← Quay lại trang sách

Chương 12 Chuyện xưa dĩ vãng

Dương Chính Đạo nói không suy nghĩ: “Ta là bề tôi Đại Đường, là anh em với Ngô vương điện hạ, là chồng của An Lăng huyện chúa. Chẳng có gì là không thể nói với người khác, lòng ta tất nhiên thảnh thơi thanh thản.”

Vũ Văn Thiền Sư nghe gã quả quyết như vậy, khá xúc động nói: “Ngươi có phúc hơn ta, Dương công tử.”

“Không nói chuyện này nữa,” Dương Chính Đạo chẳng tỏ rõ ý kiến, “chuyển sang Vũ Văn Sĩ Cập đi! Nói với ta, rốt cuộc lão chết như thế nào?”

“Mùng tám tháng Tư năm năm trước, ta hẹn gặp lão ở đình Thu Hà. Hai mươi năm không gặp, ta phát hiện ra lão thực sự đã già lắm rồi. Vào khoảnh khắc lão gọi tên ta, ta cũng hơi mềm lòng, thậm chí không hiểu sao còn lóe lên ý nghĩ hoang đường là từ bỏ việc báo thù.” Vũ Văn Thiền Sư nói đến đây, nét mặt thoáng biến đổi, gần như không thể nhìn ra, “Nhưng nếu ta từ bỏ thật, thì sao có thể đối mặt với mẹ ta, đối mặt với những người thân đã khuất kia? Vì vậy, ta đã bỏ độc vào trong trà của lão. Loại độc này không phát tác ngay tại chỗ, nhưng khi phát tác thì ruột gan đứt đoạn, hơn nữa sẽ không tra ra được nguyên nhân. Năm năm nay mỗi lần gặp mặt, ta đều cho lão uống loại độc này. Ta không thể để cho lão chết một cách thoải mái được, lão không xứng!”

Dương Chính Đạo nghi hoặc nói: “Chẳng trách Huyền Giác lại nói, mấy năm nay lão chịu rất nhiều đau khổ. Nhưng mà ta không hiểu, với trí tuệ của lão, chắc cũng không khó để đoán ra mình đã trúng độc, hơn nữa còn là do ngươi. Vậy thì tại sao lão vẫn thường xuyên ra ngoài gặp ngươi?”

“Vì ngươi là con của ông ta, mà còn là đứa con trai do người ông ta yêu thương sinh ra.” Lý Khác thấy Vũ Văn Thiền Sư im thin thít, liền trả lời thay hắn: “Bất kể ông ta đã làm gì thì đối với mẹ ngươi, với ngươi, hẳn là vẫn còn một phần tình cảm chân thật. Bởi vậy, dù biết rõ ngươi muốn giết ông ta, ông ta vẫn không kìm chế được bản thân đi gặp ngươi...”

“Ngô vương điện hạ nói sai rồi!” Lý Khác còn muốn nói thêm gì đó, nhưng lại nghe thấy tiếng cửa gỗ đằng sau chầm chậm mở ra, ngay sau đó là một giọng nữ vô cùng quen thuộc vang lên.

“Mẹ..” Lý Khác không cầm lòng được khẽ gọi một tiếng, đứng bật dậy, vội vàng bước tới hai bước. Những năm tháng ấu thơ có mẹ, là một vạt nắng ấm rọi vào trong tim y. Những năm qua, y đã vô số lần nhìn thấy ánh nắng khi ấy chầm chậm chảy qua kẽ tay mình trong mơ. Y muốn nắm lấy, nhưng nắm thế nào cũng không được, khi tỉnh dậy thì thấy mồ hôi đẫm lưng, rồi lại cảm thấy một cơn lạnh buốt thấu xương. Nhưng mới rồi, dường như y sắp chạm được vào nó. Y không thể nhớ nhầm, hồi nhỏ chính giọng nói này đã dịu dàng rủ rỉ bên tai y: Khác nhi đừng sợ, có mẹ ở đây.

Sau đó, trong khoảnh khắc bà ta bước vào cửa, mọi biểu cảm trên mặt của Lý Khác đều đông cứng lại. Chỉ thấy đó là một ni cô mặc bộ áo nhà sư thuần một màu đen, vẻ mặt lạnh tanh, nhưng giữa hai hàng lông mày lại phảng phất khí chất thanh cao và oai nghiêm không thể xâm phạm mà những người xuất gia bình thường sẽ không thể có. Dương Chính Đạo bước đến bên cạnh Lý Khác, hỏi nhỏ bên tai y: “Giống lắm à?”

Lý Khác lắc đầu: “Không giống. Nhưng giọng nói gần như y hệt.”

Ni cô đó coi như không thấy biểu cảm phức tạp trên mặt Lý Khác, chỉ chắp hai tay lại thi lễ nói: “Vong Trần kính chào Ngô vương điện hạ, kính chào Tuyên Bình hầu.”

Hai người vội chắp tay vái dài, đồng thanh nói: “Không dám.”

Vong Trần bước chậm rãi đến trước bàn thờ, thắp hương vái ba vái xong thì ngồi quỳ trên bồ đoàn, quan sát tỉ mỉ Lý Khác một lượt rồi mới nói: “Trông cậu thật sự giống cha cậu hồi trẻ, chỉ là năm xưa cha cậu bừng bừng khí thế, hả hê đắc chí, còn cậu thì không bằng.”

Mắt Lý Khác hơi sáng lên, y hỏi: “Sư phụ gặp cha tôi rồi sao?”

“Năm mười sáu tuổi, cha cậu hiến kế cho tướng quân Vân Định Hưng, đẩy lùi người Đột Quyết đến xâm phạm, giải vây cho ải Nhạn Môn, giúp quân đội Đại Tùy không đánh mà thắng. Lúc y vào chầu nhận khen thưởng, tôi từng gặp mặt một lần, quả thật là thiếu niên anh hùng.”

Lý Khác không khỏi tự hào ra măt: "Từ xưa đến nay, số người có thể uy nghi được như cha tôi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Lý Khác chẳng qua là phàm phu tục tử, tất nhiên không thể so sánh với ngài.”

Bàn tay đang chậm rãi lần tràng hạt của Vong Trần dừng lại đột ngột, mắt nhìn về phía xa xăm, tựa như đang cố gắng tìm kiếm một người nào đó trong ký ức. Một lúc lâu sau, bà mới nói: “Nhưng ông ngoại cậu năm xưa cũng tràn đầy hùng tâm tráng chí, không thua cha cậu. Hưng Đông Đô, sửa Vận Hà, đi tuần Đột Quyết, chinh phạt Cao Câu Ly... việc gì cũng là công tích lớn lưu lại nghìn năm. Chỉ đáng tiếc, ông ấy quá nóng lòng muốn thành công, cuối cùng mệnh trời không phù hộ. Bằng không dựa vào trí tuệ của ông ấy, sao rơi vào kết cục bi thảm như vậy được? Ngô vương, cậu nói xem có phải không?”

Bên ngoài tiếng gió rít hòa lẫn với tiếng kêu quái dị của cú mèo, nghe thật khiến người ta sởn da gà. Dương Chính Đạo thấy Lý Khác không nói, biết với thân phận và lập trường của mình, y không tiện đánh giá sâu hơn về việc này, liền thay y mở miệng hỏi: “Lúc mới vào cửa sư phụ nói là Ngô vương sai rồi, chẳng hay sai ở chỗ nào?”

Vong Trần nhìn Dương Chính Đạo, nhớ đến nhị ca Tề vương Dương Giản của bà tính tình tùy tiện phô trương, không ngờ con trai lại trầm ổn ẩn nhẫn như vậy. Song nếu không có tính cách thế này, e là gã cũng không thể sống tốt như bây giờ. Năm xưa nếu không có các cung nữ thân tín bên cạnh Tề vương phi đốt cháy hành cung, liều mình bảo vệ, sợ rằng ngay cả người kế thừa hương hỏa cuối cùng của họ Dương cũng không giữ được. Vong Trần chìm đắm quá sâu trong chuyện cũ, đến nỗi không nghe rõ lời của Dương Chính Đạo, bèn hỏi: “Tuyên Bình hầu nói gì cơ?”

