Chương 7 Tề vương mưu phản
Sau khi tiếp nhận ý chỉ của hoàng đế, sai chuẩn bị tốt cho hôn sự của Ngô vương, bộ Lễ không dám lơ là dù chỉ một phút, thượng thư bộ Lễ gần như ngày nào cũng đến vương phủ. Trước đây người ta luôn nói Ngô vương không mấy chú trọng đến những nghi lễ bề ngoài, nhưng lần này y lại rất nghiêm túc, ngay cả lễ phục của vương phi thêu mấy bông hoa mẫu đơn cũng phải đích thân hỏi tới, làm cho thượng thư bộ Lễ xây xẩm mặt mày.
Ngay cả năm xưa Ngụy vương lấy vợ cũng không kén chọn như y! Thượng thư bộ Lễ nhìn một dãy thuộc hạ đang đứng gục đầu ủ rũ trước mặt, không khỏi thầm oán trách, song vẫn nói với vẻ mặt vô cùng nghiêm túc: “Ngô vương điện hạ đã không hài lòng, sao còn không đi chuẩn bị lại, đến kể khổ với bản quan thì có tác dụng gì?”
Mãi tới ngày mười tám tháng Mười một, phường dệt mới giao áo cưới của vương phi đến tay Kỳ Úc thông qua bộ Lễ. Tiêu Vũ xem xét tỉ mỉ áo cưới mấy lần, cảm khái nói: “Kỳ nhi, Ngô vương quả thật hết lòng vì con. Chỉ là đối với con, đối với họ Tiêu nhà chúng ta, có lẽ y không phải là chàng rể phù hợp nhất.”
Kỳ Úc sờ một đám mây lành được thêu bằng tơ vàng trên áo cưới, kinh ngạc nói: “Đến giờ này rồi, sao ông trẻ còn nói những lời như vậy? Người... không thích chàng ư?”
“Không, hoàn toàn ngược lại, lão phu khá thích y.” Tiêu Vũ xua tay đuổi đám hầu gái ra khỏi phòng, “Ngô vương luận về võ không thua thái tử, luận về văn không kém Ngụy vương. Nhưng thái tử buông văn, Ngụy vương bỏ võ. Chỉ có Ngô vương là văn võ song toàn, lại thêm tính cách khiêm tốn chừng mực, làm người hay xử thế không tự ti không kiêu ngạo, tông thất và triều thần đều đánh giá về y rất tốt. Hơn nữa, mẹ y là cháu gái bên ngoại của lão phu, chúng ta vốn là thân thích.”
Kỳ Úc lại càng hoang mang hơn: “Đã thế thì sao ông còn nói như vậy?”
“Chính vì điểm cuối cùng mà lão phu vừa nói đó” Tiêu Vũ vuốt chòm râu dài, “nếu mẹ y là tiên hoàng hậu, hoặc bất kỳ phi tần nào trong hậu cung, dù chỉ là một thái nữ nhỏ bé, thì y với con sẽ là một đôi trời sinh đất tạo. Kỳ nhi, con thông minh như thế, ông nói vậy con có hiểu không?”
Ánh mắt của Kỳ Úc trở nên nghiêm nghị, rồi lại giãn ra ngay lập tức: “Ông trẻ nghĩ nhiều rồi, Ngô vương ca ca là con trai ruột của bệ hạ mà! Ngay Dương biểu huynh mà bệ hạ còn đối tốt như thế, huống chi là chàng?”
Tiêu Vũ lắc đầu: “Con bé ngốc này, con cho rằng bệ hạ thật sự có thể trường thọ vạn tuế ư? Cây cao vượt rừng gió ắt quật! Chuyện tương lai... thật sự khó nói. Nếu con hối hận, kể cả lúc này, ông vẫn có cách để con lùi bước thoát thân.”
“Ông trẻ à, con muốn lấy chàng, thật lòng thật dạ muốn sống cùng chàng cả đời. Ánh mắt của Kỳ Úc kiên định khác thường, “Con tin chàng, không phải vì chàng là Ngô vương, mà vì chàng xem con là duy nhất trên đời này, còn con cũng coi chàng trên đời này là duy nhất. Chàng từng nắm tay con, hứa sẽ trọn đời bên con trước mộ của mẹ chàng. Ông trẻ à, một người đàn ông như vậy, con thật sự không thể buông tay, cho dù sau này phải cùng chàng rơi xuống vực sâu, con cũng chấp nhận.”
Tiêu Vũ nhìn vẻ cố chấp khiến người ta xúc động của cô cháu gái, sóng lòng cuồn cuộn không nguôi. Giả như muốn nên việc lớn, Kỳ Úc và Lý Khác không phải là không thể thành hôn, thậm chí ban đầu ông còn định thúc đẩy hai người tới với nhau, có điều đây tuyệt đối không phải là cách tốt nhất. Ông đã tính đủ mọi chuyện, nhưng lại bỏ sót lòng người. Giờ hai đứa đã tốt đẹp như thế, e là ai thấy cũng không nỡ tách rời. Nghĩ đến đây, ông liền vỗ vai Kỳ Úc, giọng cũng dịu đi vài phần: “Thôi được rồi, con đã nói vậy, lão phu cũng không còn gì để nói. Chỉ mong, tất cả chỉ là lão phu lo lắng không đâu.
Kỳ Úc nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy một bầy nhạn bay qua bầu trời. Trái tim nàng bỗng thấy ngọt ngào quá đỗi, đó là cảm giác mà chỉ những cô gái đang khát khao hạnh phúc mới có. Nàng mỉm cười, thầm nghĩ: Ngô vương ca ca, chúng ta sẽ sống hạnh phúc bên nhau.
Ngày mùng hai tháng Hai, vầng dương lười biếng ló nửa đầu ra khỏi tầng mây dày đặc, rắc xuống mặt đất những tia nắng ấm áp. Kỳ Úc ngồi trước bàn trang điểm, dường như rất tò mò với chính mình trong gương. Bạch Đàn đang tỉ mỉ chải tóc cho nàng, mái tóc đen dày của nàng được tết thành rất nhiều bím nhỏ, những bím tóc nhỏ lại được tết làm mười lăm bím lớn, rồi vấn thành một búi tóc mây tinh tế quý phái. Khuôn mặt trắng ngần của nàng được xoa thêm một lớp phấn mỏng, không quá nhạt, cũng không quá lòe loẹt. Tai đeo đôi bông tai bảo thạch lớn màu đỏ. Trên cổ là chiếc vòng vàng chạm hoa mẫu đơn, bên trên xâu miếng ngọc Hòa Điền chạm hình tỳ hưu. Trên đại ngọc quanh thắt lưng đeo một chiếc túi tỏa lân [*] lớn màu đỏ, mang ý nghĩa đông con nhiều phúc.
Ăn vận như thế này không chỉ làm nổi bật dáng thướt tha muôn vẻ phong tình của thiếu nữ, mà còn lột tả rõ nét vẻ đoan trang cao quý của một vương phi là nàng. Ngay cả Bạch Đàn đã hầu hạ nàng từ nhỏ cũng không kìm được mà ngắm kỹ một lúc lâu, sau đó cười rằng: “Cô nương ăn vận như thế này trông giống hệt tiên nữ giáng trần! So với dáng vẻ lúc mặc đồ cưỡi ngựa rõ ràng như hai người khác nhau! E là ngay cả Ngô vương điện hạ cũng không nhận ra người ấy chứ!”
Bạch Đàn còn chưa dứt lời, nhũ mẫu Bạch ma ma trước kia luôn ở bên cạnh dạy nàng phép tắc lại nói: “Sau khi cô nương thành thân, không được cưỡi ngựa chạy lung tung khắp nơi như ngày xưa, phải biết giúp chồng dạy con, làm một người vợ hiền của Ngô vương điện hạ.
Bạch Đàn nghe xong, không kìm được nói: “Mẹ lại sắp lôi mấy thứ quy củ lễ giáo ấy ra rồi. Ai bảo con gái lấy chồng thì nhất định phải chịu gò bó trong khuê phòng, ai nói thường xuyên cưỡi ngựa bắn cung thì không thể trở thành vợ hiền? Không phải Ngô vương điện hạ thấy tài cưỡi ngựa tinh thâm của cô nương nhà chúng ta nên mới đem lòng yêu mến sao?”
[*] - Túi thêu hình kỳ lân, vì đường chỉ dày đặc nên gọi là tỏa (khóa).
Kỳ Úc thấy Bạch Đàn nói đỡ hộ mình, đang thích thú trong lòng, bỗng nghe được nửa câu sau, mặt liền đỏ ửng lên, quay sang bóp tay ả, nói khẽ: “Con bé quỷ này! Ai kêu ngươi lắm lời thế!”
