← Quay lại trang sách

Chương 8 Kế lồng trong kế

Hầu Quân Tập nghe thấy có điều không ổn, vội vàng chắn cổng chính sơn đỏ lại: “Thái tử điện hạ chớ hồ đồ! Chúng ta đi đến bước này đã như nước đổ khó hốt. Non sông gấm vóc đã ở ngay trước mặt ngài, với tay là tới! Lẽ nào ngài muốn chắp tay dâng nó cho Ngụy vương sao?”

Lý Thừa Càn từ từ buông tay xuống. Ngụy vương ở trong triều lung lạc lòng người, nơi đâu cũng tranh đứng đầu, lấn át thái tử gã. Lần trước sứ giả Bách Tế vào chầu lạy hoàng đế xong, lại đến phủ Ngụy vương trước, rồi mới qua Đông cung tặng quà, nỗi nhục lớn đến mức này, nếu nhịn được thì còn gì không nhịn được nữa đây! Lúc đó gã đã hạ quyết tâm, nhất định phải đòi lại công bằng từ Ngụy vương!

Nghĩ đến chuyện này, Lý Thừa Càn không khỏi thay đổi sắc mặt lần nữa: “Tam đệ không phải luôn muốn giữ mình cho tốt sao? Em yên tâm, lát nữa bệ hạ đến, em chỉ cần ngủ một giấc no say trong phòng ta là được. Đến khi em tỉnh, tất cả đã kết thúc rồi.”

Lý Khác nhíu chặt đôi mày, chút tỉnh táo do cơn đau trên cánh tay khơi lên đã nhanh chóng bị cơn buồn ngủ nặng nề lấn át. Y gắng gượng chống đỡ cơ thể đang lảo đảo sắp gục, bàn tay cầm kiếm Thanh Hồng run lên bần bật: “Huynh trưởng đừng khăng khăng làm theo ý mình. Rất nhiều... rất nhiều chuyện, huynh không tính chuẩn được đâu...”

Chữ cuối cùng vừa phát ra thì nghe thấy tiếng chém giết vang lên khắp bên ngoài. Thang Đức Bảo dẫn theo hai tên tiểu thái giám loạng choạng lao vào, chẳng để ý đến việc quỳ xuống hành lễ nữa, thở hổn hển nói: “Thái tử điện hạ, không xong rồi! Lý đại tướng quân đã... đã bắt hết toàn bộ người của chúng ta, giờ Đông cung đã bị bọn họ bao... bao vây rồi.”

Hầu Quân Tập túm cổ áo của Thang Đức Bảo, gân xanh nổi đầy tay: “Lý Tĩnh? Sao hắn lại biết?”

“Thái tử điện hạ, ngài nhìn xem, đây chính là em trai tốt của ngài đấy!” Lý Khác chỉ cảm thấy tầm mắt ngày càng mờ đi, lỗ tai ù ù, dường như nghe thấy Tô Đản đang nói bằng giọng châm biếm, “Hắn một mặt ly gián quan hệ của chúng ta, giả vờ tốt bụng khuyên ngài dừng tay, một mặt lại vung đao sau lưng ngài. Đúng là giống hệt cha ngài năm xưa!”

Trong mắt Lý Thừa Càn dường như không hề có vẻ căm hận, gã chỉ thầm thì như tự nói với mình: “Chúng ta tiến hành bí mật như vậy, bọn họ không thể biết được... không thể nào biết được.”

Lý Khác lảo đảo bước sang bên cạnh, vã tất cả chút nước trà còn sót lại trong ấm lên mặt, mới đổi được giây lát tỉnh táo: “Không sai, không ai biết kế hoạch của các ngươi, ta cũng chỉ suy đoán mà thôi, đoán các ngươi sẽ ra tay vào tối nay, khi Tề vương vừa chết, còn bệ hạ thì tinh thần bất ổn. Xem ra, ta đoán đúng rồi.”

“Suy đoán?” Rõ ràng Lý Thừa Càn rất bất ngờ trước hai chữ y vừa nói ra, “Ngươi dựa vào suy đoán để mật báo với bệ hạ sao? Không! Ngươi không có thời gian.”

Lý Khác nghe thấy bên ngoài dường như có tiếng người ngã xuống thành đống, không khỏi cười khẽ: “Đúng! Chính là dựa vào suy đoán! Nếu suy đoán của ta không đúng, vậy thì tội danh vu cáo thái tử mưu phản này ta sẽ gánh chịu. Còn về thời gian mà ngươi nói, thì lúc nào cũng có.”

Một tiếng sấm nổ rền vang nơi chân trời, cơn mưa lớn xối xả trút xuống trong chớp mắt, gần như át mất tiếng hô “bệ hạ giá đáo” rõ ràng vang dội của Vương Trung.

Mọi người trong phòng giật mình, nhất thời đều ngẩn ra không biết phải làm sao. Lý Thế Dân mặc áo bào màu tím sẫm có hoa văn rồng cuộn, đeo đai ngọc màu đen nạm vàng, bước vào với vẻ mặt nghiêm trang. Đám người phản bội trước mặt này, không phải là chí thân thì cũng là chí giao của ông.

Báo ứng, hai chữ nặng trĩu này đột nhiên hiện lên trong đầu Lý Thế Dân. Không! Không liên quan đến báo ứng, đó là dã tâm của bọn chúng, là tội nghiệt mà chúng tự chuốc lấy. Thảm kịch nhân luân, tay ông đã được định sẵn phải nhuốm máu lần nữa. Ông bước chậm rãi đến trước mặt Lý Thừa Càn, gã chỉ cúi đầu, ngây ra nhìn tấc đất vuông trước mặt.

“Thái tử chớ sợ” Hầu Quân Tập đứng phắt dậy, lạnh lùng nói, “lúc này hai vạn người ngựa của thần đang phục kích ở ngoài cửa Bắc. Trận này, vẫn chưa phân định ai thua ai thắng.”

Lý Khác chống kiếm xuống đất, máu tươi trên cánh tay nhỏ xuống đất từng giọt, một hộ vệ đằng sau Lý Thế Dân vội vàng bước lên đỡ y. Y vận hết sức, nhưng những lời nói ra vẫn yếu ớt: “Nhất thời sốt ruột nên nãy quên không nói với đại tướng quân, hai vạn người của ông đã nhận được ân chỉ của bệ hạ từ chiều, tất thảy đều được thăng quan một cấp, lúc này, e là ai nấy đều đang tự ăn mừng trong quân doanh rồi! Ông cho rằng bọn họ vẫn sẽ mạo hiểm cùng ông ư? Nói cho cùng, người ngựa của ông chẳng phải vẫn là người ngựa của bệ hạ, người ngựa của Đại Đường sao?”

Đáy mắt Lý Thế Dân lóe lên một tia khác lạ, rồi lập tức bình thường trở lại: “Hầu Quân Tập, ngươi tưởng rằng trẫm không biết những tính toán trong lòng ngươi sao? Những tướng lĩnh của ngươi đều từng theo trẫm chinh phạt thiên hạ, ngươi cho rằng họ sẽ theo ngươi làm những chuyện đốn mạt này sao?”

“Đúng là uy trời khó dò! Hóa ra bệ hạ chưa bao giờ tin tưởng mạt tướng” Ánh mắt Hầu Quân Tập vẫn lóe lên vẻ kiêu ngạo bất kham, chỉ là giọng nói rõ ràng đã không đủ tự tin.

“Ngươi giẫm đạp lên lòng tin của trẫm dành cho ngươi như vậy, tại sao trẫm không thể thu hồi nó lại?” Lý Thế Dân vẫy tay về phía sau, Lý Tĩnh sang sảng hô “dạ”, quân cấm vệ ở bên cạnh đồng loạt tiến lên, lập tức trói gỗ đám người kia lại ghì xuống đất. Nhưng lúc đối mặt với Lý Thừa Càn, rốt cuộc vẫn không một ai dám ra tay.

Lý Thừa Càn quỳ lết về phía trước, ngẩng đầu nói: “Phụ hoàng muốn xử trí con giống như xử trí ngũ đệ sao?”

Lý Thế Dân không nhìn gã, chỉ quay đầu nhìn thanh chủy thủ dính máu ở trên mặt đất, biểu cảm trên mặt không rõ là phẫn nộ hay là đau lòng: “Ngươi muốn trẫm hạ thủ lưu tình với một loạn thần tặc tử trong mắt không cha không vua, lấy phận dưới mạo phạm bề trên sao?”

“Phụ hoàng đã lập con làm người kế vị, ngôi vua này sớm muộn cũng là của con, người cho rằng tại sao con phải cùng đường mạo hiểm như vậy?” Sắc mặt Lý Thừa Càn đỏ phừng phừng vì kích động quá mức, “Người có thể tin yêu Ngụy vương, nhưng sao lại có thể để nó lấn át con như thế? Người có biết cảm giác có một người luôn trông chờ mình phạm lỗi, thậm chí còn mong mỏi mình chết là như thế nào không?”