Dương Chính Đạo hỏi lại: “Ý của sư phụ là Vũ Văn Sĩ Cập cam tâm tình nguyện uống trà có độc, không phải là vì hai người? Còn nữa... tôi rất muốn biết rốt cuộc mọi chuyện ở Giang Đô đêm đó đã diễn ra như thế nào?”

Tính ra Vong Trần đến nay đã ngoài ngũ tuần, nhưng ánh mắt sáng ngời, khí chất thanh cao, không khó để tưởng tượng ra dung mạo tuyệt thế hồi trẻ của vị trưởng công chúa Đại Tùy này. Bà nắm chặt hai tay, đến khi thấy đau mới từ từ buông lỏng ra: “Tôi chưa bao giờ nghi ngờ tình cảm mà ông ta dành cho tôi và Thiền Sư. Chỉ là sau khi đặt dục vọng quyền lực lên trên tình cảm, ông ta lại quay ra nói đến tình cảm, hai người không cảm thấy hoang đường đến mức nực cười sao? Chuỗi vòng tay đó vốn dĩ là tín vật định tình của tôi và ông ta. Hái sắn người ơi, một ngày không gặp, như ba tháng chầy. Hải tiêu người ơi, một ngày không gặp, như ba thu dài. Hái ngải người ơi, một ngày không gặp, như ba năm trời. Năm xưa, ông ta từng để bài thơ này vào trong con ngựa bạc và tặng nó cho tôi. Tôi cảm động trước tình ý của ông ta, liền lấy bài Tử khâm để ứng đáp, xem như đã nhận lời cầu hôn của ông ta. Tôi và ông ta thành hôn hai mươi năm, tôi tự thấy không thẹn với ông ta, không thẹn với liệt tổ liệt tông nhà Vũ Văn bọn họ. Nhưng ông ta đã báo đáp tôi ra sao, báo đáp triều đình Đại Tùy của tôi như thế nào?”

Nói đến chỗ kích động, giọng nói của Vong Trần đã hơi khàn đi. Vũ Văn Thiền Sư ở bên cạnh khẽ vỗ vào lưng bà, gọi một tiếng thiết tha: “Mẹ..”

“Không sao,” Vong Trần xua tay, tiếp tục nói, “buổi tối ngày mùng mười tháng Ba năm Đại Nghiệp thứ mười bốn, cấm quân bất ngờ làm phản, đại tướng quân Tư Mã Đức Kham đầu tiên giết chết em út của tôi ở gác Tây hành cung Giang Đô, rồi lại thắt cổ cha tôi. Trong hành cung lửa cháy lớn đến nỗi trời đêm sáng như ban ngày. Tôi đang nằm mơ thì bị tiếng hét và tiếng cười bên ngoài đánh thức. Bọn chúng nói bạo quân đã chết, từ nay giang sơn là của nhà Vũ Văn. Đâu đâu tôi cũng thấy cả đống thi thể nằm trong vũng máu. Tôi sợ hãi ôm lấy Thiền Sư len lỏi chạy giữa vùng đao kiếm, muốn đi tìm Vũ Văn Sĩ Cập hỏi cho ra lẽ. Tôi chạy bạt mạng, chạy bạt mạng... rơi một chiếc giày cũng chẳng màng nhặt lên.

“Không biết đã chạy bao lâu, cuối cùng tôi cũng tìm thấy ông ta. Lúc đó, ông ta đang dẫn Lệnh Hồ Hành Đạt và cấm quân trong tay mình xông vào điện Thừa Minh, nơi ở của nhị ca tôi. Nhị ca lớn lên cùng ông ta từ nhỏ, trước đây đối tốt với ông ta như thế... Nhưng tôi lại tận mắt nhìn thấy ông ta đâm thanh trường kiếm trong tay vào bụng nhị ca! Thanh trường kiếm đó... thanh trường kiếm đó còn là món quà năm xưa nhị ca mang từ Đột Quyết xa xôi nghìn dặm về tặng cho ông ta. Nhị ca còn không kịp hỏi ông ta một tiếng đã đứt hơi. Ông ta thì lại dương dương tự đắc đưa tay lau máu dính trên mặt, nhìn Lệnh Hồ Hành Đạt rút kiếm đoạt mạng hai người con trai cùng một bé gái còn nằm trong tã của nhị ca. Sấm trên trời rền vang như thế, nhưng ông trời đúng là không có mắt, sao không băm vằm lũ vong ân phụ nghĩa này đi...”

“Dì đừng nói nữa!” Lý Khác thấy mặt Dương Chính Đạo trắng bệch, hai mắt phẫn nộ đến mức sắp tóe lửa, cơ thể không ngừng run rẩy vì đau khổ cực độ, liền vội vàng lên tiếng ngắt lời Vong Trần, ngay cả cách xưng hô cũng bất giác thay đổi. Y nắm bàn tay lạnh ngắt như người chết của Dương Chính Đạo, nói: “Biểu huynh, không sao đâu, đều đã qua rồi, tất cả đều đã qua rồi...”

“Súc sinh!” Dương Chính Đạo đẩy mạnh Lý Khác ra, đứng dậy vỗ rầm một cái xuống bàn. Mảnh sứ vỡ cắm sâu vào lòng bàn tay gã, nhưng gã đã tê dại đến mức không cảm thấy đau đớn chút nào. Từ lâu gã đã biết Vũ Văn Sĩ Cập không thoát khỏi liên can đến cái chết của cha anh và người thân trong biến cố cung Giang Đô, nhưng gã cứ tưởng rằng lão chỉ là đồng lõa, cùng lắm là thấy chết không cứu. Ai ngờ chân tướng lại như thế này, lại như thế này...

“Không phải các ngươi bảo muốn biết chân tướng sao? Đó chính là chân tướng! Ta còn tưởng nội tâm các ngươi mạnh mẽ lắm, hóa ra cũng không đối mặt nổi à?” Khóe miệng Vũ Văn Thiền Sư hé một nụ cười khẩy, “Năm xưa ta cũng nhìn ra rồi. Những kẻ tự cho rằng mình thay trời hành đạo, chẳng qua là lũ ma quỷ đeo mặt nạ chính nghĩa lạm sát người vô tội mà thôi! Sau đó, cuối cùng Vũ Văn Sĩ Cập cũng gặp mẹ con ta. Ta không nhớ nổi vẻ mặt của lão lúc đó, chỉ nhớ lão ngồi xổm xuống bế ta lên. Áo bào của ta dính đầy máu đỏ thẫm trên tay lão. Lão bảo mẹ con ta đi theo lão, nói rằng bất kể thế nào cũng sẽ bảo vệ mẹ con ta được an toàn.”

Dương Chính Đạo nhắm mắt, điều chỉnh lại hơi thở. Cuối cùng tiếng ong ong trong đầu cũng ngớt dần. Gã gật đầu với Lý Khác, ý bảo y không cần lo lắng, sau đó lại nói: “Ngươi nói tiếp đi!”

“Nói gì tiếp theo được nhỉ? Vũ Văn Sĩ Cập giam lỏng ta và mẹ dưới danh nghĩa bảo vệ. Sau đó, người nhà Vũ Văn xưng vương xưng đế đúng như ý nguyện, nhưng bọn chúng cao hứng chưa được bao lâu, quân của Đậu Kiến Đức đã đến dưới chân thành. Vũ Văn Sĩ Cập bán đứng mẹ con ta, mới đổi được một cơ hội trốn thoát. Quân Đậu Kiến Đức tru diệt người họ Vũ Văn bằng thủ đoạn tương tự, giết người nhiều nhất là hai con trai của Đậu Kiến Đức là Đậu Lăng và Đậu Kỷ. Bọn chúng giết anh em họ Vũ Văn là lẽ hiển nhiên, nhưng chúng còn giết cả những em trai, em gái họ không chút năng lực phản kháng của ta, cùng mấy người con của nhũ mẫu ta! Những tên đao phủ đó đều giống nhau! Đều muốn dùng máu tươi để gột rửa dã tâm và lòng tham không đáy của chúng!”

Lý Khác ngẩng đầu, cố ép nước mắt vào lại tròng mắt: “Vậy còn ngươi? Ngươi trốn bằng cách nào?”

