← Quay lại trang sách

Chương 4 Sắc chiều bảng lảng

An Châu tháng Chín đã vào cuối thu, bầu trời xám xịt thoang thoảng hương hoa quế. Huyện Phục Thủy nằm ở phía Nam An Châu, vì nhà nhà thích trồng cây hoa quế nên còn có tên là huyện Quế. Huyện lệnh huyện Quế Nguyên Nhân Kiền trên dưới ba mươi, dáng người mảnh khảnh văn nhã, thích nheo mắt khi nói chuyện, ngữ điệu rất nhẹ nhàng: “Đô đốc nhìn xem, đường hai bên bờ vừa sửa, hai cây cầu cũng đã xây xong, người dân có thể đi lại thuận tiện hơn nhiều rồi.”

Về hai con đường này, Hồ huyện lệnh tiền nhiệm đã có dự định cải tạo lại, nhưng một là tốn rất nhiều tiền của, hai là cuối đường có ba hộ gia đình cư trú lâu đời, nếu muốn mở rộng thêm thì phải bảo bọn họ dời đi nơi khác sống. Vì vậy, Hồ huyện lệnh đã mấy lần phái huyện thừa đến thăm dò, nhưng ba nhà đó kiên quyết không chịu chuyển đi, thế là đành đem con bỏ chợ. Sau khi nhậm chức, Nguyên Nhân Kiền đã trực tiếp bẩm báo tình hình này cho Lý Khác biết, sau mấy lần kiểm tra thực địa, Lý Khác chi tiền từ châu phủ xây nhà mới cho ba gia đình đó, lại bồi thường thêm bạc, mới kết thúc êm đẹp việc này.

Lý Khác nhìn xung quanh, gật đầu nói: “Nguyên huyện lệnh giám sát xây dựng công trình này thật là vất vả, sau này ta nhất định sẽ thuật lại cặn kẽ công lao này trước mặt bệ hạ.”

Nguyên Nhân Kiền vái dài một vái nói: “Hạ quan không dám tham công, nếu không có đô đốc toàn lực giúp đỡ, việc này cũng không thể thành.”

Đang nói chuyện thì thấy Dương Chính Đạo dẫn theo Quý Ân, Quý Thành xách mấy giỏ rau quả lớn đi tới, mặt mày vui vẻ nói: “Thịnh tình khó từ chối, hạ quan đành nhận thay đô đốc.”

Nguyên Nhân Kiền toét miệng cười, đôi mắt híp lại chỉ còn một khe nhỏ: “Dương tư mã từng ở đây hơn nửa tháng, trăm họ đều nhớ lòng tốt của ngài mà! Ngài có nhớ cô gái hái chè đó không? Lần trước ngài nối xương giúp bà của cô ấy, nghe nói cô ấy thường đứng ở bên này cầu đợi ngài, hy vọng có thể gặp mặt cảm ơn ngài lần nữa.

“Ta vừa gặp cô ấy rồi. Nhìn đây..” Vừa nói Dương Chính Đạo vừa lấy ra một chiếc hầu bao nhỏ từ trong túi, “Cô ấy nhét nó cho ta rồi chạy vụt đi ngay.

Lý Khác nghe thấy câu này, không kìm được nhếch miệng cười ruồi, rủ rỉ bên tai gã: “Huynh nhận cho khéo vào, cẩn thận Tuyết Lộ muội muội ghen đấy.”

Mặt trời đã ngả bóng, mặt sông lấp loáng ánh chiều, bờ bên kia có mấy đứa bé khoảng bốn, năm tuổi đi chân đất nô đùa trong nước, làm một đàn cò trắng giật mình bay vụt lên. Trái tim Dương Chính Đạo bỗng run lên thật khẽ, nhưng ngay sau đó gã lại quay sang Nguyên Nhân Kiền nói với vẻ mặt thản nhiên: “Phục Thủy cũng không có tin tức của Hạ Thiệu Nghiêm sao?”

Lúc đó, ngoài sai người vẽ chân dung của Hạ Thiệu Nghiêm dán khắp đường lớn ngõ nhỏ trong thành An Châu, tăng cường ra ngoài thành tuần tra, Lý Khác còn phát công văn cùng tranh chân dung cho mười bốn huyện dưới quyền, hy vọng giăng được thiên la địa võng, không để cho hắn trốn thoát. Nhưng đến nay đã ba, bốn tháng trôi qua, vẫn không có tin tức gì. Nguyên Nhân Kiền cau mày, lắc đầu nói: “Vẫn chưa phát hiện ra tung tích của hắn. Nếu có thì hạ quan nhất định sẽ bẩm báo với ngài ngay.”

Lý Khác vung vẩy cánh tay phải, sau bao ngày toàn tâm điều trị, cánh tay y cơ bản đã hồi phục như ban đầu, ngoại trừ để lại một vết sẹo và mùa mưa dầm thì lại nhoi nhói. Tuy chuyện về Hạ Thiệu Nghiêm và Cảnh Nguyệt là một cú sốc lớn đối với y, nhưng với tư cách là trưởng quan của An Châu, y cũng không thể vì tình riêng mà cứ vướng vít mãi không buông vụ án này, bởi vậy hai tháng nay y đã gạt bỏ đi không ít. Bây giờ Dương Chính Đạo nhắc lại, y cũng chỉ hờ hững nói: “Hạ Thiệu Nghiêm là trọng phạm giết người, Nguyên huyện lệnh nhất định không được lơ là cảnh giác.”

Quý Ân, Quý Thành để đồ vào xe ngựa xong, liền dắt hai con ngựa qua. Lý Khác kéo dây cương, giẫm bàn đạp nhảy lên: “Muộn rồi, bọn ta đi trước đây”

Nguyên Nhân Kiền lại vái dài lần nữa nói: “Hạ quan xin tiễn đô đốc, tư mã.”

Trên đường về, Dương Chính Đạo nhìn vẻ mặt trầm tư suy nghĩ của Lý Khác nói: “Nghe nói Nguyên huyện lệnh còn là hậu duệ của tông thất nhà Nguyên Ngụy [*] , nhưng xem lời nói và cử chỉ, lại không giống tác phong dũng mãnh cứng rắn của họ Nguyên. Khác đệ, đệ lưu ý kỹ người này, y ắt sẽ thành trợ thủ của đệ trong tương lai.”

“Trợ thủ?” Lý Khác ngẫm kỹ hai chữ này, gật đầu nói, “Chính xác, dựa vào năng lực của y, chắc chỉ dăm ba năm nữa là có thể đạt được thành tựu.”

Dương Chính Đạo nghiêng đầu nhìn Lý Khác, câu sau cho thấy rõ ràng y không thật sự hiểu ý tứ trong lời nói của gã, nhưng gã cũng không giải thích thêm, chỉ ừm một tiếng, vỗ lưng ngựa để giục nó phi nhanh.

Còn chưa đến cửa phủ, đã thấy một chiếc xe ngựa mui cao chạy tới đón đầu, Lý Khác nhận ra nó, lòng không khỏi ngạc nhiên: Sao ông ta lại tới? Lần trước toàn nói những lời khó hiểu, lần này không biết định đến làm gì. Dương Chính Đạo xuống ngựa đưa dây cương cho hộ vệ trước cửa, xoay người nói luôn: “Đã nói rồi đấy nhé, lần này đệ đi mà tiếp chuyện ông ta.”

Vương Trung đã khác hẳn lần gặp trước, giữa đôi mày hằn rõ vẻ lo lắng. Ông già này xưa nay mặt mày hiền hậu, vậy mà giờ trông bộ dạng lại khiến người khác cảm thấy bất an vô cớ. Vương Trung vái sâu chào Lý Khác: “Nô tài tham kiến Ngô vương điện hạ, mời điện hạ cùng người trong phủ đến chính đường tiếp chỉ!”

Tiểu thái giám Sĩ Lộc đưa một cuộn thánh chỉ cho Vương Trung, Vương Trung hít sâu một hơi, thoáng do dự, cuối cùng vẫn mở ra, đọc chậm rãi: “Ngày mùng ba tháng Chín năm Trinh Quán thứ mười một, hoàng đế Đại Đường nói rằng: Trời đất yên vị, lễ vua tôi đã rõ ràng. Cao thấp đã bày, đạo làm người nay sáng tỏ. Người xưa có câu, trời xanh chẳng thân sơ, chỉ giúp người có đức. Lòng dân vốn vô thường, chỉ nhớ kẻ ban ân. Ngô vương Lý Khác là con yêu của trẫm, trẫm thường đích thân huấn luyện võ văn, dạy bảo lễ nghĩa. Trẫm lệnh cho ngươi làm sứ trì tiết [*] lo mọi việc ở An Châu, đại đô đốc An Châu. Hy vọng người đem lòng nhân hậu giữ yên lành cho địa phương, cởi khó khăn cho trăm họ. Nhưng người chẳng nhớ ơn vua sâu nặng, lệnh cha thân gần, lại dâm dật xa hoa, ăn chơi vô độ, cờ bạc mua vui, rượu chè đàng điếm, ngày đêm không ngớt. Há lại được như thế sao? Trẫm rất căm ghét việc này! Vì vậy phải cách chức đại đô đốc An Châu, cắt bổng lộc năm trăm hộ để trừng phạt làm gương, sớm về triều trực tiếp trình bày lỗi lầm.”