“Vậy nên đó là cái cớ ngươi vin vào để cho phép mình giết cha sao?” Lý Thế Dân không mảy may dao động. Người trước mặt là con trai đầu lòng của ông, do hoàng hậu mà ông kính yêu sâu sắc sinh ra, là người kế vị được ông gửi gắm vô vàn hy vọng từ khi còn nhỏ. Nhưng thế thì sao? Nếu hôm nay ông không nhận được mảnh giấy đó, nếu ông không chuẩn bị chút gì mà cứ vội vã đến Đông cung thăm hỏi khi biết thái tử mắc bạo bệnh, thì sợ rằng lúc này hai người đã đổi vị trí cho nhau rồi.

Thắng làm vua thua làm giặc. Đạo lý này, ông đã hiểu sâu sắc từ hai mươi năm trước. Vì vậy đối với những việc mình làm, có lẽ ông có tiếc nuối, nhưng tuyệt đối không hối hận. Ông từng nói, ông sẽ tự tay dựng nên một thời thịnh trị, làm một đấng minh quân trị nước lưu danh sử xanh. Ông đã làm được, như vậy chưa đủ sao?

Lý Tĩnh ở bên cạnh gọi: “Bệ hạ.”

Lý Thế Dân sực tỉnh, bỗng nhiên cảm thấy vô cùng mệt mỏi, chỉ bặm môi nói: “Áp giải tất cả về nhà lao bộ Hình, canh giữ nghiêm ngặt!”

“Ngô vương điện hạ..” Lý Thế Dân vừa dứt lời thì nghe thấy tay hộ vệ lúc nãy chăm sóc cho Lý Khác kêu lên đầy lo lắng.

Lý Thế Dân quay người đẩy tay hộ vệ ấy ra, ngồi thụp xuống, đỡ lấy vai Lý Khác. Lý Khác gắng gượng hé mắt ra, yếu ớt nói: “Cha yên tâm... con không sao... là con bảo Kỳ Úc đi... xin lỗi cha, không làm như vậy thì... muộn mất...”

“Được rồi, con giữ sức đi, đừng nói nữa! Chuyện của con, đợi con khỏe rồi trẫm sẽ từ từ tính sổ!” Lý Thế Dân đưa mắt nhìn Vương Trung, lạnh lùng nói, “Còn không gọi người đưa Ngô vương về phủ trước đi? Bảo Vương Thọ Đức cũng khẩn trương qua đó!”

Nước mưa rơi lộp độp lên cánh cửa sổ khép hờ. Một tia chớp nhanh chóng xẹt qua bầu trời, nhất thời đêm tối lại sáng như ban ngày. Bàn tay cầm kim của Vương Thọ Đức run nhẹ, ông ta hít một hơi thật sâu rồi mới rút kim ra. Ông ta nhìn vẻ mặt như thể muốn ăn tươi nuốt sống mình của Dương Chính Đạo đứng ở bên cạnh, không khỏi hít vào một hơi lạnh toát: “Quân hầu yên tâm, lần này nhất định không vấn đề gì.”

“Sáng nay, hôm qua, và cả hôm kia, ông đều nói như vậy.” Dương Chính Đạo bực bội nói, “Bệ hạ giao con trai của người cho ông khám chữa, ông chỉ làm lấy lệ như thế thôi à?” Vương Thọ Đức hơi ấm ức, nhưng ngoài miệng vẫn chỉ vâng dạ: “Thần không dám. Có điều quân hầu cũng biết đấy, thuốc mê mà Ngô vương điện hạ trúng không phải là loại thông thường, không có thuốc giải, chỉ có thể châm cứu để ép nó ra từng chút một. Hôm nay châm xong lần này, chắc cũng ổn rồi.

Dương Chính Đạo nhìn vẻ mặt đáng thương của vị thái y thự lệnh mới nhậm chức, cũng không có ý làm khó ông ta nữa: “Được rồi, ta biết rồi, ông về phục mệnh với bệ hạ đi”

Vương Thọ Đức như trút được gánh nặng, lại vái chào lần nữa, rồi xách hộp thuốc nặng trịch quay người rời đi.

Dương Chính Đạo sờ trán Lý Khác, thấy y đã bớt sốt, mới yên tâm ngồi xuống tự gọt lê đỏ ăn.

“Biểu huynh, huynh không thể nói khẽ một chút được sao? Ta là bệnh nhân đấy.” Lý Khác mở mắt ra, cảm giác nặng nề trong đầu dần biến mất, chỉ là vết thương trên cánh tay lại ngày càng đau đớn khó chịu.

Dương Chính Đạo tiện tay cắm con dao nhỏ lên nửa quả lê đỏ đã gọt xong, ngồi sang cạnh y mừng rỡ nói: “Đệ có muốn ăn lê không?”

“Giờ ta chẳng có sức mà ăn nữa.” Lý Khác từ từ chống tay lên giường, ngồi thẳng người dậy nhìn xung quanh, ánh mắt không khỏi hơi tối đi.

Dương Chính Đạo kê thêm một chiếc gối vào sau lưng y, nói: “Kỳ muội chăm sóc đệ hai ngày hai đêm, Tuyết Lộ khuyên mãi cô ấy mới về phòng.”

Bấy giờ Lý Khác mới yên tâm, y nói tiếp: “Còn..”

“Bệ hạ bận chuyện của thái tử và Ngụy vương, tạm thời không có thời gian lo cho đệ.”

Lý Khác nghiêng người hỏi: “Rốt cuộc bệ hạ xử trí thái tử như thế nào vậy? Còn nữa, Ngụy vương làm sao?”

Dương Chính Đạo đặt con dao xuống, thấy vỏ lê không bị đứt đoạn chút nào, liền mỉm cười thỏa mãn nói: “Nhờ phúc của đệ, rốt cuộc thái tử vẫn chưa mưu phản thành công. Vì vậy, cuối cùng bệ hạ không nỡ nhẫn tâm, chỉ phế thái tử làm thường dân, đày đi Kiềm Châu. Còn Ngụy vương... vốn dĩ hắn chỉ cần nằm ngủ ở nhà cũng có thể thành người nối ngôi suôn sẻ, nhưng hắn lại đi hai nước cờ hồ đồ, tự đẩy mình vào chỗ chết.”

“Nước đi hồ đồ gì? Kỳ lạ thật đấy” Lý Khác nhận lấy nước trà Dương Chính Đạo đưa cho, uống cạn một hơi, thấy cổ họng dịu hẳn đi.

Dương Chính Đạo cắn hai miếng lê đỏ, rồi mới rủ rỉ nói: “Một là, hắn chạy đi uy hiếp Tấn vương, nói ngôi vị thái tử đã là của hắn, bảo Tấn vương chớ mơ mộng hão huyền nữa. Hai là, hắn lại đến tỏ lòng trung với bệ hạ, nói sau này lên ngôi, sẽ giết con trưởng của mình, để cho Tấn vương làm người nối ngôi hắn.”

Lý Khác ho khẽ mấy tiếng, cười rằng: “Bệ hạ cũng tin những lời nhảm nhí ấy sao?”

“Đương nhiên là không đời nào tin” Dương Chính Đạo chầm chậm vỗ lưng Lý Khác, mỉm cười, “vốn dĩ bệ hạ đã rất kiêng kỵ chuyện minh tranh ám đấu giữa thái tử và Ngụy vương. Nay tính gộp cả nợ mới lẫn nợ cũ, thế là bệ hạ giáng tước hắn làm Đông Lai vương, biếm đi an trí ở Huân Hương. Kết quả là để cho Tấn vương ngư ông đắc lợi, nhặt được món hời lớn.”

“Tự rước họa vào thân!” Lý Khác vặn cổ, cảm thấy vết thương nhỏ trên cổ ngứa ngáy khó chịu, giơ tay định gãi.

“Nhịn đi! Không được gãi!” Dương Chính Đạo vội vàng ấn tay y xuống, “Sao đệ ngốc thế! Người ta chĩa kiếm vào đệ, đệ không biết tránh à?”

“Nếu tránh thì chẳng phải sẽ yếu thế sao!” Lý Khác vô cùng uất ức nói, “Ta đoán rằng bọn chúng sẽ không dám hại đến tính mạng của ta! Ai ngờ Hầu Quân Tập lại bỉ ổi như thế, bôi cả thuốc lên kiếm.”