Vũ Văn Thiền Sư cắn môi: “Người đời đều đồn là, vì một câu ‘tất cả tùy ngài của mẹ ta, mới khiến Đậu Kiến Đức hạ lệnh giết ta. Nhưng bọn họ đều không biết, lúc đó mẹ đã uống thuốc độc. Bà nói muốn mang theo ta chết cùng. Ta bằng lòng, ta thực sự bằng lòng. Thay vì sống cô độc trên thế gian đầy tội nghiệt và xấu xa này, chẳng thà đi theo mẹ, trời xanh suối vàng, luôn ở bên nhau.”

Lý Khác sững sờ: “Lúc đó người mới chỉ mười tuổi nhỉ? Sao lại có ý nghĩ như vậy?”

“Ngô vương thấy khó hiểu lắm phải không? Nếu người trải qua nỗi tuyệt vọng khi chứng kiến người thân của mình từng người từng người chết trước mặt, ngươi sẽ chỉ muốn mặc kệ tất cả mà chết theo bọn họ.” Vũ Văn Thiền Sư nói xong liền cởi áo ra, nơi ngực trái lồ lộ một vết sẹo vừa dài vừa sâu, “Nhát kiếm này là ta tự đâm, đâm rất mạnh, gần như dùng hết sức lực toàn thân. Ta thực sự cho rằng mình chết chắc rồi. Nhưng sau đó, ta lại tỉnh lại. Lúc đó ta mới biết nhát kiếm đó đâm hơi lệch, không đoạt được mạng ta. Còn mẹ cũng trúng độc không sâu, vẫn sống sót. Mẹ nói, ông trời đã không cho mẹ con ta chết thì mẹ con ta phải sống cho thật tốt, đòi lại công đạo cho những người đã chết.”

Vong Trần nhìn hắn với ánh mắt yêu thương và xót xa: “Tôi và Thiền Sư, cùng mấy cung nữ trung thành đi theo chúng tôi đã sống ở Lạc Dương bốn năm, chứng kiến Tần vương dẫn quân Đại Đường quét sạch cái gọi là vương sư của Đậu Kiến Đức, sau khi vào thành, bọn họ vỗ về bá tánh, không tơ hào bất cứ thứ gì, thậm chí còn mở một lối thoát cho người nhà họ Đậu, không đuổi cùng giết tận. Ngô vương, cha cậu khác hẳn những tên nghịch tặc bụng dạ khó lường đó, cho nên cuối cùng họ Lý các cậu đã lấy được giang sơn, tôi không có gì để nói! Nhưng mà, tôi không thể tha cho người nhà họ Đậu, càng không thể tha cho Vũ Văn Sĩ Cập.”

Vũ Văn Thiền Sư đứng dậy đi đến dãy kệ phía sau bàn thờ, lấy một miếng ngọc bội trong chiếc hộp gấm ở trên đó ra và nói: “Nghĩ lại thì cũng vô cùng trùng hợp, không lâu sau khi quân Đường đánh hạ được Lạc Dương, ta và mẹ gặp một thanh niên bị rắn độc cắn ở trong núi. Chúng ta mang y về, tuy đại phu đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không thể cứu sống được y. Trước khi chết, y nói với chúng ta, y là hộ vệ bên cạnh Thiệu Nghiêm, cháu trai cả của Đậu Kiến Đức. Sau khi Đậu Kiến Đức bại trận, y một mình cõng tiểu chủ nhân trốn thoát, nhưng hai hôm trước, tiểu chủ nhân đã qua đời vì sốt cao. Ta phát hiện ra miếng ngọc bội có khắc chữ Đậu này ở trong chiếc túi tùy thân của y. Từ Lạc Dương đến Trường An, chúng ta tìm anh em họ Đậu tám năm trời. Vào sinh nhật năm mười tám tuổi của ta, ta đã nhìn thấy chúng trong y quán ở đường lớn phía Tây phường Sùng Nhân của Trường An. Hai tên đao phủ tay dính đầy máu đó lại trở thành đại phu hành nghề y cứu đời, thật nực cười!”

Lý Khác vỡ lẽ: “Hà Trọng từng bảo rằng, ngươi đã cầm miếng ngọc bội này nói mình là Thiệu Nghiêm. Lúc Thiệu Nghiêm và bọn chúng ly tán thì vẫn còn là trẻ con, dù dung mạo có chỗ không giống người lúc trưởng thành, chúng cũng sẽ không nghi ngờ nhiều.”

Vũ Văn Thiền Sư gật đầu: “Không sai! Vì Trường An có nhiều danh y, nên việc làm ăn của bọn chúng không tốt. Bởi vậy sau đó ta đã cùng bọn chúng đến An Châu, mở Từ Tế đường, quen biết Lưu lục sự, quen biết chị em Mộ An, Cảnh Nguyệt, quen biết các ngươi.”

“Hóa ra là vậy, hóa ra là vậy... Lý Khác nói liên tục. Tiếp đó y lại thở dài thườn thượt. Nhưng đột nhiên, trong mắt y lóe lên một tia sáng sắc lạnh đầy cảnh giác: “Thế còn chiếc khăn thêu hoa đào trong tay ngươi năm xưa là thế nào?”

Có lẽ vì đã nói quá nhiều chuyện cũ đau lòng, khuôn mặt Vũ Văn Thiền Sư ửng đỏ từng cơn, đỏ đến tận mang tai. Nhưng sau khi nói ra hết mọi ức chế và khổ đau hơn hai mươi năm qua, trái tim hắn bỗng trở nên trống rỗng, không còn hận, cũng chẳng thể yêu được nữa. Hắn lấy chiếc khăn gấm đó ra từ trong tay áo, ngữ điệu so với ban nãy đã hòa hoãn hơn nhiều: “Ý Ngô vương là cái này à? Không phải ta đã nói ngay từ đầu rồi sao? Cái này là của Vũ Văn Sĩ Cập để lại. Ta không lừa ngươi.”

Lý Khác sờ ba đóa hoa đào được thêu cạnh nhau trên chiếc khăn gấm, trái tim đột nhiên co thắt dữ dội. Những ký ức đáng sợ đã được Kỳ Úc niêm phong lại bằng tình yêu và sự ấm áp, lúc này lại bắt đầu dốc hết sức gặm rỉa trái tim y.

Thích khách nói: “Tần vương, hôm nay không phải ngươi chết, thì là ả chết.”

Cha nói: “Trên đời này chưa có ai dám uy hiếp bản vương như vậy.”

Mẹ nói: “Dương Nhiêm chỉ là một người đàn bà bình thường trên trần thế, có đáng kể gì.”

Thích khách nói: “Công chúa hà tất phải tự coi thường mình?”

Cha nói: “Thả nàng ra! Bản vương có thể đáp ứng bất cứ yêu cầu gì của ngươi.”

Thích khách nói: “Ta chỉ muốn mạng ngươi thôi, Tần vương.”

Thanh kiếm trong tay thích khách rất sắc bén, sắc đến nỗi mẹ chỉ hơi dùng lực một chút, nó đã cứa đứt cổ bà. Một người phụ nữ mạnh mẽ chí tình như vậy, đã dùng mạng sống để giải nguy cho người đàn ông bà yêu, và cũng thành toàn cho hùng tâm tráng chí tranh đoạt hoàng quyền của ông.

Lý Khác lấy tay vỗ trán, nhìn Vong Trần nói: “Dì có biết ba đóa hoa đào này có ý nghĩa gì không?”

“Tôi có thể nói với cậu toàn bộ những điều cậu muốn biết,” Vong Trần và Lý Khác nhìn nhau giây lát, đoạn bà nói, “nhưng cậu phải đồng ý với tôi, không được làm khó Thiền Sư nữa, cũng không được để bà ngoại cậu biết tin tức về chúng tôi.”

Lý Khác nói không cần suy nghĩ: “Được! Cháu đồng ý.”

Vong Trần hít sâu một hơi: “Năm xưa Vũ Văn Sĩ Cập từng phụng chỉ huấn luyện một đội quân tinh nhuệ để đề phòng thù trong giặc ngoài, mỗi một thành viên của đội này đều xăm hình xăm hoa đào như vậy lên cánh tay. Vũ Văn Sĩ Cập nói, đó là vì tôi thích hoa đào. Lúc xảy ra biến cố cung Giang Đô, đội quân này cũng theo Vũ Văn Sĩ Cập tạo phản, cuối cùng về dưới trướng cha cậu cùng với ông ta. Vì có chiến công trác việt mà cha cậu bị anh trai Lý Kiến Thành và em trai Lý Nguyên Cát của mình ghen ghét và mưu hại. Các trợ thủ dưới trướng đều khuyên cha cậu tiên hạ thủ vi cường, cha cậu cũng có lòng này, nhưng vì niệm tình anh em ruột, nên trước sau vẫn không thể hạ quyết tâm.