[*] - Tức nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều, vua họ Thác Bạt, sau đổi sang họ Nguyên.

Lý Khác hơi ngẩng đầu, vừa khéo nhìn thấy con sư tử ngọc ở chếch đằng trước. Con sư tử ngọc đó có bộ mặt hung tợn, dường như đang ngoạc cái miệng như chậu máu về phía y. Y khẽ rùng mình, Dương Chính Đạo từ từ vỗ lưng y, nhưng cũng không mở miệng.

Khang Kiện không chịu nổi đứng bật dậy, hễ nóng vội là giọng An Châu của hắn liền nặng thêm mấy phần: “Rõ ràng là nói linh tinh! Kể cả bệ hạ cũng không thể không phân biệt phải trái trắng đen xử oan người khác như vậy...”

[*] - Danh hiệu phong thêm cho các quan nắm giữ quân sự và chính trị ở một vùng.

“Khang Kiện, câm mồm!” Lý Khác quỳ thẳng người quát lớn.

Lúc này Khang Kiện mới giật mình nhận ra lời buột miệng vừa rồi thật quá mạo phạm, vội vàng khuỵu gối nói: “Hạ quan biết tội.”

Lý Khác thấy Vương Trung không có ý trách tội, lòng mới bớt căng thẳng, khấu đầu nói: “Thần tiếp chỉ, tạ ơn bệ hạ!”

Bên trong chính đường lặng phắc, làm tiếng gió thổi lá cây xào xạc ở ngoài càng rõ rệt gây khó chịu. Lúc Lý Khác đưa tay tiếp chỉ, Vương Trung tinh ý phát hiện ra vết sẹo ghê rợn trên cánh tay Lý Khác, lập tức đỡ y dậy hỏi: “Điện hạ bị thương khi nào vậy?”

Lý Khác đưa tay ra sau lưng, sau cơn kinh ngạc ban đầu vẻ mặt đã trở nên tĩnh lặng như nước: “Từ lâu lắm rồi. Chỉ là một vết thương nhỏ, công công không cần bận tâm.”

“Nô tài biết điện hạ phải chịu oan ức, nhưng bệ hạ cũng có nỗi khó xử của ông ấy” Vương Trung nhìn những biểu cảm khác hẳn nhau của mấy người trước mặt, chậm rãi nói, “Hôm đó trên buổi đại triều, Liễu ngự sử Liễu Phạm đột nhiên gạt đám đông bước ra, tâu lên đủ mọi việc làm xấu xa của ngài ở An Châu, chứng cứ xác đáng, không một kẽ hở. Bệ hạ bị các gián quan dồn ép, buộc phải ra quyết định ngay tại chỗ.”

“Rốt cuộc là chứng cứ như nào?” Quan trưởng sử phủ đô đốc Quyền Vạn Kỷ đã lâu chưa mở miệng giờ mới hỏi. Quyền Vạn Kỷ xưa nay nổi tiếng cương trực không a dua, nếu thật sự muốn cãi lý, chỉ e hoàng đế cũng phải nhường ông ta ba phần.

Vương Trung nói nhỏ: “Đó chắc là một bản lịch trình hằng ngày chi tiết, liệt kê rõ tất cả số lần và thời gian điện hạ đi lầu xanh quán rượu, ra ngoài cưỡi ngựa săn bắn trong hơn nửa năm qua. Liễu ngự sử nói, có người mật báo với ông ta rằng điện hạ ở An Châu làm càn làm bậy, chỉ biết an nhàn hưởng lạc..”

“Kẻ đó là ai?” Quyền Vạn Kỷ gần như nghiến răng nghiến lợi hỏi. Ông ta ở bên cạnh Lý Khác đã nhiều năm, rất hiểu Lý Khác là người như thế nào. Biết con không ai bằng cha, lẽ nào anh minh như bệ hạ mà cũng không hiểu thật sao? Dù bệ hạ thật sự vẫn còn đôi chút nghi ngờ, vậy thì chỉ cần phái một viên truất trắc sứ [*] đến An Châu bên ngoài quan sát, bên trong dò la là được; thanh danh làm quan của Lý Khác thế nào, chính tích ra sao, thực ra liếc qua là biết ngay, đến lúc đó ông ấy sẽ hiểu đây chỉ là một màn hãm hại vô cùng vụng về. Nhưng tại sao chưa điều tra mà bệ hạ đã trừng phạt nặng nề với lời lẽ nghiêm khắc như vậy? Ngay ông là người ngoài mà nghe cũng cảm thấy nguội lòng.

Vương Trung lắc đầu: “Đã là mật báo thì tất nhiên không biết từ đâu. Có điều, xin điện hạ yên tâm, nô tài nhất định sẽ nói trước cho bệ hạ biết những chuyện xảy ra ở An Châu. Sau khi ngài về lại giải thích cặn kẽ với ông ấy, việc này ắt sẽ qua ngay thôi.”

Vừa nghe câu này, Lý Khác biết ngay chắc chắn Vương Trung đã điều tra một lượt ở trong thành An Châu rồi. Y đi Mộ An các vì việc gì, và tại sao lại vào nhầm ruộng vườn của người dân, trong lòng Vương Trung chắc cũng thừa biết. Còn những chuyện ăn không nói có khác, Vương Trung có hiểu hay không thật ra cũng chẳng quan trọng. Vương Trung ban đầu xuất thân cung thất nhà Tùy, hầu hạ bên cạnh mẹ của Lý Khác là Hoài Dương công chúa từ rất sớm, cho nên luôn quan tâm đến chuyện của anh em y hơn chút đỉnh, có điều cũng chỉ đến vậy mà thôi, vì ông ta vốn là một người vô cùng thông minh, cũng vô cùng biết phận.

[*] - Chức quan điều tra khảo sát thành tích của các quan ở địa phương.

Lý Khác nghe xong, gượng nặn ra một nụ cười: “Đa tạ Vương công công nhắc nhở. Sự thật như nào thực ra không quan trọng, quan trọng là bệ hạ có tin hay không. Người đã nghi ngờ thì Lý Khác cũng không thanh minh nhiều làm gì.

Dường như Vương Trung không ngờ rằng y sẽ nói như vậy. Thực ra ông ta nắm rất rõ ngọn nguồn sự việc năm xưa, ông ta trơ mắt bất lực nhìn Lý Khác từ một đứa con làm nũng trong vòng tay cha trở thành một bề tôi giữ đúng lễ phép, tuân theo quy củ. Đây vốn không phải là nút chết, nhưng cả hai đều không sẵn lòng đưa tay tháo gỡ, để rồi đành phải làm tổn thương nhau như thế này. Nghĩ đến đây, Vương Trung gượng nuốt những lời muốn nói tiếp vào trong bụng.

Hai hôm sau, Dương Chính Đạo cầm hai xấp giấy dày vào thư phòng của Lý Khác. Lúc này Lý Khác đang nhắm hờ mắt nằm nghiêng người trên giường, dưới đất còn có một quyển sách cổ bằng thẻ tre. Dương Chính Đạo cúi xuống nhặt nó đặt trở lại bàn, rồi lấy một chiếc áo choàng da hổ trên giá đắp lên người y.

“Biểu huynh..” Dương Chính Đạo vừa định quay người rời đi, Lý Khác bỗng nhổm dậy nói, “Ta đáng ghét lắm phải không?”

Dương Chính Đạo biết y ám chỉ điều gì, nhưng không trả lời thẳng, mà trỏ vào hai xấp giấy nói: “Vương công công đặc biệt cho chúng ta hai ngày để chuẩn bị cái này. Đây là bản tấu sớ của hai mươi mốt quan viên trong phủ đô đốc, đây là tờ biểu của huyện lệnh một số huyện, đây là lời làm chứng của quan cai ngục và các ngục tốt, đủ để chứng minh đệ trong sạch.”

Lý Khác dụi mắt nói: “Vất vả cho họ rồi. Nhưng so với cái này đệ muốn biết kẻ muốn hại đệ là ai hơn.”

Dương Chính Đạo ngồi lên chiếc ghế đẩu bên cạnh y, nhìn ánh sáng vàng vọt từ từ đổ bóng trong mắt y: “Có thể biết chi tiết hành trình của đệ như vậy thì tất nhiên là người thân cận với đệ. Nếu thật sự biết hắn là ai, đệ sẽ làm gì hắn?”