Đang nói thì thấy Họa nhi dẫn một cô bé khoảng mười ba, mười bốn tuổi bước vào. Cô bé đó mặc một bộ áo váy rộng màu đỏ thêu hoa thược dược ngang ngực, quấn búi tóc đôi, và có đôi mắt to đen lay láy. Cô chạy tung tăng đến trước mặt Kỳ Úc, chiếc lục lạc bạc trên cổ tay phát ra tiếng kêu lanh lảnh: “Tỉ tỉ đẹp thật.”
Kỳ Úc kéo tay cô bé, chọn ra một cây trâm ngọc nạm mã não đỏ trong hộp trang sức rồi cài lên tóc cô: “Hôm nay tứ muội ăn mặc cũng xinh lắm!”
Vì dòng chính nhà họ Tiêu không có con gái vừa tuổi để làm người đưa dâu, cho nên Tiêu Vũ đành chọn cô cháu gái Miên Man của dòng thứ đi cùng. Cha cô bé là Tiêu Minh, khi giữ chức cấp sự trung ở trung thư tỉnh, ông ta và Tiêu Vũ khá hợp ý nhau, là đôi bạn vong niên; vả lại rốt cuộc vẫn có tình cảm họ hàng, nên mấy năm nay hai nhà qua lại vô cùng gần gũi. Hồi còn sống, Tiêu Huyễn từng đưa Kỳ Úc đến ở trong phủ của Tiêu Minh một thời gian, lúc đó Kỳ Úc và Miên Man gần như ngày nào cũng chơi cùng nhau, hai người gọi nhau là tỉ tỉ muội muội, quan hệ rất thân mật.
Miên Man vuốt ve chiếc túi tỏa lân trên thắt lưng Kỳ Úc, thèm thuồng nói: “Không biết lúc em thành thân có thể đẹp giống như tỉ tỉ không nhỉ?”
“Muội muội còn nhỏ vậy mà đã nghĩ đến việc lấy chồng rồi á!” Kỳ Úc nhéo mũi Miên Man, thương tiếc nói, “Chớ vội, đợi thêm hai năm nữa, cha em thể nào cũng sẽ thu xếp hôn sự cho em thôi. Chỉ là em xinh đẹp thế này, không biết mai sau vị vương tôn công tử nào may mắn lấy được em đây?”
“Em á..” Miên Man buông tay Kỳ Úc, lấy tay chống cằm, trong mắt tràn đầy vẻ mơ mộng ước ao, “Em muốn được gả cho thái tử... chỉ có lấy thái tử, tương lai mới có thể làm hoàng hậu, không thì làm quý phi hay thục phi cũng tốt!”
“Không biết xấu hổ..” Kỳ Úc thấy bộ dạng nghiêm túc của cô bé, liền đẩy cô nói: “Em còn chưa nhìn thấy thái tử, sao lại bảo muốn lấy người ta chứ! Huống hồ, hoàng hậu hay quý phi gì đó mà em nói, đều hư ảo như hoa trong gương trăng dưới nước, giữa vợ chồng phải có tình cảm chân thật, mới vui vẻ hạnh phúc cả đời được!”
“Thật sao? Em không tin! Vợ chồng chỉ có tình cảm mà không có vinh hoa phú quý thì sao dài lâu được cơ chứ?” Miên Man gối đầu lên cánh tay, “Sau này, ngộ nhỡ Ngô vương điện hạ phạm tội, bị giáng làm thường dân, hoặc là bị lưu đày đến nơi hoang vu chó ăn đá gà ăn sỏi, chị vẫn bằng lòng ở bên ngài ấy sao?”
“Đừng nói là lưu đày, kể cả chàng chết, chị cũng sẽ theo chàng!” Kỳ Úc nói với giọng gần như là thành kính. Chợt nhớ ra điều gì đó, nàng lại vỗ lên đầu Miên Man, giả vờ giận nói: “Mà em nói cái gì vậy? Ngô vương ca ca há lại phạm tội lưu đày mất tước sao?”
Miên Man thấy Kỳ Úc không vui, biết mình lỡ miệng, vội cười xòa: “Xin lỗi tỉ tỉ, em không có ý đó. Tỉ tỉ và Ngô vương điện hạ đương nhiên có thể một đời ân ái, hòa hợp như cầm sắt cùng vang.”
“Nói vậy còn được!” Kỳ Úc vừa nói vừa kéo tay Miên Man, để cô tự chọn một món trang sức trân châu phỉ thúy phù hợp.
Tuy hôn sự của Lý Khác là do Lý Thế Dân hạ chỉ cho bộ Lễ lo liệu tiến hành, nhưng ông lại không đích thân đến nơi làm chủ hôn, mà chỉ phái Vương Trung thay mình tới chúc mừng. Một số triều thần không khỏi to nhỏ với nhau, bảo là dù bệ hạ yêu mến Ngô vương ra sao đi nữa, rốt cuộc cả lẽ vẫn có khác biệt, có thế nào cũng không vượt qua được thái tử và Ngụy vương. Tiêu Vũ và Trưởng Tôn Vô Kỵ ngồi ở ghế trên nghe thấy những lời bàn luận như vậy, đều chỉ bĩu môi khinh miệt. Tâm tư của bệ hạ há lại để bọn gió chiều nào theo chiều ấy các người đoán được sao?
Đến giờ Tuất, Lý Khác tiễn nốt đoàn khách cuối cùng, rồi về phòng tân hôn với bộ dạng mệt rũ cả người. Y đóng cửa phòng, thấy người vợ mới cưới ăn mặc xinh đẹp không gì sánh bằng, bất giác tim đập thình thịch. Y kề sát lại bên nàng, thủ thỉ vào tai: “Xin lỗi, Kỳ nhi, để nàng đợi lâu rồi. Vừa nãy lục đệ và hai anh em nhà họ Sài cứ bám lấy ta hỏi lúc đầu ta quen nàng ra sao, nếu không nói sẽ phạt ta ba chén rượu. Nàng biết đấy, ta gặp rượu là chắc chắn say, nên đành phải nói với họ đôi lời.”
“Ca ca đã nói gì thế?” Kỳ Úc quay đầu sang, chớp chớp đôi mắt to sáng ngời, tò mò hỏi.
Lý Khác nghiêng người giúp nàng gỡ những đồ trang sức nặng nề trên đầu xuống, từ từ cởi búi tóc mây rườm rà, lại cầm lấy chiếc lược gỗ lim ở cạnh tay, chầm chậm chải mái tóc dài suôn mềm óng ả của nàng, ánh mắt ngập tràn tình cảm dịu dàng khiến người ta xao xuyến: “Đương nhiên là bảo vương phi đã cứu mạng ta rồi!”
Kỳ Úc đỏ mặt nói: “Ngô vương ca ca cũng cứu mạng em mà.”
Lý Khác đặt lược xuống, để Kỳ Úc dựa vào lòng mình: “Chúng ta đã là vợ chồng rồi, sao nàng vẫn còn gọi ta như vậy chứ?”
Kỳ Úc nằm trong vòng tay ấm áp, không khỏi cảm thấy hơi uể oải. Nàng nhắm mắt lại, nhỏ nhẹ nói: “Tam lang, được ở bên chàng, thiếp vui lắm. Đã rất lâu rồi thiếp không được vui thế này.”
Lý Khác cúi đầu hôn lên trán nàng: “Ta cũng vui lắm, có thể gặp được nàng trong tình huống nguy hiểm như vậy. Hôm đó nàng đặt tên cho Lưu Phong, ta đã nghĩ, cô gái này chính là nữ thần sông Lạc mà số mệnh đã định sẵn cho ta, nếu có thể có được trái tim cô ấy, thì cả đời này ta nhất định sẽ thương cô ấy, yêu cô ấy, không để cho cô ấy chịu chút xíu uất ức nào.”
Hai người đang thủ thỉ tâm tình, bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa, ở bên ngoài Họa nhi lo lắng gọi: “Điện hạ, vương phi, hai người đã đi nghỉ chưa ạ?”
Lý Khác đứng dậy chỉnh lại quần áo, mở cửa phòng ra. Họa nhi đưa cho y một ống tre nhỏ và nói: “Điện hạ, hộ vệ tiểu Quý bảo, có một con chim bồ câu trắng nhỏ đậu trên bậc cửa của nhà chính, chắc là thư gửi cho điện hạ.”
Bồ câu trắng? Lý Khác vẫy tay bảo Họa nhi lui xuống trước rồi xoay người bước vào phòng trong, mở tờ giấy trong ống tre nhỏ ra. Chỉ thấy bên trên có viết mấy chữ theo lối tiểu khải: Tư niệm vu tâm, thủy trung tề hành. ( Ý niệm tại tâm, cùng đi trong nước ). Mặt sau còn có bốn chữ số: mười hai, ba mươi sáu, năm mươi tư, sáu mươi bảy. Lý Khác cau mày nói: “Đây là bút tích của thầy, nhưng ông ấy muốn nói gì với ta nhỉ?”