“Sau này có mấy tay trợ thủ nảy ra chủ ý, nhân lúc các người đi xa, lập kế hoạch ám sát giả, mục đích là để cha cậu biết rằng, nếu ông ấy còn do dự không quyết, thì người đàn bà ông ấy thương và người con trai ông ấy yêu quý sẽ trở thành cá nằm trên thớt của kẻ khác. Nhưng điều họ không ngờ là, cuối cùng làm giả hóa thật, em gái tôi lại chết. Sau cơn kinh hoàng, bọn họ vui mừng phát hiện ra hiệu quả của liều thuốc mạnh này còn tốt hơn những gì bọn họ mong đợi. Tuy ngoài mặt cha cậu giả vờ không hề để tâm, nhưng trong lòng lại nhận định đây là âm mưu của Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát, cuối cùng đã quyết ý ra tay.”

“Tay trợ thủ đó là Vũ Văn Sĩ Cập?” Ngay cả Lý Khác cũng không ngờ rằng, lúc này lòng y lại bình tĩnh đến mức giống như đang nghe mấy câu hỏi thăm bình thường mà thôi, “Vậy mà những năm qua, lão vẫn có thể đối mặt với cháu, đối mặt với biểu huynh điềm nhiên như không, thật là tột cùng đáng sợ! Nhưng làm sao mà dì biết được tường tận như vậy?”

Vong Trần tháo chuỗi tràng hạt trên tay xuống, đặt lên trên bàn thờ để thờ phụng, sau đó nói: “Chuyện này cậu không cần hỏi. Cậu chỉ cần biết là tôi sẽ không lừa cậu, cũng chẳng cần phải lừa cậu.”

Lý Khác nhíu mày, nghiến răng hỏi: “Ngoài Vũ Văn Sĩ Cập ra, còn có ai nữa?”

Dường như Vong Trần đang cố gắng suy nghĩ gì đó, rất lâu sau mới lắc đầu: “Tôi chỉ biết một mình Vũ Văn Sĩ Cập, còn lại thì thật sự không rõ.”

Dương Chính Đạo dằn lòng, nhổ mảnh sứ vỡ cuối cùng găm ở lòng bàn tay ra. Gã cười gằn: “Ta chỉ hận không thể tự tay giết lão! Thiền Sư, sao người không nói sớm? Ngay từ hôm ta và Khác đệ đến Hạ phủ An Châu tìm ngươi, ngươi nên nói tất cả mọi chuyện cho chúng ta, về sau cũng không đến nỗi xảy ra nhiều chuyện như thế.”

Vong Trần nói: “Lúc đó Thiền Sư thực sự có viết thư hỏi tôi, có nên để các cậu biết không, là tôi không cho nó nói. Nếu nhị ca và muội muội của tôi còn sống, chắc cũng không muốn để tay các cậu dính máu.”

Dương Chính Đạo hỏi vặn lại: “Nhưng có nhẫn tâm để Thiền Sư làm tất cả những việc này sao? Dù cháu và Khác đệ đau khổ trong lòng tới đâu chăng nữa, thì vẫn có thể giúp đỡ an ủi lẫn nhau, nhưng hắn mãi mãi chỉ có một mình. Cô biết hắn phải chịu giày vò suốt hơn hai mươi năm như thế nào không? Nói cho cùng cô cũng là một người mẹ ích kỷ.”

Trong lòng Vũ Văn Thiền Sư nảy sinh một cảm giác ấm áp, nhưng ngoài miệng lại phản bác: “Dương công tử tử tế với ta như vậy từ bao giờ thế?”

Dương Chính Đạo chắp tay vái sâu một cái: “Trước đây Chính Đạo đã có nhiều thành kiến và hiểu nhầm về ngươi, xin tha thứ.”

“Thật hiếm khi được nghe Dương công tử nói những lời như vậy.” Vũ Văn Thiền Sư nói đầy thâm ý, “Có điều, ngươi cũng không cần phải bất bình hộ ta. Mọi chuyện đều là ta cam tâm tình nguyện. Dương công tử không phải cũng cam tâm tình nguyện làm rất nhiều chuyện sao?”

Dương Chính Đạo biết hắn có ý gì, nhưng chỉ chuyển chủ đề hỏi: “Đã báo được thù rồi, vậy sau này ngươi tính thế nào?”

Vũ Văn Thiền Sư dọn xong những mảnh sứ vỡ ở dưới đất và trên bàn, trầm mặc hồi lâu rồi mới mở miệng nói: “Ta tự có chỗ đi, Dương công tử không cần lo lắng.”

“Ta có thể tiến cử ngươi vào triều làm quan.” Lý Khác nói vô cùng chân thành, “Vũ Văn Thiền Sư và cháu trai trưởng nhà họ Đậu đã chết từ hai mươi năm trước rồi, còn Hạ Thiệu Nghiêm cũng vì bị bắt sợ tội mà tự tử. Nếu ngươi muốn, ngươi hoàn toàn có thể quên đi quá khứ, sống lại với một thân phận mới.”

Vũ Văn Thiền Sư gượng cười: “Đa tạ ý tốt của Ngô vương! Đáng tiếc có rất nhiều con đường đã đi rồi thì không quay đầu được nữa. Thực ra ngươi nói đúng, ta nên đối diện với sự thật, ta đã phạm tội đại nghịch đáng bị trời phạt, ta phải..”

“Sống cho thật tốt!” Lý Khác vội vã nói thay hắn, “Biểu huynh, sống cho thật tốt.”

“Sống cho... thật tốt... Vũ Văn Thiền Sư lặp đi lặp lại bốn chữ này giống như trẻ con học nói, sau đó lại nói, “Ta vốn là người thừa trên đời này, có lúc ngay cả ta cũng không biết mình là ai, hoặc là, ta mong muốn mình là ai?”

“Ngươi là con trai duy nhất của dì, là anh họ của ta và Trinh Khanh, là thiếu chủ trong lòng các sư phụ ở am Tịch Quang. Đã trải qua sinh tử thì phải hiểu sinh mệnh đáng quý như thế nào. Tin ta, ta thật lòng mong người sống tốt.” Lúc nói lời này, Lý Khác sờ ba viên ngọc mỡ dê trên cổ tay theo thói thẫn thờ nhìn ánh nến trước mặt.

Ánh nến khẽ lay động, chập chờn không yên. Đến khi nến cháy gần hết thì đã là sáng ngày hôm sau. Cửa am Tịch Quang chầm chậm mở ra, cái bản lề vẫn kêu ken két chói tai như thường lệ. Vũ Văn Thiền Sư nhìn theo bóng lưng đang đi xa dần của Lý Khác và Dương Chính Đạo, quay sang hỏi Vong Trần: “Về chuyện của dì, những gì mẹ nói đều là sự thật cả sao?”

“Không phải mẹ đã nói rồi sao? Mẹ đâu cần phải lừa dối bọn họ.” Vong Trần nhìn vầng thái dương sắp nhô lên ở phía chân trời, “Chỉ là... mẹ cũng chỉ có thể nói cho họ đến vậy thôi. Những chuyện ông trẻ con không cho nói thì mẹ không thể nói.”

Những giọt sương sớm trên mái hiên từ từ rơi xuống mu bàn tay của Vũ Văn Thiền Sư, lạnh ngấm vào tim. Hắn chắp tay dõi mắt về nơi rất xa, lẩm bẩm gì đó trong miệng, rất lâu sau mới trở lại với thực tại, nhẹ nhàng đẩy cửa lên.

Lúc này mặt trời đã lên cao, cao vời vợi, xa vạn dặm, nhưng không thể sưởi ấm lòng người, xoa dịu người ta, chung quy cũng chỉ là một ảo ảnh trống rỗng mà thôi. Lý Khác nghĩ mình đêm qua lại không về nhà, nếu để Bạch ma ma hay, thực chẳng biết lại nói sau lưng những lời hồ đồ gì với Kỳ Úc. May mà Kỳ Úc là tri kỷ, biết y, hiểu y, bằng không cứ như thế mãi, chưa biết chừng nàng sẽ thực sự bị Bạch ma ma tác động.

