác không lớn, nhưng từng chữ buông ra đều có trọng lượng, lập tức khiến bầu không khí xung quanh đông cứng lại thành băng. Kỳ Úc quay đầu nhìn mặt nghiêng của y, chỉ cảm thấy tim vô cớ đập thình thịch liên hồi trong lồng ngực, đó là lần đầu tiên nàng rung động, tựa như niềm vui sướng khi ngắm vầng thái dương nhô lên khỏi đường chân trời vào những ngày đông vậy. Nàng nhớ đến ánh mắt kinh ngạc của ông chú Tiêu Vũ khi gặp nàng lần đầu tiên, Tiêu Vũ nói: Kỳ nhi của chúng ta có dung nhan nhân phẩm như thế này, đáng sánh đôi với người con trai tốt nhất trên thế gian. Mẹ nàng mất sớm, cha đã dẫn nàng đi khắp trời Nam đất Bắc từ khi nàng còn nhỏ. Thiên hạ rộng lớn như vậy, người trong thiên hạ nhiều như vậy, ai mới là tốt nhất? Tốt nhất, chẳng qua là tâm đầu ý hợp nhất mà thôi. Điểm này, sau khi gặp Lý Khác, nàng mới đột nhiên lĩnh hội được.
Tô Đản dè dặt nhìn Lý Khác, rồi lại hướng ánh mắt về phía đại phu nhân và Liễu Diệp, sau lại dừng trên người Tô Việt đang hoảng hốt lúng túng, cuối cùng vẫn không nói một lời. Tâm tư của đàn bà là thứ khó suy đoán nhất trên thế gian này. Lý Khác thấy không ai nói gì, ngay cả Tiêu Nhuệ cũng chỉ mải mê nhìn thẳng vào chiếc nhẫn đệm [*] gã đeo trên ngón tay, nên đành nói tiếp: “Chắc chuyện là thế này. Liễu Diệp, chính ngươi đã lấy trộm vàng, hoặc là thứ gì đó, bị tam phu nhân phát hiện. Ngươi tìm đủ mọi cách để van xin, bà ấy mới đồng ý tạm tha cho ngươi. Nào ngờ ngươi quỷ kế đa đoan, lại chạy đến chỗ đại phu nhân vu cáo ngược lại tam phu nhân, hy vọng có thể mượn tay đại phu nhân trừ khử tam phu nhân. Đại phu nhân nửa tin nửa ngờ, liền đến chỗ tam phu nhân thăm dò, thậm chí uy hiếp, nhưng lại không thể có được đáp án ngươi muốn. Ngươi thấy kế không thành, liền nảy ra một kế khác, đó chính là cách nói tam phu nhân sợ tội tự sát.”
Mọi người vừa nghe mấy câu này, đều không hẹn mà cùng gật gù. Đại phu nhân xưa nay không ưa tam phu nhân vờ vịt yếu đuối này cho lắm, bình thường cũng hay gây khó dễ. Bởi vậy nhất thời tam phu nhân sẽ không liên hệ chuyện uy hiếp này với hành động trộm cắp của Liễu Diệp. Vì tay đang nắm đằng chuỗi, nên tam phu nhân sẽ càng tin Liễu Diệp, tuyệt đối không ngờ rằng ả lại phản bội.
Liễu Diệp vừa nghe thấy Lý Khác đã đoán đúng tám chín phần mười chân tướng của sự việc, hai chân liền mềm nhũn, toàn thân bủn rủn sụp xuống đất. Chỉ là ả che giấu cảm xúc rất nhanh, vờ như không có chuyện gì: “Nô tì không biết tại sao điện hạ lại nói vậy. Chuyện tam phu nhân đâm vào hòn non bộ, quả thật có rất nhiều người trông thấy. Nói rồi, ả liền nhìn về phía mấy tiểu nha hoàn ở đằng sau, như thể cầu cứu. Suy cho cùng vẫn từng cùng nhau lớn lên, thấy ả rơi vào cảnh quẫn bách như vậy, mấy người kia đều nhao nhao phụ họa theo lời của ả.