Kỳ Úc cầm lấy tờ giấy đọc kỹ mấy lượt, nói: “Tám chữ đằng trước chắc là hai câu đố chữ. Tư niệm vu tâm là chữ ‘từ’; thủy trung tề hành chắc là chữ ‘tế’ [*] . Từ tế... nghĩa là gì?”
“An Châu, Từ Tế đường. Lẽ nào có tin tức về Hạ Thiệu Nghiêm sao?” Lý Khác siết chặt nắm tay, rồi lại từ từ thả lỏng, “Không! Không đúng! Nếu là chuyện về Hạ Thiệu Nghiêm, thầy hoàn toàn có thể nói thẳng, hà tất phải bí hiểm thế này? Còn nữa, sao lại phải kèm theo mấy chữ số kỳ lạ ở mặt sau?”
Kỳ Úc suy nghĩ một chút rồi mới nói: “Từ Tế đường, là hiệu thuốc nổi tiếng nhất thành An Châu mà tam lang từng nói sao?”
“Hiệu thuốc, đơn thuốc..” Lý Khác đột nhiên vỡ lẽ nói, “Đây là câu đố trong câu đố. Kỳ nhi, ta phải đi tìm biểu huynh ngay lập tức. Tề Châu có lẽ xảy ra chuyện lớn rồi, nhưng còn nàng...”
“Chàng sợ thiếp một mình vò võ ở phòng tân hôn à!” Kỳ Úc cười, ôm lấy vai Lý Khác, “Vậy thiếp đi cùng chàng nhé!”
[*] - Chữ tư ( ) thêm bộ tâm ( ) thành chữ từ ( ), chữ tề ( ) thêm bộ thủy thành chữ tế ( ).
Lý Khác cười chắp tay thi lễ với nàng: “Vậy thì làm phiền vương phi rồi.
Kỳ Úc ngồi trước bàn trang điểm, tháo đồ trang sức, thuần thục vấn tóc lại thành búi, đội mũ bịt tóc vàng lên trên, rồi thay một bộ đồ cưỡi ngựa màu xanh nước biển, lập tức biến thành một công tử đẹp đẽ phong độ ngời ngời. Lý Khác nắm tay nàng, dắt Khinh Vân và Lưu Phong từ trong chuồng ngựa ra, phi thẳng một mạch đến phủ của Dương Chính Đạo.
Tiểu nô Đỗ Húc mở cửa, kinh ngạc nhìn Lý Khác: “Sao điện hạ lại tới vào giờ này? Công tử và huyện chúa vừa mới đi nghỉ!”
Lý Khác vừa đi nhanh vào trong vừa nói: “Mau gọi công tử nhà ngươi tới thư phòng, bản vương có chuyện quan trọng muốn nói.”
Vì là đêm khuya, lại không phải gặp người ngoài, nên Dương Chính Đạo và Tuyết Lộ đều chỉ mặc trang phục giản tiện. Dương Chính Đạo nhìn bộ dạng nóng lòng sốt ruột của hai người họ, không khỏi bật cười: “Một khắc đêm xuân đáng giá nghìn vàng, hai người muốn tận hưởng đêm động phòng hoa chúc ở chỗ ta sao?”
Lý Khác nắm lấy cánh tay gã, nghiêm mặt nói: “Đừng nói đùa nữa biểu huynh, mau lấy cho ta xem quyển sách y năm xưa thầy cho huynh đi.”
Dương Chính Đạo nhìn y hoài nghi: “Không phải năm xưa thầy cũng cho đệ một quyển à?”
“Ta không thích y thuật, từ lâu đã chẳng biết vứt ở chỗ nào rồi.” Lý Khác sốt ruột nói, “Huynh theo ta vào đây, có lẽ xảy ra chuyện lớn rồi”
Kỳ Úc nhìn họ, kéo tay Tuyết Lộ nói: “Tỉ tỉ à, cứ để họ bàn chuyện lớn, chúng ta đến phòng tỉ tỉ nói chuyện đi.”
Tuyết Lộ mỉm cười gật đầu. Hồi xưa vừa gặp cô gái trạc tuổi Tuyết Nhạn này, nàng đã quý ngay, thường xuyên mời cô sang phủ mình chơi, một người gảy đàn khẽ hát, một người múa bút viết thơ, chẳng mấy chốc đã thành bạn thân nơi khuê phòng, nay lại thêm quan hệ họ hàng, nên càng thân thiết hơn.
“Chính là cuốn này! Rốt cuộc đệ muốn tìm gì?” Dương Chính Đạo vươn tay lấy một cuốn sách dày bìa vàng từ trên tầng cao nhất của giá sách xuống, đưa cho Lý Khác.
Lý Khác nhận lấy cuốn sách, ngồi quỳ xuống tấm đệm gấm lớn màu đỏ, vừa giở xem vừa nói: “Sao huynh cất cuốn sách này lên cao thế? Muốn lấy cũng bất tiện quá.”
“Ta thuộc nằm lòng tên các thảo dược bên trong từ lâu rồi, chẳng cần đọc lại nữa. Dương Chính Đạo vừa nói vừa thắp thêm một cây nến nữa, để trong phòng sáng hơn một chút.
“Mười hai, thiên đông. Ba mươi sáu, tướng quân. Năm mươi tư, ích trí. Sáu mươi bảy, hàn thủy thạch..” Lý Khác cầm tờ giấy nhỏ đó, đối chiếu với số trang trong cuốn sách y, chậm rãi nói, “Biểu huynh, ghi lại giúp ta tên của bốn loại thuốc này.”
Dương Chính Đạo cũng không hỏi, chỉ tiện tay lấy cây bút trên giá xuống, nhúng mực rồi viết lên tờ giấy ở bên cạnh mấy chữ: thiên đông, tướng quân, ích trí, hàn thủy thạch. Sau khi xem đi xem lại mấy lần, gã mới từ tốn nói: “Thiên đông tính hàn, có công hiệu thanh nhiệt nhuận phổi. Tướng quân cũng là loại thuốc tính hàn, chủ yếu dùng để giải độc tiêu ứ. Ích trí có thể chữa đau bụng nôn mửa. Còn hàn thủy thạch thì có thể tiêu viêm giảm sưng. Bốn vị thuốc này không có chỗ nào tương khắc, trái lại chúng còn kết hợp bổ sung cho nhau, có tác dụng cực lớn đối với việc giảm bớt bệnh tình.”
Lý Khác nhíu chặt đôi mày, dưới ánh nến, mắt y ngời y sáng khác thường. Y chỉ vào mấy chữ trên tờ giấy, lo lắng nói: “Đây là tin tức từ Tề Châu. Nếu ta đoán không nhầm, bốn vị thuốc này chính là lời thầy muốn nói với chúng ta. Nhưng... rốt cuộc chúng có nghĩa gì?”
Dương Chính Đạo thấy ánh nến trước mặt hơi chói mắt, liền lấy hai chụp đèn chụp lên trên. Gã chậm rãi vê ngón tay, suy tính mấy lượt trong lòng: “Khác đệ, đệ còn nhớ câu đố hồi nhỏ thầy đã soạn để cho chúng ta mau nhớ tên của các loại thảo dược không?”
“Ta nhớ chứ. Ý huynh là những vị thuốc này là câu đố sao? Vậy thì đáp án là gì?” Lý Khác chậm rãi xoay cây bút trong tay nói.
Dương Chính Đạo cầm lấy cây bút trong tay Lý Khác, nói như đã tính toán sẵn: “Ai bảo hồi nhỏ đệ không nhớ cho kỹ! Đó không phải là câu đố, mà là đáp án. Vạn vật tề miên ( muôn loài cùng ngủ ) là thiên đông ( mùa đông ). Vương sư Bắc định ( quân vua bình định phương Bắc ) là tướng quân. Mưu định hậu động ( tính kỹ rồi mới hành động ) là ích trí ( tăng trí tuệ ). Nghịch lưu nhi thượng ( ngược dòng mà lên ) là hàn thủy ( nước lạnh ). Vạn vật tề miên, vương sư Bắc định, mưu định hậu động, nghịch lưu nhi thượng... Đúng là xảy ra chuyện rồi.”
“Tề... vương... mưu... phản!” Lý Khác lần lượt thốt ra từng chữ một, sắc mặt bỗng chốc biến thành tái nhợt, “Lý Hựu to gan thật, ta phải lập tức vào cung bẩm báo với bệ hạ.”
“Đệ đứng lại! Không được đi!” Dương Chính Đạo vội vàng đứng dậy, tiến lên hai bước giơ tay ra chắn trước mặt y, “Nửa đêm canh ba đệ đánh thức bệ hạ, chỉ vì một suy đoán chủ quan chẳng rõ đúng sai, đệ cho rằng bệ hạ sẽ tin đệ sao?”
Lý Khác dừng bước, quay đầu nhìn vẻ mặt vẫn không hề xao động của Dương Chính Đạo, thật chẳng thể hiểu nổi tại sao lúc này gã vẫn bình tĩnh như vậy: “Ông ấy sẽ tin ta, chỉ cần là lời ta nói, ông ấy đều tin cả.”