Từ am Tịch Quang đến thành Trường An phải đi qua Ly Sơn, đường núi gập ghềnh lầy lội, Lý Khác chỉ có thể cưỡi Lưu Phong đi thật cẩn thận, chậm rãi. Dọc đường tuy Dương Chính Đạo sánh vai đi cùng y, nhưng từ đầu đến cuối không nói chuyện với y. Lúc đi đến Tuyển hồ Ly Sơn, Dương Chính Đạo đột nhiên vung roi ngựa, con Xích Phong mà gã cưỡi lao đi như bay. Toàn thân Xích Phong màu đỏ thẫm, tuy tính cách ôn hòa ngoan ngoãn, nhưng sức bền và đà lao đều là hạng nhất, Khinh Vân, Lưu Phong đều không phải là đối thủ của nó.

“Biểu huynh cẩn thận! Đường phía trước không dễ đi đâu!” Lý Khác bỗng giật mình, liền giẫm chắc vào bàn đạp ngựa, kéo dây cương đuổi theo. Lưu Phong nhát gan, dù Lý Khác thúc giục đủ kiểu, nó cũng chỉ dám chạy chậm từng bước vững chãi, mà Xích Phong thì càng chạy càng nhanh, chớp mắt đã lao vào trong khu rừng bên mé Tây Tuyển hồ. Lý Khác sốt ruột kéo tai Lưu Phong nói lớn: “Khinh Vân gặp nguy hiểm! Còn không mau đi cứu!”

Dường như Lưu Phong hiểu lời này, ngẩng đầu hí lên hai tiếng, rồi vội vàng đuổi theo. Lý Khác không khỏi lầu bầu trong bụng: Đúng là cái đồ thấy sắc quên nghĩa!

Hai người phi nhanh gần nửa canh giờ, đến khi phía trước không còn đường để đi thì mới dừng lại. Lý Khác quay đầu ngựa, chắn trước mặt Dương Chính Đạo, thấy mặt gã đỏ bừng, trên trán đầm đìa mồ hôi, liền cởi khăn tay giắt ở thắt lưng đưa cho gã nói: “Giờ không sao rồi chứ?”

Dương Chính Đạo không nhận, chỉ nhẹ nhàng xuống ngựa, ngồi xuống ghế đá gần đó, nhổ nghịch cỏ dại dưới chân, điềm đạm nói: “Ta không sao cả, người có sao là đệ”

Lý Khác cũng xuống ngựa buộc Lưu Phong và Xích Phong lại cùng một chỗ, vén áo ngồi xuống bên cạnh Dương Chính Đạo: “Huynh cảm thấy ta không nên bình tĩnh như thế? Hay là chúng ta đánh một trận đi?” Dương Chính Đạo đè tay lên thanh kiếm sắc đeo bên mình, đột nhiên đau đớn rên lên một tiếng. Lúc này Lý Khác mới để ý thấy tay phải của gã đã sưng tấy lên, sợ còn chẳng cầm chắc kiếm được, liền khẽ thở dài: “Hôm khác vậy! Ta không muốn giậu đổ bìm leo.

Dương Chính Đạo nhổ một cây cỏ dại giống như đang trút giận, nắm chặt nó trong lòng bàn tay. Sau một hồi trầm mặc, gã đột nhiên quỳ gối, cung kính dùng đại lễ dập đầu vái lạy, gọi một tiếng: “Ngô vương điện hạ.”

Lý Khác bị hành động đột ngột của gã dọa cho giật mình, vội vàng nói: “Huynh đang làm cái gì vậy? Mau đứng lên!”

Dương Chính Đạo mặc kệ lời của y, chỉ quỳ thẳng người nói: “Ta không thể giấu đệ được nữa. Ông trẻ mong muốn đệ sẽ tranh ngôi, trở thành hoàng đế tương lai của Đại Đường. Hôm đó ông cố ý chọc giận bệ hạ, mục đích là để bệ hạ bãi quan ông.”

Lý Khác hồ nghi hỏi: “Tại sao?”

“Tiêu Quân đang ốm nặng ở Doanh Châu, có thể không qua nổi mùa đông này, ông trẻ phải đích thân đến đấy lấy một thứ rất quan trọng. Ông không yên tâm giao cho bất kỳ ai, bao gồm cả ta.”

“Là vì chuyện này?” Lý Khác càng không hiểu, “Tiêu Quân là cháu ruột của ông, ông trẻ muốn đi thăm là việc quang minh chính đại, chỉ cần xin phụ hoàng nghỉ vài ngày là được, cần gì phải trả một cái giá như vậy?”

“Bởi vì ông không muốn người khác chú ý đến hành tung của mình, chỉ cần có thân phận tể tướng, dù có mặc thường phục cũng sẽ làm người ta chú ý. Đó lại không phải là đồ bình thường, mà là thư của ông trẻ và ta viết cho Tiêu Quân, phần lớn nội dung bức thư là dạy ông ấy phải làm thế nào để chia rẽ mối quan hệ giữa Lý Thái và Lý Thừa Càn, hai nước đi hồ đồ cuối cùng khiến Lý Thái để ngai vàng vuột khỏi tầm tay chính là chủ ý của ta. Ta đã hại em trai của đệ, nếu đệ trách ta, ta cũng sẵn sàng đón nhận.”

“Em trai? Ta không đạo đức giả như thế đâu. Huynh nói tiếp đi!”

Dương Chính Đạo hơi yên tâm nói tiếp: “Trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi. Ông trẻ tự tin đệ có thể lật đổ Lý Trị bằng cách tương tự, nhưng điều ông không ngờ là, mặc dù Lý Trị còn nhỏ tuổi, nhưng bụng dạ thâm sâu, lại thêm sự ủng hộ đắc lực của Trưởng Tôn Vô Kỵ, e rằng tương lai sẽ là một đối thủ còn khó đối phó hơn cả Lý Thừa Càn và Lý Thái. Lần này ông bị bãi quan, địch sáng ta tối, cũng làm Trưởng Tôn Vô Kỵ lơi lỏng một chút, để ông có thể tiếp tục nghĩ xem bước tiếp theo nên đi như thế nào.”

“Hóa ra là vậy.” Lý Khác vỡ lẽ, “Cho nên, vị Võ tài nhân trong cung đó, còn cả Tiêu lương đệ em họ của Kỳ nhi nữa, đều là do ông trẻ sắp xếp, đúng không?”

“Đúng!” Dương Chính Đạo gật đầu, “Suýt nữa Kỳ muội cũng vậy, chỉ có điều Kỳ muội là một cô gái thông minh, có chính kiến, có cá tính, cô ấy đã chấp nhận đệ thì ngay cả ông trẻ cũng không thể ép cô ấy đổi chủ ý.”

Mấy năm qua, Lý Khác đã lờ mờ đoán được tất cả, cho nên cũng không quá kinh ngạc: “Tại sao huynh lại nói những chuyện ấy với ta vào lúc này?”

“Vì ta đã biết năm xưa cha mình chết thảm như thế nào, vì ta đã hiểu mọi thứ tình cảm đều không thắng nổi dục vọng quyền lực.” Dương Chính Đạo nhìn Lý Khác không chớp mắt, “Ta thực sự sợ hãi. Có lẽ ông trẻ đã đúng, chỉ có bước lên đứng đầu muôn người, nắm chắc quyền lực tối cao trong lòng bàn tay mới là cách an toàn nhất. Ta hy vọng đệ có thể trở thành đấng minh quân muôn thuở giống như bệ hạ.”

“Biểu huynh,” Lý Khác cười nhẹ, không nhìn ra bất cứ dao động cảm xúc nào, “nếu bây giờ có người bảo huynh, chỉ cần giết một mình ta là có thể cho huynh ngồi lên ngôi vị đó, huynh có làm không? Năm xưa không phải bọn họ cũng gọi huynh là Tùy vương sao?”

“Ta không làm!” Dương Chính Đạo buột miệng không cần suy nghĩ, sau đó lại cau mày hỏi với vẻ khó tin, “Đệ đang thăm dò ta đấy à?”