“Kẻ hám lợi đen lòng, có việc gì mà không dám làm chứ?” Dương Chính Đạo buông tay, “Khoan nói đến việc này vội, còn vài chuyện ta vẫn chưa hiểu, đệ nói là câu đố chữ đó do bọn Tô Đản mô phỏng nét chữ của thầy gửi cho đệ, vậy thì tại sao bọn chúng biết được Từ Tế đường ở An Châu, sao lại biết rõ nội dung cuốn sách y mà thầy đã soạn cho chúng ta như thế?”

“Không biết, có lẽ chim sẻ rình bọ ngựa, sau lưng còn có chim sẻ khác.” Lý Khác lắc đầu, mắt đầy vẻ lo lắng, “Giả sử đúng là như vậy, sợ rằng chuyện của thái tử không phải là kết thúc, mà chỉ là mở đầu. Mục đích thật sự của bọn chúng...”

“Lý Khác” Dương Chính Đạo đột nhiên ngắt lời y, nghiêm nghị nói, “rốt cuộc đệ có tin ta không?”

“Chúng ta có giao tình nhiều năm như vậy, ta tin huynh hay không, lẽ nào lòng huynh vẫn còn chưa rõ sao?”

“Thế tại sao chuyện quan trọng như vậy đệ lại không nói với ta!” Dương Chính Đạo không đồng tình, “Đệ thà để một cô gái như Kỳ muội vào trong quân giả truyền thánh chỉ, còn hơn là để ta làm.”

Lý Khác thở dài nói: “Hôm đó thời gian cấp bách, ta còn chẳng kịp vào cung xin chỉ, nên mới thực hiện đại hạ sách này. Kỳ nhi là vợ ta, nàng hay ta làm đều như nhau. Còn huynh thì không được, huynh biết...”

Dương Chính Đạo cau mày nói: “Đệ từng nói, dựa vào khí độ và tấm lòng của bệ hạ..”

“Đúng, ta từng nói, dựa vào khí độ và tấm lòng của mình, ông ấy sẽ chân thành bao dung huynh, trọng dụng huynh. Nhưng tiền đề là huynh phải tuyệt đối trung thành với ông ấy. Một khi huynh chạm vào ranh giới quân quyền của ông ấy, bất kể xuất phát từ lý do gì, ông ấy đều sẽ nghi ngờ huynh. Huynh không thể trách ông ấy, vì đó là năng lực cảnh giác và bảo vệ quyền lực mà một vị đế vương cần phải có. Cho nên, ta không thể hại huynh.”

Dương Chính Đạo vẫn không hiểu: “Còn đệ? Đệ cũng là con của ông ấy, trước có Tề vương, sau có thái tử và Ngụy vương, đệ không sợ ông ấy nghi ngờ sao?”

Lý Khác lắc đầu: “Ông ấy sẽ không đâu. Vào sinh nhật sáu tuổi của ta, ông ấy từng nói với ta một câu này: Từ nay về bất kể ta làm gì, ông ấy sẽ luôn tin ta; bất kể ông ấy nói gì, ta đều phải tin ông ấy. Cho nên hôm đó, ta đưa một mảnh giấy cho Sài Triết Uy ở cửa cung, bảo y chuyển nó cho bệ hạ, bệ hạ mới có chuẩn bị trước mà đi.”

“Đó là giao ước ngầm của cha con hai người, dù là thái tử sau này, e rằng cũng không chen vào được.” Dương Chính Đạo vứt lõi lê đỏ đã được gặm sạch vào trong sọt tre cạnh chân, đột nhiên mỉm cười nhìn Lý Khác nói: “Có điều, nếu để bệ hạ biết trong lúc cấp bách đệ suýt nữa làm hai cháu của ông ấy gặp nguy hiểm, e rằng sẽ trừng phạt không nhẹ đâu.”

“Hai cháu? Ai cơ?” Lý Khác mở to đôi mắt sáng ngời, ngỡ ngàng hỏi lại. Đột nhiên, y như sực hiểu ra điều gì đó, bèn siết tay Dương Chính Đạo thật mạnh: “Là con của Kỳ nhi và ta sao?”

“Vừa nãy còn bảo là không có sức ăn lê, giờ sao lại khỏe thế?” Dương Chính Đạo nhìn vết đỏ hiện lên trong thoáng chốc ở hổ khẩu, không khỏi quở trách, “Có thể là mệt vì làm việc giúp đệ, cũng có thể là hao tổn tinh thần do chăm sóc đệ mấy ngày liền, sáng nay Kỳ muội cảm thấy khó chịu trong người, Vương Thọ Đức khám mới biết cô ấy đã có thai được hơn một tháng, hơn nữa còn là song sinh. Hời cho đệ quá!”

“Huynh huyên thuyên với ta những thứ vô bổ cả nửa ngày trời, còn chuyện hệ trọng như vậy thì giờ mới nói! Không được, ta phải đi gặp nàng” Lý Khác lật chiếc chăn mỏng đắp trên người ra. Có lẽ vì dậy quá gấp, nên y chợt cảm thấy hoa mắt, chân còn chưa đứng vững đã ngã xuống.

Dương Chính Đạo lại phải đỡ y nằm xuống rồi nói: “Muộn thế này rồi, chắc Kỳ muội đã đi nghỉ. Giờ đệ qua chẳng phải sẽ đánh thức cô ấy sao? Đệ cứ yên tâm nằm xuống, đến sáng mai qua thăm cô ấy sau thì hơn.”

Lý Khác phải dưỡng thương mười ngày liền mới hoàn toàn bình phục. Trong vòng mười ngày ngắn ngủi này, tình hình trong triều đã có những thay đổi long trời lở đất. Thái tử, Ngụy vương cùng bè đảng của họ đã biến mất hoàn toàn khỏi trung tâm quyền lực. Chủ nhân mới lên thay của Đông cung là Tấn vương Lý Trị, người con trai thứ ba của Trưởng Tôn hoàng hậu, mới mười sáu tuổi, chẳng có tiếng tăm gì. So với Lý Thừa Càn không đức thiếu tài và Lý Thái cậy tài kiêu ngạo, thì một Lý Trị ôn tồn nho nhã, cư xử khiêm tốn lễ độ dường như mới là sự lựa chọn thích hợp nhất trong lòng hoàng đế và các triều thần cho ngôi kế vị.

Trưa hôm đó, trong thư phòng, Lý Thế Dân đang giở xem mấy bản tấu sớ mà lần trước đưa cho Lý Trị phê duyệt, càng xem lông mày càng nhíu chặt, đến cuối, ông bực mình vứt chúng sang một bên không thèm xem nữa, lắc đầu ngao ngán, trong lòng thầm nhủ: Thằng bé này, lẽ nào không thể có nổi chút suy nghĩ riêng sao?

Vương Trung từ ngoài bước vào, tươi rói nói: “Bệ hạ, tam điện hạ và vương phi ở bên ngoài cầu kiến.”

Lý Thế Dân thổi chén trà nóng trên bàn, gật đầu nói: “Bảo hai đứa vào đây.”

Từ sau vụ thái tử lần trước, đây là lần đầu tiên Lý Thế Dân gặp Lý Khác. Khi ấy thấy bộ dạng của Lý Khác, không phải là ông không lo lắng, có điều vừa nghĩ đến việc y cả gan dám giả truyền thánh chỉ, tùy tiện ban thưởng cho các tướng lĩnh đó, ông lại giận sôi gan. Dù rằng trong tình hình lúc đó, có lẽ đây là cách giải quyết tốt nhất.

Lý Thế Dân thấy họ nắm tay đi vào, cùng quỳ gối lạy chào, quả thật là trai tài gái sắc, trời đất tác thành, giống như một đôi người ngọc bước ra từ trong tranh tết, nỗi tức giận trong lòng bất giác vơi đi nhiều: “Kỳ Úc, con đứng lên trước đi!”

Kỳ Úc nhìn Lý Khác, biết y chắc vẫn phải quỳ thêm một lúc, đành đưa mắt về phía Vương Trung cầu cứu. Vương Trung hiểu ý, bước lên rót thêm trà vào chén của Lý Thế Dân: “Bệ hạ, tam điện hạ mới khỏi bệnh nặng, không nên...”

Lý Thế Dân ném phắt hai bản tấu sớ trên bàn xuống đất nói: “Ngươi cũng to gan nhỉ? Đi ra!”

Vương Trung thấy ông có vẻ đã nổi giận thật sự, luôn miệng kêu “thần không dám” rồi lật đật lùi bước ra. Lúc này Lý Thế Dân mới đến trước mặt Lý Khác, giơ tay tát y hai cái thật mạnh, Lý Khác thấy má mình đau rát như bị lửa đốt. Kỳ Úc không ngờ rằng ông lại ra tay chẳng nể tình như vậy, vội vàng quỳ xuống khấu đầu: “Xin phụ hoàng nguôi giận. Hôm đó người vào trong quân là Kỳ Úc, người giả truyền thánh chỉ cũng là Kỳ Úc, xin phụ hoàng trách phạt một mình Kỳ Úc là được rồi.”