Dương Chính Đạo kéo y ngồi xuống chỗ cũ, ánh mắt như ngọn đuốc, nói: “Cho dù bệ hạ thật sự tin đệ, nhưng một khi để người khác biết đệ qua lại riêng tư với ngoại thần, hơn nữa ngoại thần đó còn nói với đệ bí mật lớn nhường này, lúc đó e là ngay cả bệ hạ cũng không bảo vệ được đệ.”
“Cho nên ý của huynh là ta phải vờ như không biết chút gì sao?” Lý Khác liếc xéo Dương Chính Đạo. Bất cứ lúc nào gã cũng toát lên khí chất phong lưu hàm súc của một công tử cao quý, về điểm này, e rằng y cũng phải chịu thua, chí ít vào lúc này, dù thế nào đi nữa y cũng không thể tỏ ra thản nhiên như gã được.
Dương Chính Đạo thấy tâm trạng của y đã bình ổn lại một chút, mới bỏ bàn tay nãy giờ đè lên vai y xuống: “Đệ có thể vờ như không biết chút gì. Song đệ cũng có thể kể bí mật này cho Ngụy vương. Ta nghĩ, hắn sẽ thích lắm đấy.”
“Xưa nay Tề vương luôn dựa vào thái tử, còn Ngụy vương thì từ lâu đã đấu đá gay gắt với thái tử. Có một cơ hội nghìn năm khó gặp như này, đương nhiên hắn sẽ cố hết sức tận dụng” Khóe miệng Lý Khác bất giác lộ ra một chút giễu cợt. Cuộc đấu đá giữa anh em bọn họ, xưa nay y chẳng buồn quan tâm, thậm chí còn ôm ý định đứng ngoài xem kịch hay, chỉ cần không động đến y là được.
Dương Chính Đạo dường như khá hài lòng với câu trả lời của y, đưa tay nhét tờ giấy đó vào trong một phong thư ở trên bàn, dán chặt lại bằng hồ dán, nói: “Đệ nghĩ được vậy là tốt rồi. Ngày mai ta sẽ gửi cái này cho Tiêu Quân, để ông ta đi nói với Ngụy vương.”
“Trung thư xá nhân Tiêu Quân?” Lý Khác có phần ngạc nhiên khi đột nhiên nghe thấy cái tên này, “Ông ta về phe Ngụy vương lúc nào vậy? Còn nữa, huynh và ông ta thân quen lắm sao?”
Tiêu Quân này là con thứ của Tiêu Tuân, người bác thứ năm của Tiêu Nhuệ, vốn có tài văn, tính lại trầm tĩnh thu mình, không giỏi giao du với mọi người. Có một lần thái tử mở tiệc mời khách ở Đông cung, suốt hai canh giờ, ông ta chẳng nói một lời, mấy thứ sử địa phương vừa về kinh báo cáo còn tưởng rằng vị quan ngũ phẩm trẻ tuổi này bị câm. Có điều hai vị tể tướng là Phòng Huyền Linh và Ngụy Trưng rất tán thưởng ông ta, coi ông ta là nhân vật xuất sắc trong lớp trẻ, nên dù hơi lầm lì quái gở, cũng không có ai làm khó ông ta.
Dương Chính Đạo nhúng cây bút vào trong chiếc bình lưu ly đựng đầy nước sạch, ngắm mực từ từ loang ra: “Ngụy vương ngưỡng mộ tài của Tiêu Quân, từng ba ngày liên tục đội mưa lớn đích thân đến phủ ông ta thăm hỏi, mời ông ta giúp mình nên chuyện. Tiêu Quân cảm kích ơn tri ngộ, liền nhận lời làm trợ thủ cho Ngụy vương. Đương nhiên, việc này cũng không thể để người ngoài biết.”
“Nhưng huynh lại nói với ta?” Một ý nghĩ đáng sợ không thể giải thích được chợt thoáng qua đầu Lý Khác, nhưng y lập tức định thần lại: “Có lúc, ta thực sự không nhìn thấu nổi huynh.
Dương Chính Đạo cười: “Nhưng đệ vẫn tin ta, dù ta từng lừa dối đệ.”
Lừa dối, trái tim Lý Khác từ từ dậy sóng. Nếu Dương Chính Đạo muốn nói đến chuyện năm xưa từng mượn miệng Liễu Phạm để hãm hại y, ép y về kinh, thì y không phải là không có khúc mắc với gã. Chỉ có điều mỗi lần nhìn thấy gã, nỗi khúc mắc này tự nhiên biến mất không còn tăm tích, đúng là kiếp trước y đã mắc nợ gã rồi.
Nghĩ đến đây, Lý Khác liền bực mình nói: “Khi nào có thời gian, ta sẽ tính sổ món nợ giữa chúng ta.”
Dương Chính Đạo lắc đầu nói: “Năm đó, Tiêu Tuân cũng theo bà nội ta đến Đột Quyết. Vì vậy ta quen Tiêu Quân từ khi còn nhỏ, đôi bên cũng coi như là hiểu tính cách của nhau. Sau này ta và bà nội trở về Trường An, còn Tiêu Tuân vẫn ở lại đó, xử lý nốt những vấn đề còn lại, mãi đến năm Trinh Quán thứ chín mới về kinh. Ta và Tiêu Quân cũng đã gặp nhau từ sáu năm trước rồi. Ông ấy từng hỏi ta làm thế nào để đuổi Ngụy vương đi, ta nói rằng: Vậy thì chỉ có cách nhận lời Ngụy vương. Như thế có lẽ có thể giúp ích cho đệ.”
Lý Khác không đồng tình: “Vậy thì sao? Cho dù có thích đi nữa, ta cũng sẽ không thèm muốn đồ của người khác. Tính toán của huynh xem như uổng phí rồi.
“Cũng chưa chắc. Dương Chính Đạo nhìn sắc trắng nhờ nhờ đang dần ló ra ở chân trời, ngáp một cái nói: “Đệ chỉ cần đứng ngoài cuộc là được rồi. Những chuyện khác, ta sẽ giúp đệ. Không còn sớm nữa, hai người cũng nên về thôi.”
Kỳ Úc đã ngủ say trên giường, lông mi khẽ rung rung, hai tay ôm chặt chăn bông nhưng không đắp lên người. Lý Khác âu yếm vuốt ve khuôn mặt trắng ngần của nàng, dịu dàng nói bên tai: “Kỳ nhi, trời sáng rồi, chúng ta về thôi.”
“Đợi thiếp ngủ đủ giấc đã rồi hãy về có được không?” Kỳ Úc kéo tay Lý Khác, mơ mơ màng màng nói.
Lý Khác đắp chăn cho nàng, yêu chiều nói: “Được! Vậy ta sẽ đợi nàng.”
Nắng mai tươi đẹp từ từ hắt bóng lên mặt hồ, dập dềnh chìm nổi, lay động không ngừng. Hàng loạt sự việc xảy ra sau đó giống như một tràng sấm sét, không ngớt rền vang mà chẳng có ai nhận ra.
Mùng sáu tháng Hai năm đó, Ngụy vương Lý Thái mật báo biến cố ở Tề Châu. Mùng mười tháng Hai, Lý Thế Dân phái hai nhóm mật sứ đến Tề Châu ngầm điều tra. Ngày hai mươi lăm tháng Hai, nhóm mật sứ thứ nhất về kinh, trình báo rằng quả thật Lý Hựu có những động thái bất thường như chiêu binh mãi mã, lén chế vũ khí. Mùng năm tháng Ba, nhóm mật sứ thứ hai về báo, Lý Hựu cùng hai thân tín là Tảm Quân Mô, Lương Mãnh Bưu giết trưởng sử Tề Châu Quyền Vạn Kỷ và điển quân Vi Văn Chấn, dấy binh mưu phản. Ngày hôm sau, thượng thư bộ Binh Lý Tích và thượng thư bộ Hình Lưu Đức Uy phụng chỉ đến Tề Châu dẹp loạn. Ngày ba mươi tháng Ba, dẹp yên loạn ở Tề Châu, áp giải Tề vương Lý Hựu về kinh.
Đêm xuân vẫn hơi se lạnh, Lý Khác thắp ba nén hương trong tay. Khói hương lởn vởn lượn lờ trong không khí, mùi đàn hương có thể nhanh chóng xoa dịu những hỗn loạn ngổn ngang trong lòng. Sau khi cúi người vái ba vái, Lý Khác cắm ba nén hương vào trong lư hương trên bàn. Cái gọi là mưu phản đó, chẳng qua chỉ là một lũ ô hợp trình diễn một trò hề ấu trĩ nực cười mà thôi. Lý Khác nhìn linh vị trước mặt, mắt như muốn tóe lửa. Chỉ tiếc rằng, một bề tôi tài giỏi, cương trực không a tòng như Quyền Vạn Kỷ lại chết trong tay bọn chúng.