Lý Khác đứng đó im lặng hồi lâu, lo âu cứ tới tuần hoàn, lòng nào phải chiếu cuộn tròn được đâu. Y luôn cố chấp muốn biết chân tướng, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ phải làm gì sau khi biết nó. Rốt cuộc trái tim y vẫn quá yếu mềm, dù cho kẻ đó đã uy hiếp tính mạng của y.

Dương Chính Đạo thấy y không lên tiếng bèn nói tiếp: “Nếu ta biết, ta sẽ giết hắn giúp đệ”

Lý Khác nhìn gã. Hôm nay gã mặc một chiếc áo bào lớn màu đỏ thêu hoa văn bảo tướng, càng tôn lên vẻ phong lưu tiêu sái, anh tuấn ngời ngời. Lý Khác khẽ lắc đầu: “Không cần đâu biểu huynh, kẻ như vậy không đáng để huynh ra tay, ta sẽ tự mình xử lý hắn.

Ngoài cửa sổ chim hót líu lo, màn sương mỏng lãng đãng trong đêm tối. Dương Chính Đạo nghe thấy câu nói kiện định khác thường này của y bèn bảo: “Đệ nhất định phải nói được làm được đấy nhé.”

“Hà cớ gì huynh lại cho rằng ta không làm được?” Lý Khác nói với giọng hơi pha trò, “Trong lòng huynh ta là một người nhu nhược như vậy sao?”

“Không phải nhu nhược, là nặng tình.” Chạm phải ánh mắt của y, Dương Chính Đạo nói rất chân thành mà lại thản nhiên, “Hôm qua đệ đi thăm mộ Cảnh Nguyệt là để tạm biệt cô ta nhỉ, nói cho cùng cô ta vẫn có chút sức nặng trong lòng đệ.”

“Đối với một người đã bầu bạn với mình ba năm, hy sinh tính mạng vì mình, thậm chí có thể giết người vì mình, lẽ nào ta phải hoàn toàn gạt bỏ nàng khỏi tâm trí sao?”

“Đệ không nên tha thứ cho một kẻ đã lừa dối đệ, cho dù mục đích của kẻ đó là gì.” Dương Chính Đạo đưa tay sờ chồng thẻ tre trên bàn, nói với giọng thâm trầm.

“Có lẽ huynh nói đúng” Lý Khác thu lại ánh mắt, ngẩng đầu nhìn thấy một ánh sao băng đang xẹt qua bầu trời.

Những ngày trời u ám ở thành Trường An luôn có phần ngột ngạt khó chịu, ngay cả lũ chim sẻ hay ca hát líu lo cũng uể oải đậu trên ngọn cây không buồn động đậy. Lúc Lý Khác về đến Trường An cũng lại là một buổi trưa âm u như thế. Y giao thanh bảo kiếm Thanh Hồng mà y nắm đến mức nóng sực lên cho Dương Chính Đạo, còn mình thì vào cung trần tình với hoàng đế trước.

Lý Khác mặc một chiếc áo bào màu đỏ dền thêu kỳ lân tơ vàng, mặt mũi ngời ngời, đôi mắt sáng quắc. Vòng qua đình Quy Vân, rẽ vào một khúc quanh là đến hành lang thông với điện Sùng Đức. Bỗng trông thấy thượng thư bộ Lại Trưởng Tôn Vô Kỵ đi đến trước mặt, đó là đại thần mà hoàng đế coi trọng nhất, lại còn là anh ruột của cố hoàng hậu, vì vậy dù không thân thiết với ông ta, Lý Khác vẫn chào hỏi rất lễ phép.

Đầu óc Trưởng Tôn Vô Kỵ đang mải nghĩ về những vấn đề liên quan đến việc sắp xếp cho bá tánh Đột Quyết mà ông ta vừa trao đổi với Lý Thế Dân, đột nhiên ngẩng đầu nhìn thấy Lý Khác ăn mặc như thế, ông giật nẩy mình, muôn ngàn hồi ức vấn vít trong tim. Thế là ông buột miệng gọi khẽ một tiếng: “Tần vương...”

Lý Khác hồ nghi hỏi lại: “Đại nhân nói gì vậy?”

Trưởng Tôn Vô Kỵ chợt phát hiện ra mình đã thất thố, không khỏi hoảng sợ, tim đập thình thịch, một lúc sau mới vái dài y một cái: “Chào Ngô vương điện hạ! Giờ bệ hạ đang đợi ngài ở trong điện đấy.”

Lý Khác không nghi ngờ gì, chỉ khẽ gật đầu với ông ta rồi đi tiếp. Trưởng Tôn Vô Kỵ ngoảnh đầu, nhìn xoáy vào bóng lưng của y, trong lòng từ từ dâng lên một cảm giác sợ hãi không sao giải thích được.

Vì đang là mùa mưa dầm nên trong đại điện buổi chiều vẫn thắp bốn ngọn nến lớn. Lý Thế Dân đặt bút đỏ xuống, gập bản tấu sớ trước mặt lại, chà chút vết mực dính trên ngón tay tay phải, khẽ thở dài: “Ngươi thật sự không muốn nói gì sao?”

Lý Khác chỉ cảm thấy hai đầu gối ngày càng tê rần, tim đập ngày càng dồn dập. Y cúi đầu, chỉ nhìn vào một tấc đất vuông dưới chân: “Cái gì đúng cái gì sai, bệ hạ tự đoán định được, thần không có gì để nói.”

Lý Thế Dân đập chát bản tấu sớ xuống bàn. Ông đứng phắt dậy, giận dữ ra mặt: “Nếu có người nói ngươi giết người phóng hỏa ở An Châu, ngươi cũng không biện bạch câu nào sao?”

Lý Khác từ từ ngẩng đầu lên, gắng gượng đè nén cảm giác chua chát muốn rớt nước mắt: “Bệ hạ sẽ không tin, phải không?”

Vương Trung dè dặt nhìn Lý Thế Dân, thấy mặt ông hơi giãn ra, mới yên tâm nhìn lảng đi. Sau khi nhận được những lời làm chứng đó, Vương Trung bảo Sĩ Lộc ra roi thúc ngựa suốt đêm, đưa đến tay Lý Thế Dân hai ngày trước khi họ về kinh. Lý Khác chỉ cần biện bạch thêm vài câu, không chừng ngay ngày mai có thể được khôi phục chức quan và số hộ được phong, nhưng y vẫn khăng khăng đánh cuộc bằng giọng điệu ấy, thật khiến người khác nóng ruột muốn chết.

“Ngươi đứng dậy đi, rồi ngồi xuống từ từ nói.” Xưa nay Lý Thế Dân vẫn không làm gì được trước thái độ này của y, lúc này cũng đành tự xoa dịu trước.

Lý Khác dạ một tiếng, lúc đứng lên hai chân mềm oặt, suýt nữa ngã xuống đất. Vương Trung vội bước tới, nhanh tay lẹ mắt đỡ y ngồi lên đệm mềm.

Lý Thế Dân nhấp một ngụm trà trên bàn, trầm giọng hỏi: “Cho ngươi đi An Châu là để nắm giữ đại cục, sao ngươi chỉ biết dây vào những chuyện vụn vặt tầm thường thế hả?”

Lý Khác vặc lại: “Những chuyện vụn vặt tầm thường mà bệ hạ nói có thể liên quan đến cái chết của mẹ thần. Người có thể không chút đoái hoài, thần thì không thể.”

“Điện hạ đừng nói nữa!” Câu này vừa vuột ra khỏi miệng, Vương Trung lập tức khuỵu gối quỳ xuống, dập đầu lia lịa, “Nô tài lỡ lời, xin bệ hạ thứ tội!”

Vương Trung căng thẳng chờ đợi cơn giận lôi đình như dự đoán, song chẳng biết đã qua bao lâu, ông mới nghe thấy Lý Thế Dân nói bằng giọng thản nhiên: “Ngươi lui ra trước đi!”

Lúc quay người rời đi, Vương Trung không khỏi nhìn Lý Khác lần nữa, trong lòng thầm nhủ: Điện hạ năm xưa chỉ nhìn thấy bệ hạ tỏ vẻ bình tĩnh, chứ đâu biết được chuyện ông ấy đau lòng đến mức thổ huyết giữa đêm khuya. Rất nhiều chuyện, rất nhiều người đều không như những gì ngài tưởng tượng đâu.

Đại điện lúc này chìm trong bầu không khí tĩnh lặng đến rợn người, ngay cả ánh nến cũng toát lên vài phần âm u lạnh lẽo. Lý Khác nắm chặt hai tay, vì dùng sức mạnh, y đã loáng thoáng nghe được tiếng khớp xương rắc rắc. Rõ ràng y đã vô số lần tự nhủ rằng tất cả đã qua, nên buông bỏ chấp niệm, buông tha chính mình, nhưng mỗi chập tối gió nhẹ thổi qua, nghe thấy tiếng lá khô rơi rụng, lòng y luôn cảm thấy hiu quạnh từng cơn, lạnh buốt từng cơn. Thế là rốt cuộc y vẫn nói ra, như trút bỏ gánh nặng lớn nhất trên người mình.