“Con ngồi xuống, không phải việc của con.” Lý Thế Dân xua tay, lại quay sang nói với Lý Khác: “Con tự nói đi, trẫm có nên dạy dỗ con không?”

Lý Khác quỳ thẳng người lên, hơi cúi đầu nói: “Phụ hoàng dạy dỗ là đúng! Con không nên lừa dối phụ hoàng, không nên để Kỳ nhi phải mạo hiểm, cũng không nên...”

“Sau đó thì sao? Mặc cho Lý Thừa Càn và Hầu Quân Tập ăn cánh với nhau, mưu đoạt giang sơn của trẫm à?” Lý Thế Dân ngắt lời, cúi đầu nhìn ba viên ngọc mỡ dê trên cổ tay Lý Khác, cuối cùng cũng dần bình tĩnh lại, thở dài nói, “Trước đây ta đã nói với con rồi, bất kể làm chuyện gì, cũng phải bảo vệ tốt bản thân trước đã. Con thừa biết Đông cung có thể có mai phục, còn dám đơn thương độc mã tìm đến. Tên Hầu Quân Tập đó từng xông pha chiến trường, bước đi giữa đống xác chết, thế mà con cũng không sợ hắn sẽ giết con thật! Con chết rồi coi như xong, nhưng con bảo ta phải giải thích như thế nào với người mẹ đã mất của con, con bảo Kỳ Úc và đứa con chưa ra đời của con phải làm sao đây?”

Lý Khác bỗng cảm thấy lòng ấm áp rồi hơi thắt lại. Y cắn môi kìm nén những giọt nước mắt đang chực trào ra, rạp xuống đất lạy rằng: “Phụ hoàng yên tâm, sau này con sẽ không thế nữa.”

Lý Thế Dân đỡ hờ y một cái, cũng chẳng để tâm đến y, mà ngoảnh đầu mỉm cười nói: “Kỳ Úc, những tướng lĩnh đó đều không dễ đối phó, con không sợ họ sao?”

Kỳ Úc sững sờ giây lát, sau đó mới định thần lại, lắc đầu nói: “Tam lang bảo là, chúng con sẽ ổn cả thôi, cho nên Kỳ Úc không sợ! Hơn nữa bọn họ đều được thăng quan, còn phải nịnh nọt con ấy chứ!”

Lý Thế Dân cười rộ: “Giỏi lắm! Khác nhi có con bên cạnh, thật là phúc phận của nó.”

Lý Khác chỉ cảm thấy mặt càng nóng hơn, y giơ tay nắm chặt lấy tay Kỳ Úc nói: “Vậy phụ hoàng có thể nể mặt Kỳ nhi, không truy cứu tội của con không?”

Lý Thế Dân hừ lạnh một tiếng: “Thôi được! Coi như công tội ngang nhau! Chuyện này không được phép để người ngoài biết, bằng không, ngay cả ta cũng không bảo vệ được con đâu, hiểu không?”

Bây giờ Lý Khác mới thở phào, ngoan ngoãn gật đầu như một đứa trẻ. Lúc này, lại thấy Lý Thế Dân nhặt tấu sớ dưới đất lên ném vào tay y: “Đây là bức thư cầu cứu thứ hai của nước Tân La. Con về đọc cho kỹ, sau đó nói với ta, rốt cuộc có nên đánh trận này hay không.”

“Phụ hoàng muốn xuất binh đánh Cao Câu Ly? Đây không phải là chuyện nhỏ đâu.” Lý Khác ngạc nhiên nói.

Lý Thế Dân xếp lại các bản tấu sớ bừa bộn trên bàn, nói: “Ai cũng biết đây không phải là chuyện nhỏ, vậy nên mới cần con nghĩ kỹ rồi nói với ta.”

“Thực ra, nên hay không không quan trọng, Lý Khác lắc đầu nói, “quan trọng là, phụ hoàng có muốn đánh hay không.”

Lý Thế Dân nhìn Lý Khác với vẻ thích thú, ra hiệu cho y tiếp tục. Lý Khác dịch tấm đệm ngồi bên dưới đi một chút, suy nghĩ rồi nói: “Tể tướng Tuyền Cái Tô Văn của Cao Câu Ly giết vua đoạt quyền, hừng hực dã tâm, mưu đồ thôn tính Tân La và Bách Tế. Đại Đường chúng ta là nước tông chủ, xuất binh dạy dỗ Cao Câu Ly một phen, thực ra cũng hợp tình hợp lý. Có điều, hai nước Tân La, Bách Tế đó cũng không dễ chọc vào, nếu đánh thật, còn chưa biết thắng thua thế nào! Tranh chấp nội bộ của họ, chúng ta ngồi yên ở Trường An xem kịch cũng thú vị lắm. Vì vậy chọn lựa thế nào hoàn toàn nằm ở phía phụ hoàng.”

Lý Thế Dân cười ha hả: “Con nói vậy chẳng khác gì không nói.”

Lý Khác nhún vai: “Con chỉ biết thuyền sẽ đi về đâu, còn phụ hoàng mới là người cầm lái quyết định xem thuyền sẽ cập bến nào.”

“Được rồi, các con lui đi!” Lý Thế Dân nói, “Về nhớ viết lại những sai lầm của con lần này đấy.”

Lý Khác vái sâu một vái: “Phụ hoàng yên tâm. Giờ Mão sáng mai, nhất định con sẽ mang bản sách luận này đặt lên án thư của người.”

Cơn mưa vừa tạnh, một dải cầu vồng như ẩn như hiện cuối chân trời. Kỳ Úc khẽ xoa vết tay sưng đỏ trên mặt Lý Khác, xót xa nói: “Chàng có đau không? Bệ hạ ra tay mạnh thật. Có điều, ông ấy đúng là rất yêu quý chàng.”

“Sao có thể không đau cơ chứ? Ta sắp bị ông ấy đánh ngất rồi đây này. Lý Khác nắm lấy bàn tay đang xoa mặt mình của Kỳ Úc, “Ta lớn như này rồi, đây là lần thứ hai ông ấy đánh ta.”

Kỳ Úc tò mò hỏi: “Lần thứ hai? Vậy lần thứ nhất là vì cái gì?”

“Vì viên ngọc mỡ dê này” Lý Khác giơ cánh tay lên nói, “lúc đó ta mới bốn, năm tuổi, cảm thấy viên ngọc này rất đẹp, bèn cất vào trong túi, ai ngờ lại làm mất nó. Sau khi mẹ biết, liền tự mình đội mưa đi tìm, tìm mãi suốt hơn một canh giờ, tuy sau đó tìm được, nhưng mẹ cũng đổ bệnh vì lạnh. Biết chuyện, cha cầm thước đánh vào lòng bàn tay ta mấy cái, ta đau đến phát khóc.”

“Ngọc mỡ dê..” Kỳ Úc xem xét kỹ một hồi rồi mới hỏi, “Thật sự quan trọng như vậy sao?”

Lý Khác gật đầu: “Phải, rất quan trọng. Vừa đi ta vừa kể cho nàng nghe.”

Lý Thế Dân đứng chắp tay sau lưng rất lâu, mãi đến khi chân mỏi nhừ mới ngồi xuống. Những ngày này đã xảy ra quá nhiều chuyện, dường như toàn bộ tâm trí và tinh thần ông bị đè bẹp cùng một lúc. Nội trong sớm tối, ông đã mất đi ba người con trai, hai trong số đó là con dòng đích. Nỗi đau khó nói thành lời đó, dù là trước mặt Lý Khác, ông cũng không thốt ra được, chỉ có thể từ từ chịu đựng trong lúc không người.

Lý Khác... Lý Khác rất tốt, nhưng cũng vì y tốt, nên mới luôn khiến Lý Thế Dân lo lắng khó tả. Ánh mắt của Lý Thế Dân dừng trên chiếc hộp gỗ sơn đỏ trước mặt, ông chậm rãi mở ra, bên trong là ba viên ngọc giống hệt cái Lý Khác đeo trên cổ tay. Ông bỗng thấy sống mũi hơi cay, không biết vì sao, hôm nay ký ức về những viên ngọc mỡ dê này lại hiện lên trong tâm trí ông rõ ràng hơn bất cứ lúc nào trong quá khứ, có thể vì đó cũng là một buổi sáng sau cơn mưa to như trút nước thế này.

Năm Đại Nghiệp thứ tám nhà Tùy, ông cùng cha mình là Lý Uyên, bấy giờ được phong làm Đường quốc công, phụng chỉ vào cung chầu hoàng đế Dương Quảng nhà Tùy, khi hạ chỉ Dương Quảng có nói rằng hy vọng Lý Uyên mang theo công tử đi cùng. Vốn dĩ vào chầu cần đưa con trưởng đi, nhưng lúc đó Lý Kiến Thành bị bệnh mấy ngày chưa khỏi, chiếu lệnh của hoàng đế lại không được phép lần lữa, thế là Lý Uyên đành dẫn theo Lý Thế Dân mới mười bốn tuổi và mấy người hầu cùng đến Trường An gặp vua.