Mối hận nhường này, hình như y mới chỉ trải nghiệm một lần khi mẹ mất. Nhưng hận thù lúc đó hư vô mơ hồ, không có chỗ để chĩa vào, dù sau này cha nói bóng gió rằng những kẻ giật dây là đại bá và tứ thúc, nhưng nỗi hận của y vẫn không biết trút vào đâu, có thể vì bọn họ đã chết từ lâu, mà cũng có khả năng do y chưa thực sự chạm được vào chân tướng của sự việc. Còn Lý Hựu thì khác, hắn đã hại chết một người rất quan trọng trong cuộc đời y, chứng cứ rành rành, không thể chối cãi.
Lý Khác nghiêng người nhìn Kỳ Úc đang chắp tay nhắm mắt khấn thầm, nói: “Kỳ nhi, đáng tiếc nàng chưa từng gặp thầy, bằng không với tài học của mình, nàng nhất định sẽ được thầy tán thưởng.”
Kỳ Úc úp tay lên tay Lý Khác: “Lúc mẹ qua đời, cha thiếp từng bảo, người tốt sau khi mất sẽ biến thành sao trên trời, luôn bảo vệ những người mà họ quan tâm trên đời. Vì vậy chàng đừng buồn bã quá lâu, được không?”
Lý Khác nhìn bóng mình trong đôi mắt trong veo của nàng, nắm chặt lấy tay nàng, gật đầu nói: “Được, cái gì cũng nghe nàng hết.”
Đang nói thì nghe thấy Vũ Lương cao giọng gọi ngoài cửa: “Điện hạ, đã chuẩn bị xong xe ngựa rồi.”
Lý Khác ừ một tiếng, quay sang nắm lấy vai Kỳ Úc: “Nàng nghỉ ngơi sớm đi, ta vào cung đây.”
Trong thư phòng của điện Vũ Đức, Lý Thế Dân đang chắp tay sau lưng say sưa ngắm bức Lục tuấn bôn trì đồ trên tường, nghe thấy đằng sau có tiếng bước chân, ông mới quay người lại nói: “Diêm Lập Bản vừa gửi đến hôm qua. Sáu con ngựa này đã cùng ta đánh hạ giang sơn Đại Đường. Có lẽ vì đã lớn tuổi, nên gần đây ta thường hay nhớ lại chuyện trước kia.
Lông mày Lý Khác khẽ giật, sau đó y cảm thấy hơi cay cay nơi sống mũi. Giờ y mới chợt nhận ra một sự thật phũ phàng: Người cha anh hùng trong lòng y cuối cùng cũng sẽ gục ngã trước thời gian. Rất lâu sau, y mới nói: “Uy nghi của phụ hoàng đâu có tiêu giảm theo tuổi tác.
Lý Thế Dân hơi ngạc nhiên: “Con học ăn nói kiểu này từ bao giờ thế hả?”
Lý Khác lắc đầu: “Phụ hoàng cho rằng con đang nịnh nọt sao?”
Trong mắt Lý Thế Dân ngập tràn tình phụ tử: “Cho dù là nịnh thật, ta cũng thích nghe.” Nói xong, ông cầm một cuộn thánh chỉ ở trên bàn giao cho Lý Khác, vẻ mặt bỗng chốc trở nên nghiêm túc, “Việc này, trẫm muốn con đi làm.”
Lý Khác chậm rãi mở ra, đọc lướt qua từng chữ, lòng vừa thỏa mãn, lại vừa thê lương. Thế rồi y cuộn thánh chỉ lại bỏ vào trong tay áo, quỳ gối lạy rằng: “Thần tuân chỉ”
Lý Khác có thể cảm nhận được ánh mắt dò xét của Lý Thế Dân trên người y, nhưng y không ngước mắt lên đáp lại. Không biết đã qua bao lâu, mới nghe thấy Lý Thế Dân nói: “Con không cầu xin cho nó một câu sao?”
“Lý Hựu mưu toan dấy binh đoạt quyền, là bất trung; muốn mưu hại phụ hoàng, là bất hiếu; đặt trăm họ Tề Châu vào vòng nguy hiểm, là bất nhân; sai thuộc hạ giết gián quan Quyền Vạn Kỷ, là bất nghĩa. Kẻ bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa như vậy, có chết cũng không hết tội. Thần thân làm Đại Lý tự khanh, đây cũng là việc thuộc phận sự của thần.” Lúc Lý Khác nói đến đoạn cuối, giọng bỗng trở nên hơi gấp gáp, xen lẫn với nỗi căm hờn khó mà khống chế trong lòng y.
Lý Thế Dân nhìn xoáy vào y một lần nữa, dường như thoáng cái đã soi thấu nơi sâu thẳm nhất trong lòng y. Vẻ bình tĩnh và lý trí đến mức đáng sợ của y, thái độ thà bị hiểu nhầm cũng không thèm vờ vịt của y, giống hệt bản thân ông. Nhưng rốt cuộc y không phải là ông, cũng không thể khiến y trở thành ông.
Nhiêm Nhi. Lý Thế Dân cầm lòng chẳng đặng, thầm gọi cái tên này trong lòng.
Phủ Tề vương nằm ở đầu mút phía Nam của phường Sùng Nhân trong thành Trường An, lúc này bên ngoài bức tường màu đỏ gạch đã bị quân cấm vệ bao vây hai lớp. Dù phạm phải tội tày trời, nhưng rốt cuộc vẫn là hoàng thân cao quý, trước khi ban chỉ rõ ràng, bộ Hình cũng chỉ giam lỏng Tề vương trong vương phủ, coi như giữ tôn nghiêm cho hắn.
Binh tào tham quân Thôi Uẩn Chi mặt không cảm xúc, cầm thanh bảo kiếm đồng điếu đi đi lại lại trước cửa phủ Tề vương, chốc chốc lại cảnh giác nhìn quanh. Đột nhiên có một tràng tiếng vó ngựa đều đặn từ xa tiến đến, trong màn sương sớm, gã không nhìn thấy rõ rốt cuộc là ai, chỉ đặt tay lên vỏ kiếm, sẵn sàng rút kiếm ra bất cứ lúc nào. Hai người đi đầu phi tới, xuống ngựa khẽ thi lễ với Thôi Uẩn Chi: “Ngô vương điện hạ tới, mời Thôi tham quân ra đón.
Vừa nghe vậy, Thôi Uẩn Chi lập tức đưa thanh kiếm trong tay cho một tên tiểu tốt ở đằng sau, chạy đến trước xe ngựa, cúi người vái chào: “Thần Thôi Uẩn Chi cung nghênh Ngô vương điện hạ.”
Quý Ân xuống ngựa vén rèm xe lên, Lý Khác giẫm lên ghế gấp bước xuống, nhưng lại không nhìn Thôi Uẩn Chi, xăm xăm đi thẳng. Lúc đến cửa phủ, y mới ngoảnh đầu, lấy cuộn thánh chỉ trong tay áo ra, hai tay nâng lên trước ngực, nói với Thôi Uẩn Chi vừa gấp rút đuổi tới nơi: “Bệ hạ có chỉ truyền cho Tề vương, mời Thôi tham quân đi trước dẫn đường.”
Thôi Uẩn Chi rất hiếm khi nghe thấy có người nói bằng giọng lạnh đến thấu xương như vậy, bất giác rùng mình. Hôm nay Lý Khác chỉ mặc một bộ áo dài trắng bằng gấm Thục in chìm hình mây lành, nếu không phải y vừa mở miệng đã thốt ra những lời lẽ như vậy, Thôi Uẩn Chi còn tưởng y là một sĩ tử nho nhã thông thường. Những người trong hoàng tộc này quả thật chẳng có ai dễ đối phó cả.
Thế nên gã cũng chỉ kính cẩn “dạ” một tiếng, rồi dẫn Lý Khác vòng qua hòn non bộ, theo một lối nhỏ rêu phong đi vào trong sảnh chính. Đợi chưa được bao lâu đã thấy Lý Hựu chậm chạp bước tới. Có lẽ vì lặn lội đường dài nên trông hắn vô cùng mỏi mệt, hốc mắt trũng sâu, mặt mũi hơi sưng, thần sắc rất u ám ảm đạm. Hắn quỳ gối xuống lạy như một con rối dây, ở đằng sau, Tề vương phi và mấy nàng hầu gả theo cũng quỳ xuống.