Lý Khác cúi người đỡ gã đứng lên nói: “Đâu có. Ta chỉ muốn để huynh nói ra ba chữ ‘ta không làm’ đó thôi. Huynh không phải Vũ Văn Sĩ Cập, ta cũng không phải, xung quanh chúng ta cũng không có những kẻ như vậy. Yên tâm đi! Tất cả bất hạnh đã qua thật rồi, ta không cần phải đánh liều đoạt lấy thứ không thuộc về mình.”

“Sao lại không? Với tài trí và danh vọng của đệ, với thái độ của bệ hạ đối với đệ, Trưởng Tôn Vô Kỵ và Lý Trị chưa chắc đã không coi đệ là cái gai trong mắt.”

“Xưa nay ta không động chạm đến họ, họ dựa vào cái gì mà động chạm đến ta?” Lý Khác thấy Dương Chính Đạo vẫn tỏ vẻ lo lắng và nghi ngờ, liền giơ tay lên trời nói, “Lý Khác thề với thần linh trên trời, với người mẹ đã mất sớm rằng, đời này sẽ dốc hết toàn bộ khả năng để bảo vệ bản thân và tất cả những người xung quanh mình.”

Tiếng nói vang vọng trầm trầm giữa cánh rừng. Lời của người đàn bà đó lại một lần nữa vang lên bên tai Dương Chính Đạo: Nếu như cháu không giúp nổi nó, thì đó là số mệnh của nó, cũng là số mệnh của cháu.

Người đàn bà đó... cho dù bà ta đã chết từ rất nhiều năm trước rồi, nhưng nghĩ đến gương mặt của bà ta, trong lòng Dương Chính Đạo vẫn khiếp sợ khó tả. Gã đưa mắt nhìn vẻ mặt kiên quyết và hiên ngang không thể phạm của Lý Khác, trong lòng trào dâng một niềm an ủi: “Chỉ mong như vậy.”

Tuyết bay khắp trời, rơi lả tả dày đặc, làm cả cành lạp mai đầy những nụ chớm hé cong trĩu xuống. Người đi đường bước từng bước khó khăn giữa lớp tuyết lún đến bắp chân, gió bấc lồng lộng dốc sức càn quét trong không khí, táp vào mặt người đau rát. Tết năm Trinh Quán thứ mười tám chìm đắm trong trời băng đất tuyết, lạnh buốt thấu xương. Tân La biết Đại Đường sắp động binh với Cao Câu Ly, liền đặc phái một đoàn sứ thần đến Trường An, nửa để chúc mừng năm mới, nửa để cống nạp tạ ơn.

Từ khi Vong Trần và Vũ Văn Thiền Sư giải đáp mối nghi ngờ nhiều năm cho Lý Khác, cõi lòng y trở nên trầm tĩnh và tỉnh táo hơn. Y hà hơi vào lòng bàn tay mình, nhưng tay cầm bút vẫn hơi run rẩy. Từ năm ngoái y đã bắt đầu vẽ bản đồ hành quân bố trận, nhưng giờ đã gần hai tháng rồi mà vẫn chưa vẽ xong. Lý Thế Dân cũng không giục y, vì phía ông còn có rất nhiều việc cần phải chuẩn bị, nhất thời không thể quan tâm đến bên này.

Xa xa bên ngoài vọng lại một tràng pháo nổ, Lý Khác đặt bút trong tay xuống, bước đến trước chậu than để sưởi ấm. Chỉ nghe Kỳ Úc lẩm bẩm với chính mình: “Đã hơn hai tháng rồi, sao hai con vẫn bé như thế, đến bao giờ mới lớn đây?”

Tháng Mười một năm ngoái, Kỳ Úc sinh đôi một trai một gái, theo giao ước trước đó, con trai lấy tên là Lý Nhân, con gái lấy tên là Lý Phong. Lý Khác nhìn cặp bé trai bé gái trắng ngần trong nôi, lại nhìn Kỳ Úc sau khi làm mẹ lại càng mặn mà quyến rũ, không cầm lòng được khóe môi hơi nhếch lên: “Kỳ nhi, nàng có thể ngắm hai con ngủ đến nửa canh giờ, không thấy mệt à?”

Kỳ Úc nói với ánh mắt ngất ngây: “Không mệt không mệt, ngắm con của mình, sao lại mệt cơ chứ? Lông mày Nhân nhi rậm đen, sau này ắt sẽ được các cô gái thích. Phong nhi hiếu động như vậy, nhất định sẽ trở thành một cô nương văn võ song toàn. A! Nhìn xem, con nghe thấy thiếp khen, cười vui vẻ quá kìa!”

Lý Khác khoác vai Kỳ Úc, dịu dàng nói: “Sau này, Nhân nhi giống ta, Phong nhi giống nàng, thế là đẹp.”

Kỳ Úc quay đầu hôn nhẹ lên má Lý Khác một cái, cười yêu kiều nói: “Tam lang đã làm xong việc chính của mình chưa?”

“Không vội,” Lý Khác đứng dậy ném mười mấy hạt dẻ trên bàn vào trong chậu than, thu dọn bút nghiên và nói, “hiện giờ, việc quan trọng nhất của ta chính là nàng và con.”

Kỳ Úc vuốt ve dáng vẻ nhỏ nhắn đáng yêu đang chìm trong giấc ngủ của Nhân nhi, lòng chỉ cảm thấy ngọt ngào vô hạn. Đột nhiên có tiếng gõ cửa từ bên ngoài vọng vào, Kỳ Úc thuận miệng nói: “Vào đi!”

Bạch ma ma dẫn theo Bạch Đàn và Cẩm Quỳ chạy vào, thấy hai người vẫn bình thản nhàn nhã trêu đùa con, hơi sốt ruột nói: “Điện hạ, vương phi, sắp đến giờ Dậu rồi đó! Hai người vẫn chưa trang điểm mặc quần áo xong à?”

“Giờ Dậu?” Hai người giật mình, đưa mắt nhìn nhau, đồng thanh nói, “Sao không nói sớm?”

Bạch Đàn thấy hai người hoảng loạn như vậy, vừa hơi buồn cười vừa hơi oan ức nói với Lý Khác: “Là điện hạ dặn chúng nô tì không được làm phiền mà! Chúng nô tì còn tưởng rằng ngài và vương phi đã ăn mặc trang điểm xong từ lâu rồi cơ! Thế này thì gay thật! Còn chưa đầy một canh giờ nữa là trong cung sẽ mở tiệc. Các tông thất đại thần đều ở đó, lại còn có cả sứ thần Tân La đến thăm hỏi, ngộ nhỡ đến muộn, bệ hạ nổi giận là cái chắc.”

“Biết là muộn rồi mà vẫn đứng đực ra đấy à!” Bạch ma ma vội nghiêng người qua giục Bạch Đàn, “Còn không mau chuẩn bị đi! Còn nữa, mau bảo các nhũ nương qua đây chăm sóc thế tử và huyện chúa.”

Hai tiểu nha hoàn vừa định thay quần áo cho Lý Khác thì y lắc đầu nói: “Để ta tự làm, thay mỗi áo ngoài, rất là tiện. Các ngươi đi giúp vương phi ấy! Chỗ nàng phiền phức hơn!”

Các tiểu nha hoàn vâng dạ, ba chân bốn tay xúm lại giúp Kỳ Úc cởi chiếc đai điệp tiệp [*] màu đen đính tơ vàng buộc quanh thắt lưng, thay cho nàng một bộ tế thoa lễ y [*] bằng gấm Thục màu đỏ có thêu phượng vàng hướng về mặt trời thường mặc trong dịp đại lễ. Sau khi mặc đồ chỉnh tề mọi thứ, Bạch Đàn và Cẩm Quỳ mỗi người cầm một cây lược, thành thạo mà ăn ý tết từng lọn tóc của Kỳ Úc thành kiểu triều vân cận hương, sau đó chọn trong hộp trang sức mà tiểu nha hoàn đang bưng ở bên cạnh một đôi bảo thoa hoa lan đính ngọc trai và một chiếc trâm mành mành tạo hình chim sẻ vàng, cẩn thận cài lên búi tóc của Kỳ Úc. Sau khi tô son đánh phấn và kẻ lông mày xong, Kỳ Úc như trút bỏ được gánh nặng, đứng dậy thở phào: “Coi như xong cả rồi nhỉ?”

[*] - Đại có gắn vòng, móc để treo những đồ nhỏ.

[*] - Một loại lễ phục của mệnh phụ thời Đường, gồm lễ phục và trang sức cài tóc như thoa vàng hoặc hoa vàng.