Tuy hồi đó Lý Thế Dân chưa lớn, nhưng từ nhỏ đã được thấm nhuần vẻ thần dũng uy vũ của cha và các anh chị, nên lúc triều kiến quân vương vẫn đối đáp trôi chảy, không chút run sợ. Dương Quảng khi ấy mắt sáng lên, ngạc nhiên hết sức, liền tháo một chuỗi vòng tay bằng ngọc mỡ dê đeo bên mình ban cho Lý Thế Dân. Chiếu theo quy củ trước kia, hôm sau cha con Lý Uyên phải lên đường ra về, nhưng vì yêu quý Lý Thế Dân, Dương Quảng quyết định giữ cậu ở lại trong cung thêm vài ngày, còn Lý Uyên thì sắp xếp cho nghỉ ở dịch trạm. Lý Uyên và các đại thần hồi đó đều không biết, để lung lạc người anh họ ngoại quyền cao chức trọng này, Dương Quảng đã rắp tâm chọn Lý Thế Dân làm con rể.

Dương Quảng không có nhiều con, thái tử Dương Chiêu đã qua đời vào năm Đại Nghiệp thứ hai, con thứ Tề vương Dương Giản đã lập phủ đệ riêng ở ngoài từ lâu, trưởng nữ Nam Dương công chúa cũng đã gả cho Vũ Văn Sĩ Cập, còn con trai út Dương Cảo thì mới sáu tuổi. Trong cung chỉ còn duy nhất Hoài Dương công chúa, cô con gái út của Dương Quảng là trạc tuổi Lý Thế Dân.

Bấy giờ hoa đào đang nở rộ trên những ngọn cây, trong đình Quy Vân ở hoàng cung Đại Hưng, Lý Thế Dân lần đầu trông thấy cô bé. Sau khi hỏi nhỏ các đại hoạn quan ở bên cạnh, Lý Thế Dân mới đi tới, cung kính khom người vái chào: “Thế Dân tham kiến Hoài Dương công chúa.”

Hoài Dương công chúa quan sát kỹ người vừa đi tới một lượt rồi hỏi: “Ngươi là ai?”

Khi đó Lý Thế Dân trẻ tuổi hoạt bát, đón lấy vạt nắng mai rực rỡ, mỉm cười đáp: “Tôi là con thứ của Đường quốc công, công chúa gọi tôi ‘nhị ca’ là được.”

“Nhưng ta có nhị ca rồi. Hoài Dương công chúa cũng cười, nghĩ một hồi rồi mới hạ quyết tâm nói, “Thôi được, nhị ca thì nhị ca. Cha mẹ và các anh chị đều gọi ta là ‘Nhiêm Nhi””

Nhiêm Nhi còn nhỏ tuổi, không hề biết rằng, ngoài cha mẹ và người thân ra, không thể để người ngoài, đặc biệt là con trai biết nhũ danh của con gái.

Sau ngày hôm đó, Lý Thế Dân gần như lúc nào cũng chơi đùa cùng Hoài Dương công chúa. Vì hai người vốn là anh em họ ngoại, hơn nữa Dương Quảng còn ấp ủ ý định gả con, nên Lý Thế Dân cũng chẳng có gì phải kiêng kỵ.

“ Thết tiệc Đông Đô, tiễn khách Kim Cốc , Nhiêm Nhi biết câu này dùng điển tích gì không?” Lý Thế Dân dựa vào một cây cột dưới mái hiên đình Quy Vân, nghịch cành liễu dài trong tay, đắc ý hỏi.

Hoài Dương công chúa suy nghĩ một chút, rồi sáng mắt lên: “Đây là một câu trong bài Biệt phú của Giang Yểm Giang Văn Thông, văn nhân Nam triều. Ở đây có hai điển, một là Đông Đô, một là Kim Cốc. Đông Đô là một cổng thành của Trường An, cửa Đông Đô trong câu Các công khanh đại phu cùng bạn cũ đồng hương bày lễ cúng lên đường, dựng lều thết tiệc ở cửa Đông Đô thuộc Hán thư - Sơ Quảng truyện chính là nó. Còn về Kim Cốc, đó là vườn Kim Cốc mà phú hào Thạch Sùng thời Tấn xây cho chính mình. Nhị ca, ta nói đúng không?”

Lý Thế Dân bặm môi, mỗi lần cảm thấy không cam tâm, cậu đều hành động như vậy theo thói quen. Đây đã là câu thứ tư mà cậu hỏi Hoài Dương công chúa trong hôm nay, vốn dĩ cậu định khoe khoang trước mặt cô bé, nhưng cô bé quá lợi hại, những sách mà Lý Thế Dân đã đọc, gần như cô bé cũng đọc hết cả rồi. Lý Thế Dân bất giác cảm thấy hơi chán nản, cúi đầu lẳng lặng nhìn cá chép trong ao.

“Nhị ca? Nhị ca... sao lại phớt lờ ta thế!” Hoài Dương công chúa thấy Lý Thế Dân không nói gì, liền đứng dậy, bước tới ngồi bên cạnh cậu, ngọt ngào gọi cậu mấy tiếng. Ánh nắng chiếu lên mặt Hoài Dương công chúa, làm đôi mắt trong veo của cô sáng long lanh.

Lý Thế Dân nhìn cô bé, trong lòng bỗng nhiên nảy ra chủ ý, tự tin hỏi: “Câu này nhất định Nhiêm Nhi không biết đâu! Năm Đại Nghiệp thứ nhất xảy ra chuyện gì?”

“Năm Đại Nghiệp thứ nhất?” Hoài Dương công chúa vặn tay, suy nghĩ một chút rồi nói, “Còn có chuyện gì được nữa? Đó là năm cha ta lên ngôi hoàng đế!”

Lý Thế Dân lắc đầu, ra vẻ thần bí nói: “Không chỉ như vậy, còn có chuyện lớn khác cơ! Ta biết, còn Nhiêm Nhi nhất định không biết!”

Hoài Dương công chúa vuốt bím tóc dài, nhỏ giọng thì thầm: “Ta thật sự không biết mà. Nhị ca nói cho ta đi!”

Lý Thế Dân ngẩng đầu, dương dương tự đắc nhìn cô không nói. Hoài Dương công chúa hơi sốt ruột, kéo tay áo Lý Thế Dân, nũng nịu nói: “Ca ca tốt, nói cho ta đi mà!”

Lúc này Lý Thế Dân mới mở miệng: “Sau này nhất định sẽ nói với Nhiêm Nhi!”

“Sau này? Nhất định?”

“Đúng! Nhất định!”

“Năm Đại Nghiệp thứ nhất?” Kỳ Úc nghe Lý Khác nói đến đây, liền dừng bước nhìn Lý Khác hỏi, “Rốt cuộc là chuyện gì thế ạ? Sau này cha có nói không?”

Lý Khác cười buồn, gật đầu nói: “Lúc hai người họ thành thân cha có nói, năm Đại Nghiệp thứ nhất chính là năm người ông ấy yêu ra đời. Cha thích mẹ từ nhỏ, đáng tiếc, vận mệnh vô thường, việc đời khó liệu.”

Đó là buổi tối cuối cùng của Lý Thế Dân ở Tùy cung. Tối hôm đó, cậu lúng túng nói với Hoài Dương công chúa, cậu đã đánh mất chuỗi ngọc mỡ dê mà bệ hạ ban cho trong rừng đào. Hoài Dương công chúa cũng lo lắng, liền cùng Lý Thế Dân đi đến rừng đào. Họ cầm ô, xách lồng đèn tìm rất lâu, nhưng lại chỉ thấy sáu viên ngọc vương vãi đằng sau một tảng đá. Hoài Dương công chúa mang ngọc về tẩm cung, dùng dây tơ đỏ xâu chúng lại, tết thành hai chiếc vòng tay.

Sáng hôm sau, Vương Trung cầm một chiếc vòng đưa cho Lý Thế Dân, nói cậu và công chúa mỗi người đeo một cái, để sau này gặp lại, chỉ cần nhìn vào vòng ngọc là có thể nhận ra nhau ngay. Chiều hôm ấy, Lý Thế Dân theo cha rời khỏi Trường An. Sau này, Dương Quảng đối với Lý Uyên, từ kính nể và coi trọng ban đầu đã dần trở thành kiêng dè và căm thù sâu sắc, ông ta chưa từng đề cập với ai ý định khi gặp Lý Thế Dân lần đầu tiên đó. Nhưng hai chuỗi ngọc mỡ dê này thì không bao giờ rời khỏi người Lý Thế Dân và Hoài Dương công chúa.