Lý Khác mở cuộn thánh chỉ ra, đọc sang sảng: “Tháng Tư năm Trinh Quán thứ mười bảy, hoàng đế Đại Đường ban chiếu rằng, đô đốc Tề Châu, Tề vương Lý Hựu, vốn trái đức thành thật, mê đắm lời gian tà, tự rước tai họa, chuốc lấy diệt vong. Đau thay, sao ngu quá vậy! Thế rồi độc ác quên ơn, bất trung bất hiếu, nhiễu loạn đất Tề Châu, tru di người vô tội. Bỏ thành liền vững chắc, gần củi chất hiểm nguy; hủy tình thân bàn thạch, gây hiềm khích binh đao. Xét rằng trái lễ ngược nghĩa, trời đất chẳng dung, vứt cha bỏ vua, thần người đều giận. Xưa là con ta, nay là giặc nước. Vạn Kỷ sống là người trung liệt, chết không ngại nghĩa. Ngươi sống là tặc thần, chết làm nghịch quỷ. Vì vậy phế làm thứ dân, ban cho tự sát.”
Đôi mắt khô kiệt của Lý Hựu chợt hiện lên vẻ bàng hoàng. Mấy người đàn bà kinh hoàng luống cuống quay mặt nhìn nhau, sau đó không kìm nổi khóc nức lên. Thôi Uẩn Chi chỉ cảm thấy lạnh sống lưng: Bệ hạ vẫn ra tay như sấm sét không kém năm xưa, hạ một tờ chiếu chỉ ban chết thật là rõ ràng quả quyết. Song cũng phải thôi, ai lại có thể động lòng trắc ẩn với một kẻ loạn thần tặc tử cơ chứ? Lý Khác thấy Lý Hựu hồi lâu không giơ tay ra, liền đặt cuộn thánh chỉ lên bàn một cách dứt khoát, lạnh lùng nói: “Bản vương đã mang ý chỉ của bệ hạ tới, ngươi tự thực hiện đi!”
“Đợi đã!” Lý Khác vừa mới bước ra khỏi bậc cửa một bước, lại nghe thấy Lý Hựu kêu: “Tuy thường ngày hai ta không thân thiết, nhưng tốt xấu gì cũng là anh em. Tam ca không thể nghe tôi nói mấy câu sao?”
“Có câu gì, mau nói đi!” Lý Khác dừng bước, nhưng không quay đầu lại.
Lý Hựu đứng dậy, nhìn mọi người xung quanh: “Tôi chỉ muốn nói với một mình tam ca.”
“Các ngươi lui cả đi.” Lý Khác suy nghĩ một chút rồi quay lại xua tay với mọi người.
Bình minh ló rạng, ánh mặt trời từ từ xua tan sương mai dày đặc. Lý Khác ngồi co gối trên mặt đất, lơ đãng vuốt ve tua đỏ trên miếng ngọc bội, lòng nhớ đến món cá rô hạt thông mà trưa hôm qua Hà chưởng quỹ của lầu Liêu Hương giới thiệu, mùi vị thật là độc đáo, chẳng trách càng ngày càng có nhiều người nghe tiếng đến ăn.
Đang nhớ lại mùi vị món cá thì lại nghe thấy Lý Hựu nói bằng giọng khản đặc: “Kỳ thực chúng ta giống nhau, hy vọng tương lai tam ca sẽ không có ngày như tôi hiện giờ.”
“Đa tạ lời nhắc nhở của ngươi.” Lý Khác cười nhạt, “Nếu đây là điều ngươi muốn nói, thì ta nhớ rồi.”
Xương gò má của Lý Hựu hơi nhô ra, khiến vẻ mặt hắn càng thêm mệt mỏi, chiếc áo bào màu nâu sẫm trên người hắn đã rộng thùng thình. Hắn nhìn thánh chỉ trên bàn, lại nhìn khuôn mặt không cảm xúc của Lý Khác, bỗng cao giọng cười lớn, cười đến nỗi suýt nữa thì tức ngực: “Tam ca, lẽ nào tam ca chưa bao giờ thấy bất bình trong lòng sao. Lẽ nào dã tâm rục rịch muốn hành động ấy chưa từng giày vò tam ca? Tam ca cần gì thanh cao như thế, tôi sắp chết rồi, nói một chút với tôi cũng có sao đâu?”
Lý Khác nghiêm giọng hỏi vặn lại: “Ngươi cho rằng ta không có trái tim giống ngươi sao? Ngươi cho rằng giữa người với người ngoài lợi ích ra thì không có tình cảm sao? Người ngươi muốn phản, không chỉ là cha ngươi, mà còn là cha ta!”
Đôi mắt to mà vô hồn của Lý Hựu đờ đẫn nhìn lên trần nhà, hắn phản bác lại: “Chỉ có trong mắt tam ca, ông ta mới là cha thôi.”
“Ông ấy cũng là hoàng đế! Ngươi tùy tiện giẫm đạp lên hoàng quyền của ông ấy, bảo ông ấy chịu sao cho được!”
Trên mặt Lý Hựu thoáng hiện một tia giễu cợt, móng tay hắn vạch lên chiếc bàn phủ đầy bụi bặm một vết hằn sâu: “Xem tam ca nói hùng hồn đanh thép chưa kìa! Nhưng năm xưa Tùy Dạng Đế vì hoàng vị mà giết anh giết cha, còn người cha của chúng ta mà tam ca nói cũng giẫm lên xác của anh em chí thân để bước lên ngôi vua. Trên người tam ca đang chảy dòng máu của họ, tam ca nói mình không có dục vọng, chính tam ca có tin không?”
Lý Khác siết chặt nắm đấm, rồi lại từ từ buông ra. Y chưa bao giờ nói rằng y không có dục vọng không có mong cầu, y cũng chẳng phải Bồ Tát bùn được thờ cúng trong chùa miếu. Nhưng dựa vào cái gì mà y phải nói cho hắn biết nỗi lòng mình? Lý Hựu như con thiêu thân tự lao vào chỗ chết, y phải tỏ vẻ đồng tình và thương xót ư? Lý Khác thình lình đứng dậy, phất mạnh tay áo, lạnh nhạt nói: “Tin hay không thì cũng là chuyện của ta, liên quan gì đến ngươi?”
“Tôi có thể phóng tay đặt cược một lần vì tất cả những gì tôi muốn, dù biết bị người khác lợi dụng, dù cuối cùng thất bại, tôi cũng không hối hận” Lý Hựu cầm chiếc hồ lô bạc ở cạnh tay lên, đổ hết rượu vào trong miệng, “Người không lòng hại hổ, hổ có ý hại người. Tam ca, hãy nhớ lời tôi, muốn gì thì tự đoạt lấy. Phải sống vì mình một lần trong đời, bằng không sau này có hối hận cũng không kịp...”
Lý Khác đi thẳng ra đến cửa sân, vẫn có thể nghe thấy tiếng kêu gào xé gan xé ruột của Lý Hựu. Ai bảo con người sắp chết thì lời nói cũng tốt lành? Dù sắp chết nhưng hắn vẫn là một tên điên. Thôi Uẩn Chi lại đón y, cúi mặt nói: “Ngô vương điện hạ yên tâm, chúng thần tuyệt đối sẽ không để những lời hồ đồ đó của Tề... Lý Hựu lọt ra ngoài.”
“Tùy ngươi.” Lý Khác phủi bụi trên tay áo, nói dửng dưng.
Lúc xe ngựa đi qua đường lớn phía Tây phường Thanh Hòa, Lý Khác khẽ vén rèm lên nói: “Quý Ân, bảo bọn họ dừng lại đã, ta muốn đi Trí Bảo trai ở đằng trước mua ít bánh ngọt về.”
Quý Ân vâng dạ cưỡi ngựa tiến lên vài bước, ra lệnh cho các hộ vệ dẫn đường dừng lại, rồi ngoảnh đầu nói: “Ti chức đi mua giúp điện hạ nhé, điện hạ đợi ở trên xe là được rồi.”
“Ngươi có biết nàng thích ăn vị gì nhất đâu.” Vừa dứt lời Lý Khác đã bước xuống xe ngựa.
Quý Ân cười: “Điện hạ tốt với vương phi thật đấy.”
Lưu chưởng quỹ của Trí Bảo trai vừa thấy Lý Khác liền tươi cười vồn vã bước ra đón: “Lý công tử lâu lắm không qua đây rồi đấy! Hôm nay ngài muốn mua gì?”
Lưu chưởng quỹ trên dưới bốn mươi tuổi, dáng người hơi mập, trông rất phúc hậu. Lý Khác luôn có ấn tượng không tồi về ông ta. Không phải ông ta không biết thân phận của Lý Khác, có điều Lý Khác không muốn tỏ rõ, ông ta cũng chỉ gọi một tiếng “Lý công tử” vừa đúng mực. Lý Khác nhìn tấm biển gỗ ghi tên bánh ở trước mặt nói: “Bánh hạnh nhân mứt táo, bánh bột củ sen hoa quế, bánh nhân đậu lòng đỏ trứng. Mỗi loại hai cân, gói mang đi giúp ta!”
“Vâng! Lý công tử ngồi đợi một lát, sẽ giao cho ngài ngay đây.”