“Còn vòng tay ngọc nữa!” Bạch ma ma kêu lên, “Vương phi không thể cứ không đeo gì trên tay được! Đàn nhi, còn không mau chọn một cái thích hợp”

“Không cần đâu! Vướng víu lắm!” Kỳ Úc đi đến trước mặt Lý Khác, lắc đầu, chiếc trâm mành mành lập tức phát ra âm thanh lảnh lót, “Chúng ta mau đi thôi!”

Phu xe đánh xe chạy như bay. Lý Khác cởi chiếc áo choàng lông công đính cườm rực rỡ ở trên người xuống, bọc cả cơ thể Kỳ Úc vào bên trong. Chỉ một khắc sau, xe ngựa đã dừng ở ngoài Huyền Vũ môn. Sài Triết Uy vội bước hai bước đến đón, nói với vẻ mặt lo lắng: “Sao bây giờ tam ca và tẩu tẩu mới tới? Vương công công đã ba lần sai người đến xem rồi đấy!”

“Nói thì dài lắm,” Lý Khác nắm tay Kỳ Úc lật đật đi vào, “để hôm khác ta hẹn em đi đánh mã cầu!”

Đại điện lúc này đã là một khung cảnh náo nhiệt với tiếng hát dịu êm cùng cảnh xuân ấm áp. Lý Thế Dân mặc long bào tay áo rộng màu đen, phấn khởi nhận rượu nho Vương Trung dâng. Hai vị sứ thần Tân La là Kim Thứ Nam và Phác Hữu Xương ngồi ở vị trí đầu tiên phía bên phải, đang thích thú ngắm mấy nàng vũ cơ múa uyển chuyển ở chính giữa đại điện.

Các vũ cơ mặc váy dài đính cườm khác màu nhau, trên tóc đều cài lông công sặc sỡ. Họ nhẹ nhàng giơ cánh tay lên, cặp mắt long lanh đảo tròn, tiếp đó không hẹn mà cùng phất mạnh tay áo, những dải lụa đủ màu lập tức bay múa trong điện. Họ người nhẹ như chim én, eo hông mềm mại, nhảy vài vòng mà chân gần như không chạm đất, chẳng khác gì bươm bướm vỗ cánh vờn bay, điểm xuyết cho trăm hoa tươi đẹp, quyến rũ đến nao lòng. Mọi người đều xem đến mức như mê như say.

Đột nhiên, các vũ cơ mau chóng kiễng chân, bắt tréo rồi di chuyển qua lại, đổi dải lụa trong tay cho nhau. Trong nháy mắt, họ lại dùng các dải lụa đan thành một tấm lưới lớn năm màu. Vũ cơ áo đỏ, áo vàng, áo lục, áo lam, áo xanh lơ chia nhau cầm dải lụa tương ứng với màu váy của họ, phất phơ như tiên. Mọi người đều cho rằng đây đã là động tác chào hạ màn của điệu múa, vừa định vỗ tay tán thưởng thì lại có một vũ cơ mặc áo tím đột nhiên lướt ra từ trong đội nhạc sư.

Chỉ thấy khóe môi nàng hơi nhếch lên, lông mày dài mảnh và hơi cong, mặt tựa hoa đào, năm vũ cơ trước đó vừa thấy nàng tới, liền nhất tề hạ thấp dải lụa trong tay xuống. Vũ cơ áo tím lộn nhào hai lần rồi nhảy lên, đứng trên tấm lưới lớn năm màu đó bằng một chân. Các vũ cơ cầm lụa nhẹ nhàng nâng dải lụa, vũ cơ áo tím lại nhào lộn trên không một vòng nữa, rồi hai chân vững vàng đáp xuống tấm lưới.

Sau khi trải qua đoạn cao trào lên bổng xuống trầm này, cuối cùng âm nhạc cũng dần lắng xuống. Tiếng nhạc vừa dừng lại, vũ cơ áo tím nhảy thoắt xuống, năm vũ cơ còn lại tung tấm lưới năm màu lên, rồi lập tức kéo dải lụa cùng màu với quần áo của mình xuống, gọn gàng lanh lẹ thu vào trong tay áo.

Sau một khoảng lặng ngắn ngủi, trong đại điện lập tức nổ ra những tràng vỗ tay và hoan hô như sấm dậy, ngay cả các hoạn quan và cung nữ đứng hầu bên cạnh cũng không kìm được mà ra sức vỗ tay.

Đại điện có bình phong ngăn cách, các nữ quyến ngồi sau bình phong, đối diện xa xa với các khách nam. Nhưng vì đến muộn, Kỳ Úc đành phải đi cùng Lý Khác đến trước thềm điện, quỳ gối hành lễ với hoàng đế. Kim Thứ Nam và Phác Hữu Xương thấy một cô gái xinh đẹp kinh thế thoát tục như Kỳ Úc, không kìm được mà nhìn nàng không chớp mắt.

Vương Trung thấy vậy, buộc phải liếc họ một cái, đằng hắng hai tiếng để nhắc nhở. Đến giờ hai người mới giật mình nhận ra hành động này quá vô lễ, đành cúi đầu lấy thìa khuấy bát canh ngọt ở trước mặt.

Hôm nay tâm trạng của Lý Thế Dân có vẻ rất tốt, vì vậy ông cũng chỉ cười quở trách: “Đã uống xong ba tuần rượu rồi, các ngươi đến cũng sớm quá nhỉ! Hôm nay hoặc là các ngươi cho trẫm một lý do chính đáng, hoặc là chịu phạt trước mặt mọi người.”

Lý Khác không khỏi kêu khổ trong lòng. Nói lý do gì được bây giờ? Nếu lý do chỉ là chăm sóc chơi đùa với con đến quên cả thời giờ, chắc chắn sẽ làm trò cười cho thiên hạ; nếu lý do là vẽ tấm bản đồ hành quân bố trận kia thì cũng đàng hoàng chính đáng, nhưng một là nói đến quốc sự trong buổi tiệc năm mới dường như không hợp lắm, hai là cũng sợ thái tử nghe thấy sẽ không vui. Song trong một chốc một lát y cũng không bịa ra được lý do gì thích hợp.

Thấy Lý Khác hồi lâu không trả lời, cuối cùng Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng không kìm được đứng dậy, vái Lý Thế Dân một vái, cười rằng: “Bệ hạ, người chớ tra hỏi chuyện kín trong khuê phòng của điện hạ và vương phi làm gì! Từ lâu thần đã nghe nói điện hạ tài trí mẫn tiệp, nếu bệ hạ thật sự muốn phạt điện hạ, thì hãy bảo điện hạ làm một bài thơ, để cho chúng thần được mở mắt!”

Lý Thế Dân biết Lý Khác đi đường vất vả, muốn y lập tức viết một bài thơ phù hợp với bầu không khí vui vẻ lúc này, thật không dễ chút nào, ông có lòng muốn che chở, nhưng đột nhiên lại nảy ra ý nghĩ kỳ lạ, gần như là cười trên đau khổ của người khác, bèn gật đầu nhìn Vương Trung nói: “Cho người chuẩn bị bàn và bút mực giấy nghiên!”

Mọi người trong tiệc tuy đều đã ít nhiều nghe nói về tài năng của Ngô vương, nhưng không mấy ai tận mắt chứng kiến, hôm nay thấy hoàng đế có lòng muốn khảo nghiệm y trước công chúng, ai nấy đều ngồi thẳng dậy, ngẩng đầu trông ngóng.

Lý Khác nghĩ bụng, thơ trong yến tiệc, không phải kể về bầu không khí vui vẻ thì cũng là ca tụng thiên hạ thái bình, việc này đối với y cũng không có gì khó khăn. Nhưng hầu hết những bài thơ kiểu này đều giống nhau, rất khó để đột phá khuôn mẫu cố định, quan trọng hơn là y không thích viết. Nghĩ đến đây, y vô thức nhìn sang Kỳ Úc, thấy nàng dường như cũng vô thức chạm vào cây trâm hoa lan đính ngọc trai trên búi tóc. Một tia sáng lóe lên trong đầu Lý Khác, chính là lấy hoa lan để làm thơ, cũng rất mới mẻ độc đáo.