Lý Thế Dân nhìn chằm chằm vào mắt y rất lâu, trông thấy nỗi đau sâu sắc nhất trong đáy mắt y, ông đứng dậy, vỗ vỗ vai y, thở dài nói: “Vì chuyện của mẹ con, cha con ta đã xa cách nhau biết bao năm rồi, rốt cuộc con muốn ta làm thế nào thì mới hài lòng?”

“Con chỉ muốn biết chân tướng, và càng muốn chứng minh cha không phải là một người vô tình.” Lý Khác nghẹn ngào nói, trong lúc vô ý đã đổi cách xưng hô.

Lý Thế Dân hơi bực mình vì y chưa được như kỳ vọng: “Khác nhỉ, con biết tình cảnh năm đó phức tạp và nguy hiểm như thế nào không? Chúng ta cùng Đông cung và phủ Tề vương đã xung đột đến mức rút kiếm giương cung, con cũng thấy mẹ con vì ta mà chết rồi đó. Ta không biết lúc đó mục tiêu của bọn chúng rốt cuộc là ta hay là mẹ con. Giết ta, chúng sẽ nhổ được cái gai trong mắt; giết mẹ con, ta sẽ phải chịu nỗi đau thấu tim gan. Nếu ta cả ngày chìm đắm trong đau thương vì cái chết của mẹ con, thì tức là gian kế của chúng đã thành công. Chúng không chỉ ngồi ở nhà cười trên nỗi đau của người khác, mà sợ rằng sẽ lấy cớ Tần vương quyến luyến nữ sắc để hạch tội ta. Còn người trong phủ Tần vương thì nhất định sẽ quy kết nguyên nhân ta suy sụp hoàn toàn là do hồng nhan họa thủy. Con nói xem, nếu là con, con sẽ làm thế nào? Sẽ chỉ lo phát tiết cảm xúc của mình, để cho địch thủ chính trị hả hê, rồi lại để cho thuộc hạ coi thường sao?”

Lý Thế Dân gần như nói một hơi hết những lời này. Tuy đã mười hai năm trôi qua, nhưng khi ông nhắc đến chuyện này, vẫn có thể cảm nhận rõ rệt nỗi đau xuyên tim thấu cốt ấy. Ông không ngần ngại xé toạc vết thương cũ một lần nữa, chính vì đứa con đã làm tan nát trái tim mình này, ông thực sự không chịu nổi sự dò xét và hiểu nhầm của Lý Khác.

Lý Khác lại quỳ xuống đất, nước mắt tuôn rơi không kìm lại được. Rất nhiều chuyện nói ra rồi hóa ra cũng chỉ vậy mà thôi. Cuối cùng y cũng có được đáp án sau nhiều năm khổ tâm tìm kiếm, nhưng nó là thứ được đánh đổi bằng việc thưởng thức vết thương của người khác, mà người khác ấy còn là người cha đã cho y sinh mệnh. Dương Chính Đạo nói không sai, y thật sự cố chấp đến nực cười. Y lấy mu bàn tay lau nước mắt đã chảy đến khóe miệng, nhưng lại dằn lòng hỏi tiếp: “Những tên thích khách đó chịu sự sai khiến của đại bá và tứ thúc thật ư? Nhưng tại sao trên cánh tay bọn chúng đều có hình xăm hoa đào? Mà vừa hay con cũng phát hiện ra hai họa tiết giống hệt ở An Châu.”

“Ngoại trừ bọn chúng, ta không nghĩ ra còn có ai khác.” Lý Thế Dân nhìn viên ngọc mỡ dê trên cổ tay Lý Khác, lại nhìn sang hộp gấm gỗ lim tơ vàng ở trên bàn, lãnh đạm nói, “Song nếu con vẫn cố chấp muốn điều tra như thế thì con cứ việc đi. Trường An, An Châu, Giang Đô, Lạc Dương... đi đâu cũng được, miễn là con muốn.”

Bên ngoài trời bỗng đổ mưa, nước mưa nặng nề giội xuống mặt đất, gần như át mất giọng nói của Lý Khác: “Có mấy câu này của cha là đủ rồi. Có lẽ một ngày nào đó, chân tướng sẽ đập vào mắt con cũng chưa biết chừng... Cha, con xin lỗi.”

Cuối cùng lòng Lý Thế Dân cũng thoáng chút nhẹ nhõm hiếm thấy. Ông chợt nhớ đến một buổi sáng mùa hè vào năm Vũ Đức thứ bảy hay thứ tám gì đó, ông ôm Lý Khác ngồi trên đầu gối. Ông nói: Có lẽ cha sắp sửa đi làm một việc lớn, đi lấy một thứ vốn thuộc về mình. Lý Khác như hiểu như không, gật đầu nói: Vậy cha mau đi đi, nếu cha không tranh được với họ, thì sau khi lớn lên, Khác nhi nhất định sẽ giúp cha lấy về. Lúc nói câu này, Lý Khác chớp đôi mắt long lanh lấp lánh. Chính sự ấm áp và trong veo của đôi mắt ấy đã cho Lý Thế Dân niềm tin và sức mạnh cuối cùng.

Đứa bé năm đó, không biết tự bao giờ đã trở thành một chàng trai hào hoa phong nhã như thế này. Nó giống hệt ông, bất kể là dung mạo hay tính cách, thậm chí cả cái cố chấp làm người khác phát chán ấy nữa. Lý Thế Dân đưa tay đỡ y dậy: “Ngay hôm nay trẫm sẽ hạ chỉ kết thúc chuyện của con. Liễu Phạm không điều tra kỹ đã tin ngay vào mật báo, thật là hồ đồ. Song con cũng đừng mong đợi trẫm sẽ trút giận cho con. Ông ta là gián quan, luôn làm việc với thái độ thà tin là có, chớ ngờ là không, nên cũng không thể quở trách quá nhiều.”

“Phụ hoàng nói gì cũng hay cả.” Lý Khác không khỏi phì cười, chuyển chủ đề: “Còn biểu huynh...”

Lý Thế Dân nói: “Dương Chính Đạo văn thao võ lược chẳng kém gì con, tính tình lại trầm ổn hơn con. Trẫm sẽ không làm tội nó phải kè kè bên cạnh hỗ trợ con đâu.”

Lý Khác gãi đầu: “Phụ hoàng biết ý của con không phải vậy mà. Rốt cuộc bao giờ người mới ban hôn cho huynh ấy và Tuyết Lộ muội muội?”

“Nó còn không vội, con vội cái gì?” Lý Thế Dân trừng mắt với y, “Tuyết Lộ là viên ngọc minh châu trong lòng bàn tay Giang Hạ vương, chính mắt trẫm nhìn nó trưởng thành, con cho rằng trẫm có thể gả bừa nó cho bất cứ ai sao?”

“Nhưng biểu huynh đâu phải là bất cứ ai!” Lý Khác không khỏi hơi sốt ruột, “Hai người họ yêu thương nhau, người không được làm chuyện chia loan rẽ phượng đâu đấy.”

“Khâm Thiên giám vừa đến bẩm báo, bảo rằng mười sáu tháng Giêng năm sau là ngày đẹp hiếm có.” Lý Thế Dân lại ngồi xuống, nhìn nước trà trong chén từ từ bốc khói lên, “Hôn sự của hai đứa nó cứ làm theo quy chế quận chúa xuất giá là được. Còn con... có muốn trẫm tìm cho một vương phi nữa không? Nghe nói cô con gái nhỏ của Phòng Huyền Linh tài mạo song toàn, chắc là cũng xứng với con.”

Niềm phấn khích của Lý Khác vừa dâng thì lại bị câu nói sau cùng của Lý Thế Dân đè xuống, y nghĩ bụng: Con phá rối hôn sự của Tuyết Lộ và Phòng Di Trực, lẽ nào người muốn đem con bồi thường cho nhà họ sao? Đâu ra chuyện dễ dàng như thế? Thế là y liền xòe tay nói: “Không phải phụ hoàng thường bảo tâm tính của lục đệ bất ổn sao? Có lẽ kết hôn xong sẽ khá hơn đấy. Chưa biết chừng Phòng cô nương lại là lựa chọn đúng đắn.”

Lý Thế Dân ho sặc sụa vì câu nói của y, ông xua tay nói: “Ngươi về trước đi! Ở đây lâu, trẫm sợ sẽ không chịu được mà nổi giận với ngươi mất.”

Lý Khác đứng lên vái sâu một cái nói: “Như vậy cũng tốt. Quả thật con cũng không thể đảm bảo là sẽ không chọc giận người. Thôi người nghỉ ngơi đi ạ!”