Vương Trung rón rén gõ cửa, đặt mấy đĩa điểm tâm khai vị trong khay xuống trước mặt Lý Thế Dân. Nhà vua lấy chiếc vòng tay ra khỏi hộp gấm, dường như vẫn chìm đắm trong ký ức năm xưa, giọng nói nghe có vẻ xa xôi vời vợi: “Trẫm còn nhớ, năm xưa ngươi đã đưa cái này cho trẫm.”

Vương Trung nghe thấy câu này, lòng cũng lay động vì những ký ức đã bị cát bụi phủ kín hơn ba mươi năm về trước: “Bệ hạ, người lại nhớ đến công chúa ư?”

Lý Thế Dân nắm chặt chuỗi vòng trong tay, lẩm bẩm: “Tình cờ gặp gỡ, cả hai thỏa lòng . [*] Cuối cùng trẫm vẫn phụ lòng Nhiêm Nhi.”

Vương Trung không dám nhìn vào ánh mắt ngẩn ngơ của Lý Thế Dân nữa. Ông ta chợt nhận ra, vị đế vương hô mưa gọi gió, ngồi ôm thiên hạ, có thể thách thức trời xanh trước mặt này lại cũng mang một nỗi cô độc mãnh liệt đến thế, ngài chẳng còn cao cao tại thượng nữa, mà chỉ là một người đàn ông đang nhớ tiếc tình xưa.

Giờ Mão hôm sau, Lý Khác vào cung. Lý Thế Dân có thói quen dậy sớm luyện võ từ khi còn nhỏ, tuy ông đã ngoài bốn mươi tuổi, nhưng dáng người cao như hạc đứng, thân hình rắn rỏi, trẻ trung cường tráng hơn những người cùng lứa tuổi nhiều. Lúc này ông đang cầm cây trường thương, động tác nhanh nhẹn dứt khoát, chiêu thức biến hóa đa dạng, người xem không kịp nhìn.

Sau vài chiêu, Lý Thế Dân cầm ngang thương đứng, đang định đặt trường thương xuống, bỗng liếc mắt nhìn thấy Lý Khác ở bên cạnh, ông lại cầm thẳng trường thương lên, đâm về phía y một nhát. Lý Khác vội vàng xoay người né tránh, tay trái kẹp lấy thương, tay phải thuận thế cầm lấy một cây thương trên giá gỗ bên cạnh, cũng đâm tới một thương. Lúc hai cây thương chạm nhau, tia lửa tóe ra bốn phía, làm mấy cung nữ hoạn quan đứng hầu bên cạnh sợ đến mức không dám thở. Sau chiêu cuối cùng, thu thế xong, hai người không hẹn mà cùng buông trường thương xuống. Lý Khác lập tức quỳ gối hành lễ nói: “Tham kiến phụ hoàng.”

[*] - Trích trong bài Dã hữu man thảo thuộc Kinh Thi.

Lý Thế Dân đỡ y dậy: “Nhiều năm rồi, con là người đầu tiên dám cầm trường thương nhắm vào trẫm đấy.”

Lý Khác cúi đầu lẩm bẩm: “Người chĩa thương vào con, con không đánh lại thì còn mạng được sao?”

“Con nói gì cơ?”

“Con bảo là, phong độ của phụ hoàng không kém năm xưa, con xin cam lòng chịu thua.”

Lý Thế Dân vỗ vai y vẻ tự đắc, thấy nãy giờ tay trái y cứ bịt lấy cánh tay phải, ông liền hỏi: “Vết thương trên cánh tay con vẫn chưa lành hẳn sao?”

“Phụ hoàng yên tâm, chỉ là vết thương xoàng thôi, không có gì đáng ngại. Lý Khác bỏ tay xuống, dâng hai trang giấy cuộn trong tay áo lên nói: “Đây là bài sách luận phụ hoàng yêu cầu, con đã hoàn thành rồi ạ.”

У Lý Thế Dân nhận lấy, thấy bên trên y viết dạt dào lưu loát đến tận ba bốn nghìn chữ, liền gật đầu hài lòng, ra hiệu cho y ngồi xuống cạnh mình, chỉ vào một bản tấu sớ đang mở trên bàn: “Lát nữa trẫm sẽ xem. Con đọc cái này trước đi, cấp dưới vừa mới trình lên đấy.”

Lý Khác ngồi thẳng người, cầm bản tấu sớ đó trong tay, vừa mở ra đưa mắt đọc qua đã đặt lại lên bàn, hơi cau mày, lo sợ nói: “Lục đệ... không hiểu chuyện, xin phụ hoàng đừng giận. Nó... con...”

Chắc vì quan tâm nên bối rối, Lý Khác nói năng có hơi lộn xộn, không biết nên nói gì tiếp theo. Bản tấu sớ này nói rằng, khi Lý Âm đảm nhiệm chức vụ đô đốc ở địa phương, không biết vì cớ gì lại vung tay vung chân đánh trọng thương một huyện lệnh, khiến người ta nằm liệt giường một tháng, còn bản thân lại thản nhiên như không, đi uống rượu gây rối cùng một đám tiểu lại.

Lý Thế Dân hừ lạnh một tiếng: “Con cũng chẳng biết quản giáo em trai mình cẩn thận. Dăm hôm ba bữa lại gây ra phiền phức, thật sự chẳng để người khác đỡ lo chút nào!” Lý Khác nghe thấy câu này, bất giác bật cười thành tiếng. Lý Thế Dân trừng mắt nói: “Còn cười được à! Có gì đáng cười đâu!”

Lý Khác lập tức lấy tay áo che mặt, vái Lý Thế Dân một vái nói: “Là con thất lễ. Nhưng lục đệ không chỉ là em ruột của con, mà còn là con ruột của phụ hoàng. Người không quản được nó, con có cách gì đây? Có điều, tính nó trẻ con, tùy tiện ương bướng, nghịch ngợm ham chơi, không chịu nổi trói buộc, chứ tuyệt đối không có tâm địa xấu xa đâu!”

Lý Thế Dân chẳng bảo đúng hay sai: “Con thì biết rõ rồi! Cũng may trẫm luôn giữ con ở trong kinh, nếu không thì e là con chỉ hơn chứ chẳng chịu kém!”

Lý Khác vội nghiêm trang nói: “Con không dám! Vậy phụ hoàng... phụ hoàng tính xử trí như thế nào?”

Lý Thế Dân hất tay áo, bực bội nói: “Còn thế nào được nữa! Đành phải cho nó về kinh mấy hôm, để tránh gây thêm họa lớn nào đó cho trẫm, con trông nó cho cẩn thận! Có khi con nói nó lại chịu nghe hơn trẫm.”

Lý Khác nghe thấy câu này, biết “họa lớn” mà Lý Thế Dân nói ám chỉ điều gì, liền nhẹ nhàng thưa: “Phụ hoàng yên tâm! Lục đệ sẽ không thế đâu.”

“Yên tâm? Khác nhi, con cho rằng trải qua nhiều chuyện như thế, trẫm còn có thể yên tâm được sao?”

Trái tim Lý Khác bỗng chùng xuống. Y biết, Lý Thế Dân nói vậy, tuyệt đối không chỉ vì chuyện của Lý Âm. Đế vương phải gánh vác thiên hạ nặng như Thái Sơn, lại không được phép san sẻ cùng người khác. Dù thân thiết như cha con, dù muốn gánh hộ một phần, cũng không sao gánh nổi. Nơi đó là cấm địa, y mãi mãi chẳng thể đặt chân vào. Thế nên y cũng chỉ lặng im không lên tiếng, mặc cho trái tim đập thong thả từng nhịp một.

Vào một buổi chiều mưa khói mịt mù hơn một tháng sau, Lý Khác đang ở trong phủ giở xem hai tập hồ sơ lớn mà sáng nay Tiêu Nhuệ chuyển cho y, thì thấy Quý Thành gõ cửa bước vào với bộ mặt tươi cười: “Điện hạ, Thục vương điện hạ tới, giờ đã ở trong sân rồi ạ!”

Lý Khác bảo “biết rồi”, sau đó đặt bút xuống, đứng dậy bước ra ngoài. Mặc dù đúng là bực mình khi có một cậu em trai suốt ngày gây họa như thế này, nhưng biết làm sao đây? Nó là em trai máu mủ ruột rà, chẳng lẽ có thể mặc kệ thật sao?

Vừa bước ra khỏi cửa phòng, y đã thấy Lý Âm từ xa chạy lại, còn có hai tiểu nô theo sau. Cậu đội mũ kim quan phỉ thúy, mặc một chiếc áo dài lụa mỏng màu tím, bên hông đeo một túi thơm nhỏ và tinh xảo. Hai anh em giống nhau đến sáu, bảy phần, đều tuấn tú, dáng người cao ráo, mặt đẹp như ngọc, hơn nữa đều có đôi mắt to vừa đen vừa sáng.