[*] - Một vật dạng nhẫn nhưng dài hơn, đeo ở ngón tay cái, ban đầu vốn để đệm khi bắn cung, về sau được đeo như trang sức.
Lý Khác thản nhiên quét mắt qua từng khuôn mặt sợ hãi của mấy người bọn họ, rồi thình lình ngồi xổm xuống túm lấy tay Liễu Diệp nói: “Liễu Diệp, ngươi có thể nói cho bản vương biết, ngón tay này của ngươi dính thứ gì không?”
Liễu Diệp nhìn thấy vết màu xanh tím trên ngón giữa bàn tay phải, liền vô thức giấu tay ra sau lưng, gắng trấn tĩnh nói: “Cái này... nô tì cũng không biết, chắc là không cẩn thận bị dính phải khi ở trong phường nhuộm!”
“Không phải thuốc nhuộm, đây là nước ép hoa mai ngũ sắc. Một khi dính phải loại nước ép hoa này thì mấy ngày mấy đêm cũng không rửa được.” Lý Khác chỉ vào một chậu hoa đẹp lộng lẫy đặt trên giá hoa cách đó không xa, “Kỳ muội, con gái bọn em đều thích xinh đẹp, thích dùng nước ép hoa đủ các màu để làm phấn, song chắc sẽ không chọn mai ngũ sắc đâu nhỉ”
“Đây là mai ngũ sắc à?” Không đợi Kỳ Úc trả lời, Tô Việt đã tranh bước đến bên cạnh Lý Khác, nhìn theo hướng ngón tay y chỉ, “Tôi cứ tưởng đó là hoa phượng tiên cơ!”
Lý Khác liếc cô ta, bất giác nảy sinh đôi chút chán ghét. Không phải y không biết tâm tư của cô gái này, thái tử cũng từng bóng gió hỏi y có muốn lấy cô ta làm vương phi không. Nhưng đối với loại con gái uốn éo kiểu cách như thế này, y thật sự không mấy hứng thú, giờ chứng kiến bộ dạng lanh chanh bộp chộp của cô ta, y càng chướng mắt hơn.
Kỳ Úc thì lại chẳng để ý, chỉ khẽ gật đầu: “Mai ngũ sắc tuy đẹp, nhưng mùi khó ngửi, nếu pha trộn làm thành phấn, thì sẽ sinh độc tính nhẹ, dùng lâu dài sẽ không tốt cho cơ thể.”
“Liễu Diệp, ngươi nghe thấy chưa?” Lý Khác chậm rãi nói, “Nhìn qua thì mai ngũ sắc quả thật có phần giống với hoa phượng tiên. Xưa nay người luôn hầu tam phu nhân trang điểm, bà ấy cũng quen với son phấn mà ngươi pha chế, nhưng bà ấy chẳng thể ngờ rằng ngươi đã ấp ủ tâm địa xấu xa từ lâu. Sáng nay, độc của mai ngũ sắc tích tụ đã lâu đột nhiên phát tác, khiến tinh thần của bà ấy trở nên thất thường, nên bà ấy mới chạy ra ngoài như bị điên. Vì chạy quá nhanh, bà ấy bất cẩn đập đầu vào hòn non bộ. Mà người đầu tiên đuổi theo đến đó là ngươi vừa vặn đâm thanh chủy thủ đã chuẩn bị sẵn vào bụng bà ấy. Hổ khẩu bàn tay phải của ngươi đến giờ vẫn còn lưu lại một hẳn đỏ sâu, có thể tưởng tượng ra lúc đó ngươi cầm thanh chủy thủ chặt và dùng sức đến mức nào. Vừa nãy bản vương đã khám nghiệm vết thương trên bụng tam phu nhân, vết thương một dao trí mạng đó chạy dọc, lại vô cùng gọn, tuyệt đối không thể do một người tinh thần hoảng loạn tạo ra. Lúc đó người ra tay cực nhanh, lại thêm đám nha hoàn đuổi theo sau đã bị cảnh tượng đẫm máu đó dọa cho chết khiếp, vì vậy, họ căn bản sẽ không trút mối nghi ngờ lên đầu ngươi.”