Lúc Lý Khác rời khỏi điện Sùng Đức, mưa lớn đã ngừng, cầu vồng bảy sắc treo cuối chân trời. Những hạt mưa đọng trên nụ hoa đỏ bên ngoài đình Quy Vân trông rất đẹp mắt. Có lẽ vì giải tỏa được nỗi phẫn uất ứ nghẹn trong lòng nhiều năm, nên tâm trạng của Lý Khác rất tốt. Y ngẩng đầu nhìn trời, ánh nắng ấm áp rọi xuống, làm sáng bừng cả bầu không khí se sắt cuối thu. Lúc bước nhanh đến Huyền Vũ môn, y nghe thấy đằng sau có người gọi mình, quay đầu lại nhìn, cõi lòng đang yên ả bỗng chốc lại gợn sóng bốn bề.

Dương Dự có vóc dáng cao gầy, gò má hơi nhô ra, để râu dài khá gọn gàng, mặc trên mình bộ quan phục màu đỏ với hoa văn hạc ngậm dây thao. Nghe Vương Trung nói, một tháng qua, Lý Thế Dân nhiều lần triệu tập các thứ sử địa phương về kinh bẩm báo nhiệm vụ, chắc Dương Dự cũng nằm trong số đó. Từng cảnh tượng ở An Châu lại hiện lên trước mặt Lý Khác, y nhìn Dương Dự bằng ánh mắt u tối, lạnh lùng nói: “Sao hôm nay Dương thứ sử cũng ở trong cung, thật là trùng hợp!”

Tuy Dương Dự chẳng dám hy vọng Lý Khác thật sự coi mình là cha vợ, nhưng giờ nghe giọng điệu lạnh lẽo của y, còn tưởng rằng y bị hoàng đế cách chức gọi về kinh nên trút giận lên người mình, đành cười xòa nói: “Trưa nay bệ hạ triệu kiến thần về việc trị thủy ở Sùng Châu, sau đó thần lại đến Đông cung bái kiến thái tử điện hạ, điện hạ xem, mới đi ra chưa được bao lâu thì đã gặp ngài.”

Lý Khác nói bâng quơ với ông ta rất nhiều lời, đến cuối cùng mới hỏi: “Dương thứ sử không thèm hỏi lấy một câu về chuyện của Thư Yểu sao?”

Dương Dự sững sờ, chợt nhận ra hình như mình nên đau khổ vì việc này mới phải, đành gắng hết sức nặn ra vẻ bi ai của lá vàng tiễn lá xanh rơi. Nhưng trừ đôi mày hơi nhíu, ông ta thực sự không làm ra được biểu cảm gì khác, mãi sau mới hỏi với giọng khàn khàn: “Rốt cuộc Thư Yếu chết vì bệnh gì? Lúc lâm chung nó có lời gì muốn nói với thần không?”

Lý Khác khẽ hừ một tiếng: “Không phải Thư Yểu chết ngay trước mặt Dương thứ sử sao? Câu hỏi này của ông rất vô lý!”

Trong thoáng chốc Dương Dự mặt cắt không còn một giọt máu, hai tay khẽ run, ngay cả cơ thịt trên mặt cũng giần giật không ngớt. Chuyện ba năm trước nay lại chen nhau chui vào trong đầu, khiến ông ta muốn dừng cũng không thể.

Cảnh Nguyệt cúi đầu nói với ông ta: Xin thứ sử nén buồn, Dương cô nương đã đi rồi.

Vương Trung cười tươi rói giao thánh chỉ cho Cảnh Nguyệt: Tiếp chỉ xong, Dương cô nương đã là vương phi rồi.

Ông ta đuổi toàn bộ thị tì xuống, nửa dụ dỗ, nửa uy hiếp nói: Cảnh Nguyệt cô nương, cô nghĩ kỹ mà xem, làm khuê nữ nhà họ Dương chúng tôi thì cô cầm chắc trong tay vinh hoa phú quý nửa đời còn lại rồi.

Lý Khác thấy ông ta không lên tiếng, liền phất tay áo nói: “Cảnh Nguyệt cứu ta, cũng đã cứu cả ông. Sau này phải thế nào, ông tự mình cân nhắc mà làm đi!”

Dứt lời, Lý Khác đi thẳng không quay đầu lại. Dương Dự nhìn theo bóng lưng rời đi của y, bỗng cảm thấy như bị giội một gáo nước lạnh vào đầu, sau khi nỗi sợ hãi sâu sắc tan đi, trong ánh mắt liền xuất hiện một nỗi hận dằng dặc.

Lý Khác vừa ra khỏi Huyền Vũ môn, Quý Ân đã nhảy xuống xe ngựa vội vàng lại đón. Thấy nét mặt Lý Khác hồng hào, tay chân vẫn đầy đủ, Quý Ân mới gạt nước mắt nói: “Điện hạ không sao là tốt rồi, ngài làm ti chức lo chết đi được.”

Lý Khác vừa định an ủi hắn đôi câu thì lại thấy một thiếu niên mặc áo khoác màu tím đỏ lúc cúc chạy đến trước mặt, nắm lấy cánh tay y nói: “Cuối cùng cũng gặp được rồi! Ca ca, em nhớ ca ca lắm!”

Lý Khác vỗ nhẹ vào lưng cậu thiếu niên, thấy thị vệ xung quanh đều nhìn về phía này, liền dở khóc dở cười buông tay ra, gạt chiếc lá khô không biết dính trên tóc từ lúc nào cho cậu: “Giờ đã cao ngần này, cũng rắn rỏi hơn rồi, nhưng sao vẫn giống trẻ con không chịu lớn thế hả?”

Lý Âm thở phào, cười rằng: “Ca ca về là tốt rồi. Hôm đó phụ hoàng giận lắm. Em bảo là ca ca sẽ không làm chuyện như vậy, nhưng chưa bao giờ phụ hoàng nghiêm túc lắng nghe lời em cả.”

“Vậy thì đa tạ em đã nói đỡ cho ta.” Lý Khác đưa mắt nhìn cậu, mỉm cười nói, “Sao em lại tới đây?”

Mắt Lý Âm sáng ngời, khuôn mặt vẫn chưa trút bỏ hoàn toàn nét trẻ con: “Em đợi ở vương phủ từ sớm, sau đó thấy Trinh Khanh ca ca, liền đòi huynh ấy đưa em đến đây đợi ca ca.”

Nét cười trên mặt của Lý Khác càng đậm: “Phụ hoàng đã nói rồi, sắp đến ngày vui của Trinh Khanh ca ca và Tuyết Lộ tỉ tỉ của em. Tiếp theo chắc phải tìm vương phi cho em rồi. Đã thích cô nào chưa? Để ta đi nói với phụ hoàng cho.”

So với Lý Khác, Lý Âm trông càng giống mẹ hơn, nhất là nét duyên giữa mắt và lông mày. Đáng tiếc, lúc mẹ mất cậu vẫn còn quá nhỏ, tình cảm đối với mẹ kém sâu sắc hơn Lý Khác nhiều. Lý Khác từng kể tường tận mọi chuyện về mẹ cho Lý Âm nghe, cậu nghe đến mức phát chán, những lúc ấy Lý Khác thường sẽ vỗ đầu cậu với vẻ bất lực. Song về sau Lý Khác cũng nghĩ thông, có một số chuyện, cậu không biết cũng tốt, không biết thì có thể mãi mãi vô tư trong sáng như vậy, tuy liên tục mắc lỗi nhỏ, nhưng tự do tùy ý, sống một cách tiêu dao khoái lạc.

Giống như lúc này, cậu cười ngây ngô ngờ nghệch, vừa nghịch miếng ngọc bội màu đen đeo ở thắt lưng vừa nói: “Ca ca nói phải giữ lời, đừng có chơi xỏ đấy nhé.”

Mùa đông năm nay là một mùa đông ấm áp hiếm có trong những năm Trinh Quán, dù vào tháng Chạp lạnh nhất, trong phòng cũng chỉ cần đốt một chậu than là đủ. Từ nửa tháng trước, Lý Thế Dân đã hạ chỉ ban cho Dương Chính Đạo chức Tán kỵ thường thị, hàm chính tam phẩm hạ, phong tước Tuyên Bình hầu, đồng thời ban hôn với An Lăng huyện chúa Tuyết Lộ, trưởng nữ của Giang Hạ vương Lý Đạo Tông. Nhất thời, rất nhiều triều thần đổ dồn ánh mắt hâm mộ về phía vị hoàng tôn tiền Tùy này, nhưng số người khâm phục sâu sắc cái khí phách dùng người không nghi ngờ, cứ có tài là cất nhắc của hoàng đế thì còn nhiều hơn.