Vừa trông thấy Lý Khác, Lý Âm bất chấp mưa giăng đầy trời, vứt ô cho tiểu nô ở đằng sau, chạy đến dưới hiên nhà, cúi người vái một vái: “Gặp được ca ca thật là tốt quá.”

Lý Khác giơ tay lau nước mưa dính trên tóc cậu, nói: “Cơ thể rắn rỏi hơn rồi, nhưng tính tình em thì...”

“Sợ là cả đời cũng không thay đổi được.” Lý Âm tiếp lời, kéo y vào phòng không cho giải thích gì thêm, mặt vẫn tươi cười rạng rỡ, như thể cậu không phải bị biếm, mà là về kinh trong vẻ vang.

Thấy trong phòng chỉ có hai anh em bọn họ, Lý Âm bèn bước từng bước đến bên cạnh Lý Khác, kéo vạt áo y, nói với vẻ vừa thấp thỏm vừa ấm ức: “Ca ca đừng tức giận, em đang muốn nói với ca ca đây! Chuyện của em có căn nguyên cả mà!”

Lý Khác liếc cậu một cái, hiện giờ y không còn lòng dạ nào để nghe Lý Âm kể lể căn nguyên: “Gặp phụ hoàng chưa?”

“Gặp rồi.” Lý Âm nhớ lại tình cảnh lúc gặp Lý Thế Dân ban nãy, vẫn thấy sợ hãi trong lòng. Thực ra Lý Thế Dân chẳng nói gì với cậu, suốt một canh giờ, gần như ông không nhìn thẳng vào mắt cậu lấy một lần, bởi không biết nói gì mới phải. Tuy hai anh em tính cách khác nhau, song đều làm ông không yên tâm nổi, nhưng ông lại chẳng biết phải bộc lộ những lo lắng ẩn giấu trong lòng mình như thế nào, đành dứt khoát không nói gì, để một mình Lý Âm ở đó ngẫm nghĩ cho kỹ.

Lý Khác nhìn vào ánh mắt có phần ảm đạm của cậu nói: “Phụ hoàng không nói gì với em chứ gì!”

“Sao ca ca biết? Đúng là phụ hoàng chẳng nói lấy một câu. Nếu không phải sau đó Trưởng Tôn Vô Kỵ đến tìm phụ hoàng nói chuyện, chưa biết chừng em còn phải đứng lâu lắc!” Lý Âm nhướng mày, ngạc nhiên nhìn y.

Lý Khác rót trà, từ tốn nói: “Ta đoán vậy thôi!”

Lý Âm vừa mới nhấp một ngụm trà, còn tưởng rằng y có phân tích tinh tế gì đó, nghe y nghiêm trang nói vậy, cậu suýt nữa thì phun ra: “Đơn giản thế thôi à! Vậy ca ca đoán tiếp xem, phụ hoàng bãi chức quan của em xong sẽ dừng tay, hay là ông ấy vẫn đang nghĩ cách trừng trị em tiếp.”

Lý Khác đảo mắt, tức cười nói: “Em thật sự cho rằng ca ca em là thần tiên, biết bấm độn tiên tri hay sao?”

Lý Âm nghe y nói vậy cũng không chán nản, mà lại cười “ha ha” thành tiếng: “Ca ca không biết nhưng em biết, sẽ không có chuyện gì cả! Bởi vì, em là em trai ruột của Ngô vương mà!”

“Vậy thì sao?” Lý Khác nghe cậu nói năng hùng hồn, lý lẽ đầy đủ, liền cười tự trào, “Em thật sự coi ta là thần tiên sao? Quả thật ta được yêu quá hóa sợ đấy!”

“Ca ca không phải là thần tiên, nhưng em được thơm lây nhờ ca ca.”

Lý Khác nhìn em trai mình, đã mười chín tuổi rồi mà vẫn giống một đứa trẻ chưa trải sự đời, lòng y không khỏi mừng lo lẫn lộn. Mừng vì Lý Âm hồn nhiên không vướng bận, mà lo cũng chính vì sự hồn nhiên này. Tuy Lý Âm và Lý Khác là anh em ruột, nhưng tính khí thực sự khác xa nhau. Tính cách thản nhiên và rộng lượng của Lý Khác là do trải qua sự đời dâu bể mà mài giũa thành, còn Lý Âm thì từ nhỏ lớn lên trong sự chở che của anh trai, tuy thường gây ra những chuyện hoang đường kỳ quái, nhưng không hề có tâm cơ.

“Được rồi, giờ ta đang muốn nghe đây, Lý Khác lấy tay chống đầu, nhìn cậu nói, “rốt cuộc tại sao em lại động thủ?”

Lý Âm đứng dậy, xoa tay nói: “Tay huyện lệnh đó thật sự quá đáng! Nghe nói con trai đã hơn hai mươi tuổi rồi, vẫn lấy tiểu thiếp mới mười ba, mười bốn tuổi, hằng đêm ca hát, nghe nói còn lạnh nhạt với người vợ đầu và con đẻ. Đấy vẫn chưa là gì, mấy hôm trước cô tiểu thiếp đó có tin mừng, tay huyện lệnh đó cũng tử tế gớm, nghe nói còn muốn để lại phần lớn gia sản cho mẹ con tiểu thiếp! Nhưng trước mặt em thì hắn lại giả bộ khiêm tốn đúng mực, em thấy ngứa mắt, liền ra tay dạy dỗ sơ qua hắn một trận!”

Lý Khác nghe cậu kể hùng hồn với vẻ mặt nghiêm túc thì vừa tức giận vừa buồn cười, bực vì cậu em không nên nết, y nói: “Thật là càn rỡ! Em kể toàn là những chuyện linh tinh vớ vẩn! Em là đô đốc một châu, cần quản lý công việc chính trị và quân mã của toàn bộ địa phương, chứ không phải là làm bà quản gia của nhà huyện lệnh!”

“Nhưng em thực sự không chịu nổi!”

Lý Khác nhìn vẻ mặt vô tội của cậu, lắc đầu ngao ngán: “Vừa nãy chỉ trong vài câu ngắn ngủi, em đã nói tận ba từ ‘nghe nói. Em nghe ai nói? Chuyện chưa có gì chắc chắn mà em cũng tin? Cho dù là thật thì đó cũng là chuyện nhà người ta, em nhúng tay vào làm gì? Bất kể trong trường hợp nào, nếu em thật sự muốn dạy dỗ tay huyện lệnh đó, thì cứ lấy uy tín của một thân vương đô đốc ra, hắn đâu có lý do gì mà không phục? Lại còn ra tay đánh người! Thật là mất mặt!”

Lý Khác càng nói càng lớn giọng, thần thái không giận mà uy vô tình hiện lên giữa hai hàng lông mày, hoàn toàn trấn áp cậu em trai luôn không câu nệ lễ phép, chuyện gì cũng dám nói trước mặt y. Lý Âm liền cúi đầu: “Ca ca, là em không đúng, em biết sai rồi vẫn không được sao? Ca ca đừng như vậy, đáng sợ lắm!”

Nói xong cậu liền liếc Lý Khác một cái qua khóe mắt, thấy Lý Khác ngồi ngay ngắn, chiếc áo bào màu xanh nước biển làm tôn lên khí thế bừng bừng của y, đôi mắt nhang nhác cậu trong suốt sáng ngời. Lý Âm bất giác lẩm bẩm: “Ca ca giống phụ hoàng thật...”

“Em nói gì cơ?” Lý Khác trừng mắt.

“Không, không có gì!” Lý Âm vội vã trả lời, “Em bảo là ca ca dạy dỗ phải lắm, sau này, em sẽ không dám nữa!”

Lúc này Lý Khác mới thu lại vẻ mặt nghiêm nghị, khẽ mỉm cười, bỗng cảm thấy nghe cậu nhận sai cũng là một chuyện thú vị, bèn kéo tay cậu nói: “Thằng ngốc, như vậy mới phải chứ!”

“Ca ca không giận ạ?” Lý Âm nghe giọng y đã dịu đi nhiều, liền nói tiếp, “Thực ra, em không làm đô đốc nữa cũng tốt, ở lại Trường An thì có thể gặp ca ca thường xuyên, cũng coi như là trong họa được phúc!”

Trong họa được phúc? Lý Khác nhìn cậu cười nhoẻn miệng, chợt cảm thấy ấm áp trong tim, bèn gật đầu nói: “Coi như thế đi!”