“Mày thật sự đã ra tay giết mẹ tao sao? Uổng cho bà ấy bình thường đối tốt với mày như thế, mày lại lấy oán báo ơn!” Một bên tóc của Tô Việt xổ ra, nước mắt lại lã chã rơi, trông hơi thảm hại, nhưng lại khiến người khác xót thương. Cô quỳ gối trước mặt Lý Khác, kéo chéo áo y, than khóc: “Cầu xin điện hạ, ngài nhất định phải làm chủ chuyện của mẹ tôi.”
Lý Khác đỡ hờ cô ta một cái, lãnh đạm nói: “Tô cô nương không cần dùng đại lễ như thế, đây là trách nhiệm của bản vương, tất nhiên ta sẽ xử lý công bằng.”
Bây giờ nét mặt của Tô Việt mới hơi tươi lên, nhưng nét tươi này đối với một cô gái vừa mất mẹ ruột mà nói, rõ ràng rất trái lẽ. Liễu Diệp thấy đã hết hy vọng, mới đứng dậy chậm rãi cúi đầu. Mặt ả đỏ bừng kỳ dị, đôi mắt hạnh trợn rất to, không biết là sợ hãi hay là không cam tâm.
Tề Trưởng Thăng quát to một tiếng, mấy tay sai dịch cao lớn ở bên ngoài dạ ran xông vào phòng, trói quặt hai tay và ghì Liễu Diệp xuống. Lúc này Tô Đản mới thở phào nhẹ nhõm, hai bên tóc mai bạc phơ đã ướt đẫm mồ hôi, hai hàng ria mép run lên từng chập: “Đa tạ điện hạ đã giúp thần tóm hung thủ sát hại ái thiếp.”
Lý Khác nhìn ông ta, rồi lại nhìn sang đại phu nhân mắt sáng quắc đứng bên cạnh, cười đầy ẩn ý: “Tô công là nhạc phụ của thái tử, cũng coi như là trưởng bối của Lý Khác. Lý Khác không kham nổi chữ ‘tạ’ này.”
Tô Đản phát hiện ra giọng điệu kỳ quái trong câu nói này của Lý Khác, nhưng không dám hỏi, chỉ ngượng ngập cười xòa, mấy nếp nhăn nơi khóe mắt càng hằn sâu.
Lý Khác vừa định xoay người rời đi, bỗng hỏi thêm một câu: “Nhị phu nhân nhà Tô công qua đời vì chuyện gì ấy nhỉ, bản vương đột nhiên không nhớ ra.”
Tề Trưởng Thăng nghĩ bụng, hôm nay tôi vừa nói với ngài xong, trí nhớ của ngài cũng tệ thật đấy. Dù ông ta nghĩ như thế, nhưng tuyệt đối không dám nói ra. Tuy không biết tại sao Lý Khác lại nhắc đến nhị phu nhân, nhưng Tô Đản vẫn trả lời vô cùng kính cẩn: “Bẩm điện hạ, nhị phu nhân của thần qua đời vì mắc phải bệnh suyễn.”
“Hả? Vậy sao?” Lý Khác gấp chiếc quạt tơ tằm đút vào trong tay áo, “Trong phòng nhị phu nhân nhất định có để hoa tử kinh. Hoa tử kinh rất đẹp, nhiều người trồng nó trong vườn hoa để ngắm chơi.”