Ngày rằm tháng Giêng, Lý Khác mặc một chiếc áo đỏ tía thêu hạc gấm, tay phải nắm chặt quân cờ trắng, do dự giây lát, cuối cùng không muốn từ bỏ góc bên này. Khóe miệng Dương Chính Đạo nhếch lên một nụ cười tỏ ý đã tính trước mọi nhẽ, gã lấy ra một quân cờ đen từ bên cạnh và nhẹ nhàng đặt xuống. Lý Khác ngẩng đầu nhìn gã, nghĩ rằng chắc gã muốn bắt lớn thả nhỏ, từ bỏ cứ điểm quan trọng này. Nhưng nên nhớ nếu mất nó thì sẽ mất đi thành trì phòng ngự trọng yếu, quân trắng sẽ chiếm được toàn cục trong chốc lát, thế là y ra tay vây kín lại không chút do dự, rồi nhặt từng quân đen một bên trong ra.

Lý Âm ở bên cạnh nhìn họ không rời mắt, tuy cậu không hiểu lắm về tính khốc liệt của những tranh đoạt trong đó, nhưng cũng cảm thấy biểu cảm của hai người lúc ta công ngươi thủ, người tiến kẻ lùi này thật là thú vị. Dương Chính Đạo nhìn chằm chằm vào vùng đất vừa bị thất thủ của mình một lúc lâu, rồi đặt cờ nối liền các quân tại vùng biên lại, dù bị ăn tiếp, nhưng lại hình thành một vòng vây lớn nhanh như sét đánh không kịp bưng tai, cuốn sạch sành sanh toàn bộ cục diện mà quân trắng đã bố trí từ lâu, chẳng mấy chốc thắng thua đã định. Đột nhập vào bên trong thành lũy, làm kẻ địch lơ là, rồi kết nối với những bố trí bên ngoài, đây chính là kế sách của quân đen.

“Hay cho một chiêu đảo thoát ngoa [*] này! Đánh cờ quả thật cần dựa vào thiên bẩm. Biểu huynh, bất kể thế nào ta cũng không theo kịp huynh” Lý Khác hụt hẫng ra mặt, nhặt từng quân cờ trên bàn đặt lại vào trong chiếc hộp mây.

[*] - Một thế trong cờ vây, tự đặt mình vào thế bất lợi, nhử cho đối phương ăn, sau đó sẽ lật ngược thế cờ. Vì thế này thường hình chiếc ủng (ngoa) nên có tên như vậy.

“Bệ hạ bảo lúc đệ năm tuổi đã có thể cầm cự với ông ấy được mấy chục nước, đệ còn dám nói mình không có thiên bẩm sao?” Dương Chính Đạo không đồng tình, bóc hạt dẻ ở bên cạnh bỏ vào miệng, nói, “Lục đệ, em có thấy anh trai nhà em luôn mất tập trung khi chơi cờ không?”

Lý Âm lớ ngớ gật đầu: “Hình như là vậy.”

Lý Khác ngồi xổm xuống, dùng kẹp lửa gắp mấy hạt dẻ cuối cùng trong chậu than lên, ngước mắt nói: “Ngày mai phụ hoàng muốn đích thân chủ trì hôn lễ của huynh. Biểu huynh, ông ấy còn quan tâm đến chuyện của huynh hơn là của bọn ta nữa. Có phải không, lục đệ?”

Lý Âm vô thức gật đầu, rồi lại lập tức lắc đầu: “Em cảm thấy phụ hoàng vẫn đối tốt với ca ca hơn. Trong hơn một năm ca ca đi An Châu, mỗi lần phụ hoàng gặp em thì đều nhắc đến ca ca, nói hồi nhỏ ca ca tốt như thế nào, rồi lại nói hồi nhỏ ca ca không tốt ra sao...”

“Vậy thì em đừng để phụ hoàng lo lắng nữa!” Lý Khác đặt nhân hạt dẻ đã bóc xong vào tay Lý Âm, nhìn ánh hoàng hôn nhàn nhạt ngoài cửa sổ nói, “Bọn ta cũng phải về rồi. Biểu huynh, huynh nghỉ ngơi đi, mai chắc chắn là sẽ mệt cả ngày đấy.”

Giang Hạ vương gả con gái, lại đích thân hoàng đế làm chủ hôn, vì vậy phần lớn triều thần đều đến dự náo nhiệt, hưởng ké không khí vui mừng. Nhưng ngay từ nhỏ Lý Khác đã không thích những cảnh tượng quá náo nhiệt như thế này, có lẽ nói chính xác hơn thì, y không muốn nhìn cảnh vắng lặng sau khi tiệc tàn. Không bao giờ tụ, thì sẽ không phải tan.

Đến đêm, hoạn quan Trần Cần bên cạnh Lý Thế Dân mở cuộn chiếu thư bằng lụa, cao giọng đọc: “Giờ lành tối nay, An Lăng huyện chúa và Tuyên Bình hầu kết thân, sau khi tâm nguyện đã thành, ngàn năm muôn kiếp, gìn giữ cát tường. Vợ chồng ân ái, trai gái đủ đôi, con cháu đầy nhà. Nam mãi làm khanh tướng, nữ luôn sánh rể hiền.”

Vừa dứt lời, tiếng hoan hô trong đại sảnh vang lên như sấm dậy. Tuyết Lộ mặc một bộ áo cưới gấm Thục màu xanh ngải thêu hoa mẫu đơn tơ vàng, lấy quạt che mặt, đầy vẻ e lệ, nụ cười rạng rỡ như đào mận tháng Ba. Dương Chính Đạo nắm lấy tay nàng, thì thầm bên tai nàng mấy câu, nàng khẽ gật đầu, cây trâm mành mành vàng song hỷ phú quý trên mái tóc phát ra tiếng kêu trong trẻo. Đại lễ kết thúc, các hỷ nương và em gái ruột mười một tuổi tên Tuyết Nhạn của Tuyết Lộ đi cùng nàng đến phòng cưới đợi trước.

Tiếng ăn uống linh đình trong sảnh vang lên không ngớt. Lý Khác đợi đã lâu, cảm thấy hơi buồn bực, liền rời khỏi tiệc, ra vườn hoa trong phủ dạo chơi. Ánh trăng mười sáu sáng vằng vặc, quả thật là hoa đẹp trăng tròn người đoàn tụ. Lý Khác vừa đến lùm hoa mai thì thấy tiểu nô Đỗ Húc đang đưa một chiếc khăn ướt cho Dương Chính Đạo. Chắc tại mới uống quá nhiều rượu nên dáng đi của Dương Chính Đạo hơi liêu xiêu, mặt cũng đỏ phừng phừng. Lý Khác đang định tiến lên giúp đỡ, lại thấy đằng sau Dương Chính Đạo có một người chầm chậm bước tới, giọng nói của người đó trầm đục, toát lên ý quan tâm: “Dương công tử uống trà giải rượu này trước đi, có lẽ sẽ dễ chịu hơn đấy.”

Dương Chính Đạo nhận lấy chén trà, uống một hơi cạn sạch, quả nhiên có một luồng hơi mát từ cổ họng chảy thẳng xuống khoang bụng, chớp mắt đã cảm thấy đầu óc tỉnh táo hẳn. Nhìn thấy bóng Đỗ Húc cầm chén rỗng đã đi xa, Dương Chính Đạo mới ngồi lên chiếc đôn đá ở bên cạnh, nói: “Đa tạ thang thuốc mạnh của Liễu ngự sử.”

Liễu ngự sử? Đó là Liễu Phạm, người lúc đó chưa rõ phải trái trắng đen đã ở trên triều đường nói mình ham chơi quên chí, ăn không ngồi rồi sao? Lý Khác vừa nghe thấy tên người này liền không kìm lòng được mà dừng bước, núp vào vạt mai hoa nở um tùm để nghe ngóng. Liễu Phạm chắp tay thi lễ nói: “Chỉ là việc nhỏ nhặt tiện tay mà thôi. Dẫu sao hôm nay cũng là ngày đại hỷ của Dương công tử, uống thêm vài chén là chuyện thường tình.”

“Ý của ta không phải vậy.” Dương Chính Đạo nhướng mắt ra hiệu cho ông ta ngồi xuống, “Bản tấu sớ vạch tội Ngô vương đó... Liễu ngự sử dùng ngôn từ sắc sảo, lập luận đanh thép. Thảo nào dù bệ hạ tin tưởng Ngô vương hết mực, trong tình cảnh lúc đó cũng không thể không ra quyết định nghiêm trị.”

Liễu Phạm nhìn bóng mình dưới ánh trăng nói: “Miễn là Dương công tử sai bảo, hạ quan đương nhiên sẽ làm hết sức mình. Chỉ là chẳng hay kết quả này có như ý muốn của ngài không?”