Lúc này khách ghé Trí Bảo trai dần đông lên, đám hầu bàn chạy tới chạy lui, bận tối mắt tối mũi. Cô con gái năm tuổi tên Diệu Diệu của Lưu chưởng quỹ trèo lên quầy cao, tò mò nhìn xung quanh. Có lẽ bị thu hút bởi túi thơm kỳ lân mà Lý Khác đeo bên mình, ánh mắt Diệu Diệu nhanh chóng dán chặt vào nó. Đột nhiên bên ngoài có tiếng chó sủa vọng vào, Diệu Diệu bị giật mình, run chân ngã từ trên quầy xuống.
Lý Khác nhanh tay nhanh mắt lao tới ôm cô bé vào lòng. Khuôn mặt nhỏ bé của Diệu Diệu tái đi vì sợ hãi, một lúc lâu sau mới không kìm được bật khóc oa oa. Lý Khác vỗ lưng cô bé, an ủi với giọng dịu dàng: “Ngoan, không sao rồi.”
Diệu Diệu chớp đôi mắt long lanh, thút tha thút thít nói: “Đau quá, cánh tay đau quá.”
Lý Khác vội vàng kéo tay áo cô bé lên, thấy chỉ là vài vết xước, liền bế cô bé ngồi xuống, lấy chiếc khăn vuông mang theo bên mình bó chặt cánh tay cô bé lại. Lưu chưởng quỹ thấy cảnh kinh hoàng vội vàng chạy tới, nhìn Diệu Diệu rồi quỳ xuống đất, khấu đầu lia lịa: “Đa tạ Lý công tử cứu con bé một mạng”
Lý Khác giao Diệu Diệu cho một người đàn bà lớn tuổi bên cạnh Lưu chưởng quỹ, mỉm cười: “Chưởng quỹ sao phải dùng đại lễ như thế, chỉ là chuyện nhỏ thôi mà.”
Lưu chưởng quỹ nhìn khuôn mặt đỏ bừng của con gái, lại vái tạ một lần nữa: “Lý công tử không biết đấy thôi, thảo dân và vợ quá nửa đời người mới có được một mụn con gái là Diệu Diệu đây, nếu nó có mệnh hệ gì, chúng tôi thực sự không biết phải làm sao.”
Lý Khác cúi xuống nhặt một cuốn sách tranh đang mở ở bên cạnh, thấy trên đó có những chấm đen, được nối lại bằng những đường kẻ non nớt thành đủ các loại hình, như hình vuông, hình tròn, hình tam giác, vừa nhìn đã biết là do cô bé này vẽ. Y gập cuốn sách tranh lại đưa cho Diệu Diệu, nói: “Cái này của cháu à? Lần sau không được nghịch ngợm trèo cao như thế nữa, biết chưa?”
Diệu Diệu gật đầu nửa hiểu nửa không: “Diệu Diệu biết rồi ạ.”
Đúng vào khoảnh khắc bước ra khỏi Trí Bảo trai, có một ý nghĩ chợt lóe lên, xẹt qua não Lý Khác, biến thành những mảnh ký ức linh tinh vụn vặt. Nếu ngay cả điều này cũng là giả tưởng, thì rốt cuộc cái gì mới là chân tướng? Y liền rảo bước thật nhanh, nói với Quý Ân: “Về vương phủ trước, sau đó vào cung phục mệnh.”
Lúc này Kỳ Úc đang luyện bắn tên trong vườn hoa nhỏ của vương phủ, một đám tiểu nha hoàn ngồi trên bậc thềm, chống cằm nhìn không chớp mắt. Bia bắn tên cách chỗ nàng đứng chừng năm mươi bước, nàng định thần, cầm lấy một mũi tên dài Họa nhi đưa cho, gắn lên cung, tay trái giữ, bốn ngón tay phải kéo mạnh dây cung căng hết cỡ, ngắm chuẩn trong giây lát rồi buông tay dứt khoát. Tên bay đi còn nhanh hơn gió, găm chặt lên tấm bia, trúng đúng hồng tâm. Đám tiểu nha hoàn sững sờ một thoáng, rồi vỡ òa trong tiếng hoan hô.
Họa nhi chạy như bay tới rút mũi tên ra, đưa tận tay Kỳ Úc, đôi mắt tròn xoe ánh lên vẻ khâm phục: “Dáng bắn tên của vương phi thật là đẹp, giống như..”
“Giống như ngươi ấy!” Kỳ Úc tiếp lời.
“Giống... giống nô tì ạ?”
Kỳ Úc toét miệng cười: “Giống một bức tranh ấy!”
Người xung quanh nghe xong đều cười nghiêng ngả không thẳng người dậy nổi. Kỳ Úc lại giương cung một lần nữa, đang kéo căng dây chuẩn bị bắn thì nghe thấy Họa nhi ở bên cạnh phấn khởi nói: “Vương phi mau nhìn xem, trên trời có hai con nhạn lớn kìa, sao mùa này lại có nhạn nhỉ?”
Kỳ Úc ngẩng đầu, quả nhiên thấy một đôi nhạn chầm chậm bay qua, nàng đang lấy làm lạ thì lại tuột tay, mũi tên theo gió bay xéo lên trên. Đúng lúc này, có một người từ hành lang đá đi tới, thấy tên sắp bắn trúng cánh tay người đó, Kỳ Úc hoảng sợ hét to: “Tam lang cẩn thận!”
Mọi người đều sợ đến mức nhắm mắt không dám nhìn, nhưng lại thấy Lý Khác nhẹ nhàng nhảy lên thành lan can, người hơi ngả về sau, mũi tên bay vọt qua y rơi xuống nước, tóe lên những gợn sóng lăn tăn.
Kỳ Úc vội vàng chạy tới ôm lấy cánh tay Lý Khác, nói với vẻ ngập tràn áy náy: “Xin lỗi, tam lang, là thiếp không tốt, suýt nữa thì làm chàng bị thương.”
Lý Khác vỗ nhẹ lên đầu nàng, vẻ mặt dịu dàng như sắp rịn cả nước: “Không sao. Chúng ta vào phòng nói chuyện.”
Đám tiểu nha hoàn thấy cảnh này mới thở phào nhẹ nhõm, biết điều rối rít cáo lui.
Về đến phòng ngủ ở nội viện, Lý Khác nôn nóng lấy hai cuộn tranh để ở tầng trên của tủ âm tường xuống. Kỳ Úc mở chúng rồi trải riêng ra trên bàn: “Nửa bức Đạp tuyết đồ này là bản gốc, còn nửa này là chàng mô phỏng lại theo trí nhớ. Chúng ta cũng đã nghiên cứu nhiều lần, chẳng phải đều không phát hiện ra điểm nào đặc biệt sao?”
Lý Khác gật đầu: “Đúng! Chúng ta đã xem mấy tháng mà vẫn không có kết quả, nhưng hôm nay, có thể sẽ phát hiện được gì đó mới mẻ cũng chưa biết chừng.”
Nói rồi, y liền lấy ra một tờ giấy lớn từ trong ngăn kéo bên cạnh, vừa vặn phủ lên hai nửa bức Đạp tuyết đồ . Y cầm bút lên, chấm chút mực: “Kỳ nhi, cầm nó giơ lên phía ánh sáng mặt trời giúp ta.”
Kỳ Úc tìm hướng ánh sáng chiếu mạnh nhất rồi giơ lên, cảnh trong Đạp tuyết đồ vừa khéo in trên tờ giấy trắng. Lý Khác ngồi xổm xuống, cẩn thận đồ lại toàn bộ dấu chân trên đó. Kỳ Úc thắc mắc: “Những dấu chân này có chỗ nào không ổn sao?”
“Có, đây là một sơ đồ vô cùng bí mật” Lý Khác cắn môi nói, “cho nên bọn chúng mới không tiếc huy động đến tử sĩ để cướp bức tranh này.”
Kỳ Úc cầm tờ giấy lật đi lật lại xem mấy lần, cuối cùng vẫn trả lại Lý Khác, lắc đầu nói: “Thiếp vẫn chưa nhìn ra.
Lý Khác kéo vai nàng ngồi xuống, từ từ nhíu chặt đôi mày: “Đây là sơ đồ bố trí của quân cấm vệ hoàng cung.”
“Cái gì?” Kỳ Úc phát hoảng, những tua dài của chiếc trâm mành mành vàng hình chu tước trên đầu nàng khẽ lay động, “Thật không thể tưởng tượng nổi.”
“Chắc không sai đâu,” Lý Khác chỉ ngón tay vào một điểm ở trên cùng phía Bắc nói, “đây là Huyền Vũ môn, qua ba điểm là đến điện Lưỡng Nghi, vòng qua chỗ giữa này là hai hành lang dài, đi tiếp là đình Quy Vân, sau đó là đến điện Vũ Đức...”
Kỳ Úc vẫn chưa hiểu lắm: “Triển Tử Kiền chắc chắn sẽ không vẽ ra một bức tranh như vậy, cho nên cái gọi là bản gốc này thực ra cũng là giả phải không?”