Lúc này trong điện Lưỡng Nghi, chiếc lư hương hai tầng sáu trụ rồng bằng gang đúc đang bốc khói lượn lờ, tỏa ra hương thơm thấm vào tim phổi. Trưởng Tôn Vô Kỵ hít sâu một hơi, nói: “Rốt cuộc bệ hạ định xử trí việc của Thục vương như thế nào?”

Lý Thế Dân gấp bản tấu sớ hạch tội trước mặt lại, nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của Trưởng Tôn Vô Kỵ, điềm đạm nói: “Trẫm đã giao việc này cho Ngô vương rồi, tùy nó xử trí!”

“Bệ hạ..” Trưởng Tôn Vô Kỵ không kiềm chế được bước lên hai bước, “Họ là anh em ruột, quan hệ lại tốt như thế, lẽ nào người thật sự không sợ Ngô vương thiên vị sao?”

Lý Thế Dân nghịch món đồ chơi hình quả hồ đào trong tay, thản nhiên nói: “Thiên vị thì thiên vị! Có phải chuyện to tát gì đâu.”

Đó vẫn không được coi là chuyện to tát sao? Lẽ nào phải đến mức giết vua mưu phản thì mới là chuyện lớn? Trưởng Tôn Vô Kỵ không khỏi nghĩ thầm trong bụng. Thực ra Lý Âm chỉ là một gã vương tôn công tử vô học bất tài, ông ta dù rảnh rỗi đến mấy cũng chẳng thèm để tâm đến việc này, chẳng qua hôm nay thuận miệng hỏi mà thôi, có điều vừa nhắc đến Ngô vương, ông ta lại thấy căng thẳng không kìm nén nổi. Rõ ràng Lý Khác đã lập công lớn trong vụ Lý Thừa Càn, nhưng Lý Thế Dân lại chẳng hề khen thưởng, hiển nhiên là không muốn lôi y vào việc này. Dốc hết tâm tư để bảo vệ như vậy, rốt cuộc mục đích là gì?

Trưởng Tôn Vô Kỵ bất giác có chút hồi hộp, ông ta nhìn con rồng cuộn sống động như thật trên lư hương trước mặt, nói: “Bệ hạ không nên nuông chiều Ngô vương như thế. Suy cho cùng, Ngô vương cũng chỉ là Ngô vương.”

Lý Thế Dân đứng dậy, chắp tay đi đi lại lại mấy bước, rồi mới bưng tách trà trên bàn lên, mở nắp ra, do dự một lát rồi lại đặt xuống, tựa như vô ý, lại tựa như đã suy nghĩ cặn kẽ, ông nói: “Nếu Ngô vương không chỉ là Ngô vương thì sao?”

Bản tấu sớ Trưởng Tôn Vô Kỵ cầm trong tay nãy giờ rơi bộp xuống đất, vang vọng trong đại điện yên tĩnh. Ông ta hoảng hốt quỳ xuống nói: “Bệ hạ thứ tội”

Lý Thế Dân khẽ cười, như thể không hề để ý đến sự thất lễ của ông ta. Ông biết Trưởng Tôn Vô Kỵ hiểu ý tứ trong câu nói này. Hai người là vua tôi và là bạn thân đã nhiều năm, ông ta còn là anh ruột của vợ ông, đôi bên xưa nay vẫn ăn ý. Sở dĩ Lý Thế Dân nói cho ông ta nghe điều này trước tiên, cũng vì hy vọng được ông ta thấu hiểu và ủng hộ. Trong tình cảnh hai con tranh giành, cả đôi cùng bị biếm, triều đình và lòng người hoang mang lo sợ, thì việc sách lập Tấn vương Lý Trị, người con trai thứ ba dòng đích, có tính cách ôn hòa, không tranh với đời làm thái tử, thực sự là kế sách tạm thời hợp lý hợp lẽ. Nhưng bây giờ không phải đã khác rồi sao? Lý Thế Dân nuôi dạy Lý Trị bên mình từ nhỏ, đương nhiên rất hiểu tính tình của y, đó là một đứa con ngoan, nghe lời, hiểu chuyện, hiếu thuận, lúc giao sách vàng ấn vàng của thái tử vào tay Lý Trị, ông cũng thật lòng chuẩn bị phó thác thiên hạ cho y.

Song chỉ hơn một tháng sau, ông đã hối hận. Nhưng đó không phải là lỗi của Lý Trị, mà là của ông. Ông không nên vì sự ổn định nhất thời mà tùy tiện để một đứa trẻ gánh vác gánh nặng của giang sơn xã tắc, giống như ông không thể để một thư sinh đi cầm quân đánh trận vậy. Quan trọng hơn là, ông không phải không có sự lựa chọn khác. Ông đã nghĩ đến Lý Khác, nghĩ đến từ rất lâu trước kia rồi. Sau này ông bỏ qua Lý Khác chẳng phải vì quan hệ cả lẽ, mà vì cuối cùng ông vẫn không buông bỏ được cái chết của Dương Nhiệm. Lúc đó nàng đã thoi thóp, nhưng vẫn gắng nói nốt hai câu. Một câu là: Khác nhi, chăm sóc cha con cho tốt. Câu còn lại là: Nhị ca, không được để con của chúng ta rơi vào bất kỳ cuộc tranh giành quyền lực nào.

Những năm qua, Lý Thế Dân luôn làm như vậy. Dù là đô đốc An Châu hay là Đại Lý tự khanh, đều không phải là vị trí dính dáng trực tiếp với quyền vị. Dựa vào tài hoa và nhân phẩm của mình, Lý Khác đủ sức làm một Chu công phò tá vua. Nhưng trong một khoảnh khắc, ông đã thay đổi chủ ý. Ông muốn trao cho y quyền lực, quyền lực tối cao, dù hiện giờ chắc chắn không phải là thời cơ tốt nhất, chưa kể việc này còn đi ngược lại lời trăng trối của Nhiêm Nhi lúc lâm chung, nhưng ông nhất định phải chọn cho mình một người kế vị tốt nhất, dẫu rằng người tốt nhất lại không phải là người thích hợp nhất.

Vì vậy, ông cũng chỉ nói với Trưởng Tôn Vô Kỵ bằng giọng thăm dò, gần như là dè dặt: “Hôm đó, chính tại đây, ngươi khuyên trẫm lập Tấn vương làm thái tử, trẫm đã nghe theo lời của ngươi. Nhưng có một số chuyện, một số người, đều không nằm trong tầm kiểm soát của trẫm và ngươi. Những năm qua Lý Khác luôn ở trong kinh, nó là người như thế nào, mà thái tử là người như thế nào, chắc ngươi cũng đã rõ. Trẫm không nỡ bỏ qua đứa con trai oai hùng quả cảm, tài hoa phơi phới này. Nó mới là người kế vị chân chính trong lòng trẫm, ngươi hiểu không?”

Trưởng Tôn Vô Kỵ vừa nghe thấy lời này, trái tim đột nhiên lạnh đi phân nửa. Cuối cùng bệ hạ vẫn nói thẳng chuyện này ra. Chỉ là thái tử mới lập còn chưa đầy hai tháng mà! Cũng hơi nhanh quá. Trong đầu Trưởng Tôn Vô Kỵ bỗng hiện lên cảnh tượng nhiều năm trước ông ta chạm mặt Lý Khác trên hành lang trong hoàng cung. Gạt hết lòng riêng sang một bên, ông ta không thể không thừa nhận, tám chữ “oai hùng quả cảm, tài hoa phơi phới” mà Lý Thế Dân đánh giá Lý Khác thực sự rất đúng. Nhưng ông ta tuyệt đối không thể tán đồng, thậm chí chỉ dao động một chút cũng không được.

Ông ta trầm mặc một lát, cuối cùng vẫn dẹp yên được sóng lòng cuồn cuộn, ung dung nói: “Bệ hạ sao lại có ý nghĩ này? Thái tử điện hạ nhân hậu từ bi, là vị vua có thể giữ vững thành tựu của đời trước. Người kế vị là gốc rễ của đất nước, bệ hạ nay thế này mai thế khác, lẽ nào không sợ trong triều ngoài nội lại dậy sóng hay sao?”

Lý Thế Dân cười nhạt, dang tay nói: “Không phải còn có ngươi ở đây sao? Chẳng loạn được đâu!”

Trưởng Tôn Vô Kỵ không hề dao động trước lời khen ngợi quá mức của Lý Thế Dân, nghiêm mặt nói: “Lập người kế thừa chọn con đích không chọn con trưởng, lập đích chọn con trưởng không chọn con hiền [*] . Lẽ nào bệ hạ đã quên nguyên tắc kế thừa cơ bản nhất này sao? Thái tử điện hạ nay là con dòng đích duy nhất của bệ hạ, không thể không lập được!”

[*] - Theo quan niệm truyền thống, thích hợp nhất là lập đích, nói chính xác là lập con trưởng của vợ cả. Nếu con t