Dương Chính Đạo xoa hình thêu mãng xà trên bộ áo cưới màu đỏ rực, quay lưng lại, không để cho Liễu Phạm trông thấy biểu cảm phức tạp thay đổi liên tục của gã lúc này. Gã nói với giọng ung dung: “Liễu ngự sử thấy sao?”

Liễu Phạm xoa tay nói: “Tuy hạ quan không biết mục đích thật sự của công tử, nhưng ngài đã tự mình ra tay thì hẳn là muốn không có sơ hở.”

“Không phải là không có sơ hở..” Giọng Dương Chính Đạo rõ ràng đã nhỏ đi nhiều, “Y thông minh như thế, sớm muộn cũng có ngày sẽ biết.”

“Thực ra, công tử đâu cần phải để ý đến cảm nhận của Ngô vương như vậy, sẽ gò bó tay chân ngài đấy.” Liễu Phạm nghĩ một chút rồi nói.

Dương Chính Đạo đứng dậy, mùi thơm miên man của hoa mai dần dần luồn vào trong tim phổi gã. Rõ ràng là ngày đại hỷ, rõ ràng sắp kết duyên trăm năm cùng cô gái gã yêu, rõ ràng tất cả đều rất thuận lợi, nhưng lúc này trái tim gã lại dần trĩu xuống, cho đến khi rơi vào vực tối sâu không thấy đáy. Gã thở dài nặng nề, khẽ nói: “Đâu phải ta không biết, nhưng ta chẳng thể nào làm ngơ.

Liễu Phạm không nói gì, chỉ hành lễ với gã một lần nữa, rồi xoay người rời đi trước, để lại một mình Dương Chính Đạo hẵng còn ngẩn ngơ nhìn vầng trăng tròn. Mãi đến khi đám mây cuối trời dần trôi tới, gã mới hoàn hồn, khôi phục được một chút tâm trạng hoang mang bất định. Vừa đi được hai bước thì nghe thấy Lý Khác trầm giọng gọi gã: “Biểu huynh.”

Dương Chính Đạo ngoảnh đầu, thấy đôi mắt Lý Khác lấp lánh khác thường. Dưới ánh trăng, chỉ có cặp mắt ngấn lệ mới có thể phát ra ánh sáng mãnh liệt như vậy. Bốn mắt nhìn nhau lâu thật lâu, rồi Dương Chính Đạo mới hơi chột dạ cụp mắt xuống, lòng bàn tay đã rịn mồ hôi lấm tấm: “Đệ đứng ở đây bao lâu rồi?”

Lý Khác cười nhạo: “Huynh còn nhớ lúc đó ta đã nói gì với huynh không? Ta sẽ tự tay giết kẻ đã bán đứng mình.” Nói rồi, y liền rút thanh chủy thủ khảm hồng bảo thạch giắt ở thắt lưng ra, vươn tay đâm vào ngực Dương Chính Đạo. Dương Chính Đạo không né tránh, lưỡi đao sắc bén chém rách chiếc áo bào gấm của gã trong nháy mắt. Ngay sau đó, Lý Khác lại ném phăng thanh chủy thủ xuống đất.

“Ta đã bảo từ lâu rồi, đệ quá mềm lòng, chỉ dám nói mà không dám làm. Dương Chính Đạo bình tĩnh cười, rồi lập tức vòng qua y tiếp tục đi.

“Huynh đứng lại! Huynh không có lời nào muốn nói với ta sao?” Giọng nói của Lý Khác đã đượm phần thê lương, “Ta từng nghi ngờ Quý Ân, Quý Thành, nghi ngờ Khang Kiện, nghi ngờ Vân Lĩnh, nghi ngờ bất cứ ai trong phủ đô đốc, thậm chí cả thầy ta cũng... nhưng ta chưa bao giờ nghi ngờ huynh. Biểu huynh, ta đã rút gan rút ruột ra đối đãi với huynh, huynh lại đối xử với ta như vậy sao?”

Dương Chính Đạo nhìn khắp xung quanh, chắc chắn rằng lúc này trong vạt mai chỉ có hai người họ, mới nghiêm mặt nói: “Đệ nói bé thôi! Ngộ nhỡ bị người khác nghe thấy thì không hay đâu.”

“Ta quang minh lỗi lạc, không sợ người khác nói ra nói vào. Chính huynh ấy! Ta hận không thể cho tất cả mọi người thấy Dương công tử phong độ ngời ngời trong mắt họ, sau lưng lại đi giở những thủ đoạn gì!” Lý Khác giận dữ nghiến răng nghiến lợi, nhưng bất giác vẫn hạ giọng, tiến sâu hơn vào trong vạt mai.

Gió lạnh từ từ thổi tới, bỗng chốc trong đầu Lý Khác có một tia chớp xoẹt qua: Không! Không đúng! Gã không phải là người như vậy. Gã sẽ giơ tay chắn trước mặt mình trước khi nguy hiểm ập đến mà chẳng cần suy nghĩ, gã sẽ hết lòng hết sức giúp đỡ những cái cố chấp không cần thiết của mình, gã từng nói sẽ mãi mãi đứng bên cạnh mình. Nếu ngay cả gã mà mình cũng không thể tin, vậy thì trên thế gian này còn có thứ gì là chân thật nữa đây?

Dương Chính Đạo biết Lý Khác hẳn đã hiểu rõ mọi chuyện trong một thoáng nhanh như tia lửa ánh chớp đó, liền chỉnh lại áo bào của mình, cúi người nhặt thanh chủy thủ khảm hồng bảo thạch lên nói: “Đa tạ Ngô vương điện hạ trong lúc mắng ta vẫn không quên khen ta! Thanh chủy thủ này là vật quý hiếm mà Cao Câu Ly tiến cống, bệ hạ tuy đưa nó cho đệ, nhưng không chừng một ngày nào đó lão nhân gia người sẽ hối hận, đến lúc đó đệ lấy gì mà trả đây?”

“Không cần huynh lo!” Lý Khác đoạt lấy thanh chủy thủ trong tay gã, đút vào vỏ giắt ở hông, “Sao huynh lại to gan như vậy? Ta không nghi ngờ huynh không có nghĩa là bệ hạ sẽ không nghi ngờ huynh, đến lúc đó ta biết làm thế nào?”

Dương Chính Đạo tiện tay ngắt mấy đóa mai trên cành, vò đi vò lại trong lòng bàn tay đến khi nước hoa dính đầy: “Lần đầu tiên gặp đệ, ta đã biết trong lòng đệ ẩn giấu tâm sự. Rõ ràng thiên phú khác thường, lại chưa từng bộc lộ tài năng. Bệ hạ có lòng bồi dưỡng đệ, đệ thì toàn lúc gần lúc xa. Đệ tự xin đi An Châu là bởi muốn tránh nơi khiến đệ vừa yêu vừa hận này. Nhưng Khác đệ à, có những thứ đệ nên đi tranh lấy. Vì dẫu đệ không tranh thì cũng có người sẽ cho rằng đệ muốn tranh, đệ không thể gánh suông tội danh này. Về phần bệ hạ... người con trai ông ấy yêu mến nhất cam tâm tình nguyện trở về bên cạnh ông ấy, lại còn cởi được nút thắt trong lòng nhiều năm qua, dù ông ấy có biết là ta làm, cũng...”

“Huynh đang nói nhăng nói cuội gì thế?” Lý Khác không đợi gã nói xong, liền bóp chặt cổ tay gã, “Đây là tội khi quân đấy! Tuy bệ hạ rộng lượng, nhưng huynh vừa làm mâu vừa làm thuẫn như vậy, chơi đùa ông ấy trong lòng bàn tay, ông ấy thật sự tha cho huynh được sao?”

“Nếu bệ hạ thật sự muốn trị tội, đệ phải cầu xin giúp ta đấy.” Dương Chính Đạo rảo bước một hồi, mới quay đầu vái dài y một cái, “Còn chưa chính thức cảm tạ đệ nhỉ, ông mai!”

Lý Khác nhìn theo bóng lưng rời đi của gã hồi lâu, trong lòng chợt dâng lên một nỗi hoang mang chưa từng có. Biểu huynh bảo y tranh cái gì? Sự coi trọng và yêu quý của cha, hay thứ quyền lực mà y chưa bao giờ muốn dây vào? Nhưng bất kể là gì, y sẽ không tranh, cũng không được tranh.

Cơn gió lạnh thổi rụng một chùm mai đỏ trên đầu cành. Lý Khác không khỏi cười khổ: Biểu huynh, ta mãi mãi không thể trở thành loại người mà huynh muốn ta làm. Những gì huynh làm vì ta, những gì huynh muốn đạt được, e rằng cuối cùng chỉ uổng công vô vọng mà thôi.

Qua một đêm tuyết rơi nhẹ, mấy cây mai đỏ cạnh đình Quy Vân nở rộ đẹp hơn trước nhiều, bông tuyết dính trên cành mai đỏ dần tan thành nước, bất ngờ nhỏ lên má của những cung nhân đi ngang qua. Họ làu bàu đôi câu, lại càng rảo bước nhanh hơn.