Cạch một tiếng, chiếc nhẫn đệm bằng ngọc trên ngón tay cái của đại phu nhân rơi xuống đất. Nha hoàn vội vã nhặt lên, thấy nó vẫn hoàn hảo nguyên vẹn, mới thở phào, lấy khăn lau chùi mấy lượt rồi đeo lại cho bà ta.
Lý Khác khẽ gật đầu với Tiêu Nhuệ, Tiêu Nhuệ hiểu ý đi theo sau y. Đúng lúc chuẩn bị rời đi, gã nghĩ ngợi một chút rồi vẫn nói: “Tô công phải khẩn trương chuẩn bị tang lễ cho tam phu nhân đi, hôm nay sẽ càng lúc càng nóng đấy.”
Đám ve sầu bên ngoài không biết đang nấp trong bóng cây nào, gân cổ kêu ran, càng nghe càng thấy muộn phiền. Tô Đản nhìn theo bóng dáng bọn họ rời đi, bất giác thấy lạnh sống lưng.
Gió chiều lùa vào qua tấm rèm xe, mang theo hơi nóng hầm hập. Tiêu Nhuệ cởi mũ bịt tóc xuống, xắn hai ống tay áo lên, cầm lấy quạt quạt lấy quạt để, nhưng chiếc áo bào bằng tơ màu tím sẫm trên người vẫn ướt đẫm mồ hôi quá nửa. Lý Khác thấy gã như vậy, liền nói: “Nhuệ ca, hôm nay nóng vậy sao?”
Tiêu Nhuệ đội lại mũ, thấy bộ dạng bình thản nhàn nhã của Lý Khác và Kỳ Úc, nghĩ bụng, trời hôm nay thật nóng, các ngươi cũng thật là không sợ nóng. Các ngươi... Tiêu Nhuệ kinh ngạc nhận ra, mình đã gộp hai người họ lại để bình luận như chuyện đương nhiên. Tiêu Nhuệ lại nhìn họ một lần nữa, thấy hai người ngồi sóng đôi, trông rất thích mắt vui lòng, quả thật là một cặp trời sinh.
Quan hệ giữa gã và Lý Khác tốt như vậy, nếu cha gã có ý tác hợp hai người họ thì có thể nói rõ ràng với gã, nhưng cha lại chỉ bảo gã chăm sóc Kỳ Úc cho tốt, hàm ý bên trong thực sâu xa gợi nhiều suy nghĩ. Từ lâu hoàng đế đã nói, bất kể Lý Khác ngắm trúng cô nương nhà nào, ông ấy đều tác thành cho. Chỉ là nếu cô nương này ưng người khác, thì với tính cách của mình Lý Khác cũng tuyệt đối không quấy rầy. Nhưng rốt cuộc người mà cha chọn là ai? Thái tử, Ngụy vương, hay là Tấn vương? Ngô vương tuy tốt, nhưng nói cho cùng vẫn không phải là con dòng chính. Trong chớp mắt, tâm tư của Tiêu Nhuệ đã xoay chuyển mấy vòng, cuối cùng dừng ở tiếng thở dài thườn thượt. Lý Khác... rốt cuộc vẫn là đáng tiếc.
Kỳ Úc thấy gã đã lâu không lên tiếng, không khỏi tò mò: “Tiểu thúc thúc đang nghĩ gì vậy?”
Tiêu Nhuệ từ từ định thần lại: “Rõ ràng Liễu Diệp là một con dao trong tay Tô đại phu nhân, sao vừa nãy tam đệ không trực tiếp vạch trần bà ta?”
“Tiểu thúc thúc không biết sao?” Khóe miệng Kỳ Úc hơi nhếch lên, “Ngô vương ca ca đang làm thợ săn đó!”
“Thợ săn?” Tiêu Nhuệ sửng sốt, suy nghĩ một hồi rồi lại hỏi, “Dụ rắn ra khỏi hang... Con rắn thật sự lẽ nào không phải là Tô phu nhân sao?”