Lý Khác gật đầu: “Nhuệ ca nói là mua được nửa bức này từ chỗ Hầu Quân Tập, còn nửa bức kia thì chúng ta đã thấy ở phủ Tô Đản. Hầu Quân Tập, Tô Đản... thái tử. Hóa ra là vậy! Tề vương chẳng qua là con rối bị bọn chúng chơi đùa trong lòng bàn tay mà thôi, đáng buồn là, hắn vẫn tưởng rằng mình là người cầm dây. Giờ hắn chết rồi, chỉ e chúng sẽ bắt tay hành động ngay lập tức. May mà nửa bức Đạp tuyết đồ bị chúng cướp đi lần trước là giả. Kỳ nhi, đi làm giúp ta một việc, có điều, việc này rất khó làm, hơn nữa, bất kể thành công hay thất bại, e là đều sẽ gặp phải rắc rối.
“Thiếp không sợ rắc rối,” Kỳ Úc trong ánh mặt trời ngày càng rực rỡ ở ngoài cửa sổ, lại nghiêng đầu nhìn sang khuôn mặt sáng sủa của Lý Khác, “thiếp chỉ sợ chàng sẽ gặp nguy hiểm thôi.”
Quả là một cô gái thông minh phi phàm. Những lời y không nói ra khỏi miệng, nàng vẫn hiểu được hết. Lý Khác ấp chặt tay nàng trong lòng bàn tay mình: “Ta sẽ bảo vệ bản thân thật tốt. Nàng yên tâm. Chúng ta sẽ ổn cả thôi.”
Tiểu thái giám Thang Đức Bảo đang quanh quẩn ở ngoài hiên Tư Tề của điện Phúc Tuyền thuộc Đông cung thì lảo đảo một cái, hai chiếc chén nhỏ trên tay rơi xuống đất vỡ tan, phát ra tiếng loảng xoảng. Hồi lâu sau hắn mới nhận ra biểu cảm hoảng loạn quá mức của mình thật sự bất thường, đành gắng gượng trấn tĩnh lại, liên tục hành lễ: “Nô tài tham kiến Ngô vương điện hạ.”
Lý Khác hững hờ nói: “Sao hôm nay Thang công công không ở bên hầu hạ thái tử điện hạ?”
Thang Đức Bảo cười gượng gạo: “Thái tử điện hạ đang bàn chuyện với mấy vị khách quý ở bên trong, cho nên bảo nô tài đợi ở ngoài này.”
“Đợi à?” Lý Khác tiến lên một bước, lòng bàn chân vừa khéo giẫm lên một mảnh sứ vỡ, “Bản vương thấy... là canh chừng thì có!”
Thang Đức Bảo rõ ràng không lường được Lý Khác sẽ nói thẳng tuột như vậy, sững sờ một chốc, cuối cùng vẫn to gan chắn trước mặt Lý Khác, giọng hơi run rẩy: “Xin Ngô vương điện hạ dừng bước, thái tử nói... nói là không cho bất kỳ ai làm phiền.”
Lý Khác dùng chuôi kiếm hất tay Thang Đức Bảo ra: “Tất nhiên thái tử không chỉ bố trí một mình ngươi! Ngươi cho rằng bản vương đến trước mặt ngươi bằng cách nào?”
Nghe thấy câu này, Thang Đức Bảo bất giác hạ tay xuống. Hắn nhận ra thanh bảo kiếm Thanh Hồng chạm hình kỳ lân trên tay Lý Khác, e là tất cả mọi người trong cung đều nhận ra, hơn nữa đều từng nghe truyền thuyết về nó. Hơn hai mươi năm trước tại ải Vũ Lao, Lý Thế Dân đã dùng chính nó chém liền ba mươi lăm thủ cấp của liên quân Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức, khiến tướng lĩnh đối phương khiếp sợ, liên tục hô là thiên thần hạ phàm. Nay Thang Đức Bảo thấy vẻ mặt đằng đằng sát khí của Lý Khác, mới biết thiên thần mà bọn họ nói năm xưa trông như thế nào. Lý Khác không nhìn hắn, chỉ xăm xăm đi tới, mở toang cánh cổng chính cao lớn sơn đỏ ở trước mặt ra. Thang Đức Bảo trượt chân, cả người ngã xuống đất, mảnh sứ vỡ cứa rách cánh tay hắn, máu chầm chậm thấm ra từ trong tay áo màu lục nhạt.
Lúc này thái tử Lý Thừa Càn đang ngồi quây quần cùng các trợ thủ, chỉ vào mấy tờ giấy trên mặt đất với vẻ mặt chăm chú. Lý Khác giấu tay cầm kiếm ra sau lưng, cúi người hành lễ nói: “Hóa ra huynh trưởng đang bận! Xem ra em đến không đúng lúc rồi.”
Lý Thừa Càn giật mình, cây bút trong tay rơi xuống, dây một vệt mực đen đậm ra tờ giấy trắng. Gã đứng dậy bước tới nói: “Em vào đây bằng cách nào?”
“Em đến Đông cung tìm huynh trưởng để chuyện trò, chẳng lẽ lại có kẻ ngăn cản sao?” Lý Khác nở nụ cười ung dung thân thiết, thấy nụ cười này, Lý Thừa Càn bất giác lạnh cả sống lưng, nhất thời không nói nên lời. Ánh mắt Lý Khác lần lượt lướt qua mấy người bên cạnh gã: Hán vương Lý Nguyên Xương, thái tử phi Tô Du, phò mã đô úy Đỗ Hà, đại tướng quân Hầu Quân Tập, bí thư thừa Tô Đản, còn có hai viên phụ tá của Đông cung là Triệu Tiết và Lý An Nghiễm. Sau khi im lặng hồi lâu, y lại nói tiếp: “Huynh trưởng có khách, vậy thì em xin cáo lui trước. Hôm khác em đến thăm hỏi sau.”
Lý Thừa Càn đang định gật đầu đồng ý, Tô Du lại thình lình lao lên phía trước, giận dữ nói: “Thái tử điện hạ, không thể để y đi!”
“Đúng! Ngô vương điện hạ đã đến thì chớ vội đi! Ngồi xuống cùng nói chuyện thì hơn. Hầu Quân Tập vuốt chòm râu dài đến ngực, đanh mặt nói.
“Đại tướng quân muốn nói chuyện gì thế?” Lý Khác tiện tay đặt thanh bảo kiếm Thanh Hồng lên giá kiếm ở bên cạnh, vén áo ngồi xuống đối diện Hầu Quân Tập, rót đầy trà vào cái chén rỗng ở trước mặt, lại liếc nhìn Tô Đản nói, “Tô công giao nửa bức Đạp tuyết đồ cho ông, một là muốn nhanh chóng loại bỏ cấm quân canh phòng sau khi người của bọn ông tấn công vào hoàng cung, hai là cũng định để đôi bên kiềm chế lẫn nhau. Chỉ đáng tiếc, ông không hiểu ý đó, nên mới để nó gián tiếp rơi vào tay vương phi của bản vương. Còn thái tử phi thì không ngại liên tục ra tay với nàng, để đoạt về bức Đạp tuyết đồ . Món nợ này, chúng ta có cần tính toán cho sòng phẳng không?”
Tô Du hừ lạnh một tiếng: “Chỉ sợ ngươi không còn mạng mà tính toán thôi!”
“Tô Du! Không được vô lễ với Ngô vương!” Lý Thừa Càn tiến tới kéo Tô Du ra đằng sau mình, rồi quay sang nói với Lý Khác: “Đàn bà nông cạn, tam đệ đừng chấp làm gì. Mau nếm thử nho Thổ Phồn tiến cống, ngọt lắm đấy!”
Lý Khác một hơi uống cạn chén trà trước mặt, rồi bóc hai quả nho ăn, hoàn toàn không quan tâm đến ánh mắt nhìn y chằm chằm như hổ đói của đám người xung quanh: “Huynh trưởng đang làm gì thế? Lẽ nào huynh trưởng không biết, sáng nay em vừa mới đến phủ Tề vương, đưa cho ngũ đệ chén rượu độc mà phụ hoàng ban sao?”
Lý Thừa Càn ghì chặt thanh chủy thủ đeo bên hông, cúi đầu nhìn Lý Khác đang lấy khăn lau nước nho dính ở trên tay. Gã hoài nghi hồi lâu, cuối cùng vẫn buông tay ra, trầm giọng nói: “Lý Hựu nổi dậy ở Tề Châu, đương nhiên là vô dụng, còn ta thì khác! Hầu đại tướng quân có hai vạn người ngựa trong tay, còn hai nghìn thân binh tinh nhuệ của Đông cung ta lúc này đang mai phục ở ngoài, chỉ đợi bệ hạ đến như đã hẹn, sẽ ép ông ấy thoái vị nhường hiền, việc này