Vương Trung bưng một bát canh hạt sen hoa quế táo đỏ nóng hổi đến trước mặt Lý Thế Dân nói: “Đêm qua bệ hạ làm chủ hôn cho Tuyên Bình hầu và An Lăng huyện chúa, qua giờ Sửu mới ngủ, hôm nay lại không thiết triều, sao không dậy muộn hơn một chút ạ?”

Lý Thế Dân múc nửa thìa canh hạt sen đưa vào miệng, nghe tiếng than nổ lép bép trong chậu sắt, chẳng để ý đến lời nói của Vương Trung, lại hỏi một câu như thể vu vơ: “Ngươi có cảm thấy trẫm đối đãi với Dương Chính Đạo hơi tốt quá không?”

Vương Trung chợt dừng việc đang làm, dè dặt lựa lời: “Bệ hạ dùng người dựa vào tài năng, làm như thế nào cũng đều đáng cả.”

Lý Thế Dân lắc đầu chẳng bảo đúng sai: “Nó có tài, nhưng dưới vòm trời này đầy người tài giỏi hơn nó. Song cũng chỉ có nó mới tháo gỡ được tình thế khó khăn của trẫm.”

“Ý của bệ hạ là... Ngô vương?” Vốn dĩ Vương Trung không muốn lên tiếng, nhưng vẫn không kìm nổi nói ra những lời đã đến cửa miệng.

Nét mặt của Lý Thế Dân vô cùng bình tĩnh, nhưng trong mắt lại lóe lên tia sáng sâu thẳm mà lạnh lẽo. Ông nhìn những cánh hoa quế trong bát canh, chậm rãi nói: “Ngay cả lúc trẫm cử ngươi đi An Châu tuyên chỉ, trẫm cũng chưa nhìn thấu kế sách của nó. Thằng nhóc này hiểu tâm tư trẫm, hiểu tâm tư của Lý Khác, lại thông minh! May mà nó hết mực trung thành với Lý Khác, chẳng nảy sinh lòng dạ bất chính gì, bằng không, trẫm tuyệt đối không tha cho nó!”

Không biết tại sao Vương Trung lại thấy hơi lạnh sống lưng, chỉ biết dạ vâng: “Bệ hạ thánh minh!”

Lý Thế Dân ăn xong thìa canh hạt sen cuối cùng trong bát, khóe miệng khẽ nhếch lên: “Ngươi cũng rất quan tâm đến Lý Khác, phải không?”

Hai chân Vương Trung mềm nhũn, lão bất giác khuỵu gối xuống đất, trầm giọng gọi: “Bệ hạ...”

“Quan tâm thì quan tâm thôi! Ngươi căng thẳng cái gì?” Mấy tiểu thái giám ở bên cạnh mang khăn và chậu rửa tay tới, Lý Thế Dân vừa nhúng tay vào nước ấm vừa nói: “Còn không mau đứng lên! Nếu Nhiêm nhi còn, lẽ nào có thể trách ngươi quan tâm đến con của nàng ấy sao?”

Nhiêm Nhi - Đó là nhũ danh của Hoài Dương công chúa. Vương Trung không nhớ nổi đã bao nhiêu năm Lý Thế Dân không gọi cái tên này rồi, đến nỗi ông ta còn không nhớ ra ngay được “Nhiêm nhi” là ai. Khi ông ta quay lại thì các tiểu thái giám đã tự giác lui xuống. Ông ta bèn nói: “Đa tạ bệ hạ! Nếu không có công chúa, sợ là nô tài không sống quá mười lăm tuổi, nên nô tài mới..”

“Trẫm hiểu.” Lý Thế Dân chỉnh lại mũ bịt tóc theo thói quen, đi thẳng ra ngoài điện, “Lát nữa người đến phủ Ngô vương bảo nó vào cung một chuyến, trẫm có chuyện muốn nói với nó.”

Vương Trung “vâng” một tiếng, rồi rời đi với bước chân nhẹ nhõm.

Lý Khác vào cung đúng lúc giữa trưa. Lúc này Lý Thế Dân đang ngoáy bút phê duyệt tấu sớ, một cung tần khoảng mười lăm, mười sáu tuổi đang chuyên tâm mài mực cho ông. Sau khi bước vào trong điện, Lý Khác liền cởi chiếc áo choàng lông cáo màu nâu sẫm trên người xuống, đặt vào tay Sĩ Lộc, rồi hành lễ theo phép tắc.

Lý Thế Dân gật đầu, nói với cung tần ở bên cạnh: “Mỵ Nương, bái kiến Ngô vương đi.”

Võ tài nhân vội tiến lên hai bước, chắp tay nhún mình chào: “Thiếp thân tham kiến Ngô vương điện hạ.”

Lý Khác đáp lễ nói: “Tài nhân khách sáo rồi.”

Võ tài nhân vô tình liếc qua dung nhan của Lý Khác, thấy nét mặt y điềm đạm ôn hòa, cả người trông có vẻ tiêu sái hào sảng, anh tuấn rạng ngời, không khỏi khen thầm trong bụng: Đúng là một nhân vật phong lưu tuấn nhã!

Lý Khác nhìn thấy vẻ mặt mệt mỏi của Lý Thế Dân, liền ân cần hỏi: “Phụ hoàng vẫn khỏe chứ?”

Lý Thế Dân gập bản tấu sớ trong tay lại, nhấp một ngụm trà hồng sâm mà lần trước nước Tân La tiến cống: “Không sao. Chỉ là vừa bị Tiêu Vũ và Trưởng Tôn Vô Kỵ làm ầm ĩ đến đau cả đầu.”

Hai người này đều là trọng thần từ cuối thời Tùy đến nay, Tiêu Vũ giữ chức ngự sử đại phu, Trưởng Tôn Vô Kỵ làm thượng thư bộ Lại, hai người đều nắm quyền tể tướng. Xưa nay tuy họ thường có chút bất đồng, nhưng chẳng qua là tranh cãi về quan điểm chính trị. Lý Khác cảm phục họ Tiêu chính trực dám nói, lại vì Tiêu Nhuệ, nên hiển nhiên y có thiện cảm với người ông trẻ này hơn Trưởng Tôn Vô Kỵ nhiều.

Lý Khác tò mò hỏi: “Phụ hoàng mà cũng không làm người hòa giải được sao? Rốt cuộc là vì chuyện gì ạ?”

Lý Thế Dân nhìn y, ánh mắt mang theo vẻ yêu thương vô hạn: “Còn không phải vì con sao! Trưởng Tôn Vô Kỵ nói, chuyện của con đã kết thúc rồi thì nên sớm khôi phục chức vị đô đốc cho con, để con về An Châu nhậm chức.”

Lý Khác nói chẳng cần suy nghĩ: “Ông ta nói không sai!”

“Con nôn nóng muốn đi thế à?” Lý Thế Dân trừng mắt nhìn y, bực mình nói, “Xem ra trẫm đã uổng phí tâm tư vì con rồi.”

Lý Khác chợt thấy trái tim nặng trĩu, không biết sắp rơi xuống xó xỉnh nào. Năm đó y tự xin đi nhậm chức ở địa phương, là vì khát khao tìm kiếm chân tướng sự việc năm xưa đè nén đến mức không thể không chạy trốn. Đến nay... dù chân tướng vẫn chưa thực sự sáng tỏ, dù chỉ cần ngày nào chưa tìm thấy Hạ Thiệu Nghiêm là ngày ấy y vẫn chưa yên lòng, nhưng rốt cuộc tâm trạng y lúc này lại không giống khi đó. Thay cho nỗi khát khao kia là niềm lưu luyến mãnh liệt, không nỡ rời xa cha, cũng không nỡ rời xa anh em bạn thân của y.

Y im lặng rất lâu rồi mới nói: “Vậy phụ hoàng định thế nào?”

Lý Thế Dân thấy Võ tài nhân đang cẩn thận bỏ thêm trầm hương đen vào trong chiếc lư nhỏ hình chu tước ở bên cạnh, liền xua tay với cô: “Ngươi lui xuống trước đi.”

Võ tài nhân vội cúi đầu hành lễ, trên búi tóc đôi rủ xuống của cô cài cây trâm bạc hình hoa ngọc lan, hai viên trân châu đính bên cạnh đung đưa thành tiếng khe khẽ. Cô chỉ nói: “Thiếp thân cáo lui”

Mùi trầm hương đen thoang thoảng lững lờ lan tỏa trong không trung, chầm chậm thấm vào gan ruột, làm người ta bất chợt nảy sinh biết bao nhiêu là khoan khoái. Lý Thế Dân nói: “Trẫm sẽ để con lĩnh chức đô đốc An Ch