Lý Khác lắc đầu, trong ánh mắt có một cảm xúc phức tạp khó mà nắm bắt: “Đất để trồng mai ngũ sắc không phải tầm thường. Sách cổ nói rằng, phải dùng mấy chục loại đất khác nhau ở nhiều vùng khác nhau, điều chế theo tỷ lệ tương ứng mà thành. Theo em biết, trong thành Trường An chỉ có một người có bản lĩnh này. Người phụ nữ đó cũng khá là thú vị.”
Kỳ Úc lấy tay chống cằm, vừa nghĩ vừa nói: “Ngô vương ca ca làm gì thì cũng phải cẩn thận. Bà Tô phu nhân đó xem ra không dễ đối phó như vậy đâu. Còn Tô Việt... hình như cô ta cũng khác hẳn mấy năm trước.”
Lý Khác nhìn vẻ quan tâm trong mắt nàng, trong lòng thấy ấm áp, nhưng không nói gì, chỉ gật đầu, quay sang bảo Tiêu Nhuệ: “Mấy ngày này Nhuệ ca dặn Tề Trưởng Thăng để ý đến Tô phủ một chút, đặc biệt là mấy loại người không phận sự gì cũng tới Tô phủ.”
Xe ngựa chầm chậm dừng ở cửa vương phủ. Quý Ân cầm một phong thư hồ hởi ra đón: “Điện hạ, đây là thư vừa nãy Đỗ Húc ruổi ngựa gửi tới.”
Lý Khác bóc thư, nhìn lướt một lượt, vẻ u ám trên mặt đã tan biến: “Biểu huynh nói, bọn họ đã đến Lạc Dương, chừng hơn mười ngày nữa là về đến nơi. Lâu rồi không gặp, nhớ huynh ấy thật đấy!”
Tiêu Nhuệ cũng mừng ra mặt, quay đầu nói: “Kỳ nhi, lần này cuối cùng cháu cũng có thể gặp Dương biểu huynh của cháu rồi.”
Sau khi trải qua mười bảy ngày nắng ráo, cuối cùng Trường An cũng đón cơn mưa mùa hạ đầu tiên. Mưa rơi lộp độp trên con đường lát đá, làm bắn lên những bọt nước li ti. Lũ trẻ đi chân trần dưới mưa, giẫm lên vũng nước chơi đùa, chỉ thoáng chốc đã bị giội cho toàn thân ướt sũng, bị cha mẹ véo tai lôi về nhà, chúng đau đớn kêu oai oái, nhưng vẫn nhìn lũ bạn lưu luyến không nỡ rời.
Trong điện phụ bên cạnh điện Hàm Trinh của Đông cung, Lý Thừa Càn đang buồn chán đi tới đi lui, chốc chốc lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Trên giá áo bên cạnh có treo một bộ chiến bào Đột Quyết, gã bước tới vuốt ve từ trên xuống dưới, ánh mắt tràn đầy vẻ ngưỡng mộ khát khao, dường như gã đã tưởng tượng thấy cảnh mình đang ở trên một thảo nguyên bát ngát, mặc áo giáp của Đột Quyết, cưỡi con ngựa cao lớn màu vàng nâu, tay cầm trường mâu, anh dũng hiên ngang lao đi giết kẻ địch xâm phạm. Gã thường nghĩ, chỉ cần để gã đến thảo nguyên, dù làm một tên lính quèn của tộc A Sử Na cũng tốt.
Lúc này, cửa đột nhiên phát ra tiếng động, gã ngoảnh đầu nhìn, chỉ thấy một tiểu thái giám cầm một thanh kiếm rất lớn trong tay, che khuất toàn bộ mặt. Tiểu thái giám giao kiếm cho thái tử, vừa đặt kiếm xuống, mặt hắn liền lộ ra, đó là một khuôn mặt còn xinh đẹp tinh tế hơn cả con gái, làn da trắng nõn, mắt phượng, mũi cao, môi chúm ch