Thế là y chỉ nghĩ thêm một chút, rồi vén tay áo, cầm bút viết liền một hơi:

Hiên mái sương mai đọng, nhành lan hướng ánh dương. Hương tàn loãng bởi gió, hoa muộn úa vì sương. Lá chếch phai màu biếc, bỗng tròn bay nhụy vàng. Màu năm xưa vẫn giữ, năm tới lại đơm hương.

Ngay tức khắc, những chữ phi bạch rắn rỏi hùng hồn, lực hằn ra cả mặt sau hiện lên sống động trên tờ giấy. Chữ phi bạch của y không mấy phóng túng tùy tiện, nhưng lại thêm mấy phần tiêu sái trôi chảy. Y đặt bút lên trên cái gác bút, khẽ gật đầu với tiểu thái giám ở bên cạnh. Tiểu thái giám lập tức nâng nó trên tay một cách cẩn thận, trình lên Lý Thế Dân.

Lý Khác cúi người hành lễ nói: “Khởi bẩm bệ hạ, sáng nay thần dậy mở cửa, thấy hoa lan khắp sân đều đã tàn tạ sau một đêm mưa gió. Vừa nãy thấy hoa lan trong ngự hoa viên cũng hơi héo úa, nhất thời trong lòng xúc động, liền tùy hứng viết ra.”

Lý Thế Dân đã uống vài chén rượu vào bụng, đang bừng bừng hứng khởi. Thấy những câu thơ như này, những chữ như này, lòng càng vui sướng hơn. Ông nghĩ rốt cuộc mình vẫn đánh giá thấp Lý Khác, những tưởng y nhất định sẽ viết mấy câu ca tụng cuộc đời để đáp lại khách vui yến ẩm, nào ngờ lại là những câu thơ mượt mà tao nhã thế này. Hai câu cuối M àu năm xưa vẫn giữ, năm tới lại đơm hương, rõ ràng mang khí phách hào hùng Đông Sơn tái khởi, cuốn đất trở về [*] , đúng là câu thơ y viết ra bằng tính cách của mình. Thế là ông ra hiệu cho hai tiểu thái giám gần đó giơ bài thơ lên, mời quần thần cùng thưởng thức.

[*] - Nghĩa là hưng khởi trở lại sau khi thất bại.

“Chữ đẹp!” Chử Toại Lương là bạn chí giao của Trưởng Tôn Vô Kỵ, lại là đại gia thư pháp nổi tiếng đương thời, nhưng thấy bức chữ dạt dào cảm xúc này vẫn không cầm lòng được tấm tắc khen ngợi. Mấy văn thần bên cạnh vừa nghe ông ta nói vậy, đều phụ họa không ngớt lời.

Lý Thế Dân thấy cảnh này, trong lòng lại nảy sinh mấy phần đắc ý, khen ngợi hơi quá chừng mực: “Nhân phẩm của con trai ta cũng thanh nhã cao khiết giống như hoa lan vậy. Mau ngồi xuống đi!”

Lời này vừa thốt ra lập tức thu hút sự chú ý của những người quan tâm. Không cần phải nói, chỉ riêng ba chữ “con trai ta” đã đủ thể hiện sự thân thiết vô cùng. Trước mặt sứ thần Tân La và rất nhiều vương công đại thần, có cả thái tử ở đây, Lý Thế Dân lại xưng hô không chút kiêng dè như vậy. Chẳng trách gần đây trong triều có lời đồn rằng, bệ hạ đối với Ngô vương tốt đến mức không được bình thường cho lắm, chỉ sợ cục diện trong triều lại biến động lần nữa cũng chưa biết chừng.

Chỗ ngồi của Kim Thứ Nam vừa khéo đối diện xa xa với Lý Khác. Hắn vừa khuấy bát canh ngọt đã bị hắn làm vữa từ lâu trước mặt, vừa ngước mắt nhìn Lý Khác hết lần này đến lần khác, cuối cùng không kìm nổi quay sang nói với Sĩ Lộc đang đứng bên cạnh hầu ăn uống một câu: “Phong thái khí độ của vị vương tử này quả thật không giống mọi người.”

Sĩ Lộc nhìn bát canh ngọt đó, càng nhìn càng thấy buồn nôn, đành đổi cho hắn một bát khác. Bỗng nghe thấy câu nói của hắn, liền cười rằng: “Còn cần ông nói sao? Đó là Ngô vương điện hạ đấy!”

Kim Thứ Nam “à” một tiếng, trao đổi ánh mắt với Phác Hữu Xương, rồi lại vô thức khuấy bát canh ngọt mới, nói hai câu bằng tiếng Tân La với hắn. Phác Hữu Xương nhìn thái tử Lý Trị ngồi trên Lý Khác, gật đầu xác nhận. Sĩ Lộc không hiểu bọn họ nói gì, nhưng cũng bất giác nhìn hai anh em theo ánh mắt của bọn họ.

Chỉ thấy thái tử uống cạn rượu trong chén, cao giọng nói rằng: “Chữ của tam ca cực kỳ điêu luyện. Nếu không chê cô ngu muội khó dạy, sau này rất mong đến Đông cung chỉ điểm thêm. Chén rượu này, cô uống cạn trước để kính. Tùy ý tam ca.”

Lý Khác nâng chén rượu lên, mùi hoa quế ủ lâu xộc vào mũi. Y vốn không uống nổi loại rượu nặng này, trước đây trong các buổi yến hội, Vương Trung sẽ luôn dặn người chuẩn bị cho y rượu nho dễ uống hơn, hoặc đơn giản là lấy trà thay rượu. Hôm nay không biết là ông ta quên, hay là tiểu thái giám dưới quyền lười biếng, lại chưa thu xếp cho y.

Lý Khác vừa định từ chối, ngước lên thấy ánh mắt tha thiết của thái tử, xung quanh mấy ánh mắt thăm dò cũng liên tục đổ dồn tới, thế là y bất chấp, một hơi uống cạn. Cổ họng lập tức nóng như lửa đốt, lan thẳng tới hai tai, mặt đỏ bừng lên trong khoảnh khắc, sau ót căng lên đau đớn. Y trấn tĩnh lại, gắng sức nặn ra một nụ cười thản nhiên như không: “Thần tửu lượng không tốt, để thái tử chê cười rồi.”

Dường như Lý Trị giật mình bởi phản ứng của Lý Khác, vội cầm ấm trà cạnh tay lên, đứng dậy rót đầy vào chén của y, mặt đầy vẻ áy náy: “Cô thực sự không biết tam ca không giỏi uống rượu, xin tam ca thứ lỗi.”

Lý Khác cũng đứng dậy, cầm chén uống một hớp sâu, chắp tay vái một vái: “Đa tạ thái tử.”

Trong đại điện tiếng đàn sáo du dương nổi lên, Lý Trị rất thích nghe khúc Dương Châu tam mộng này, ngón tay bất giác gõ nhịp theo giai điệu. Xưa nay Lý Khác không hiểu âm luật, cho nên chỉ tập trung ăn xúp gà tổ yến ở trước mặt. Tấu đến đoạn cuối Ly xuân mộng thì cũng là lúc y ăn xong miếng cuối cùng.

Lý Trị nhấp một ngụm rượu, ghé đầu lại gần Lý Khác nói: “Nhạc sư áo xanh đàn hay nhất, cách gảy ngón tay điêu luyện hơn người khác rất nhiều. Chỉ là không biết so với Tuyên Bình hầu thì ai hơn ai kém?”

Lý Khác hơi nhíu mày, nhưng ngay lập tức lại hờ hững đáp: “Thứ Dương công tử giỏi là nhã nhạc, sao có thể đem so với khúc nhạc quê mùa kiểu này chứ?”

Lý Trị nghĩ bụng, Dương Châu tam mộng là nhạc của cung đình Nam Lương, do Chiêu Minh thái tử Tiêu Thống và Giản Văn Đế Tiêu Cương cùng sáng tác, dù thế nào cũng không thể nói là quê mùa được. Thế là y lắc đầu nói: “Tam ca nói đùa rồi. Nhưng kể ra thì tam ca và Tuyên Bình hầu thân thiết thật đấy, còn hơn cả mấy anh em ruột thịt chúng ta.”

Lý Khác nhẩm lại trong lòng câu Lý Trị vừa nói, bụng nghĩ sao có thể so sánh như vậy được chứ. Nhưng ngoài miệng vẫn lễ độ nói: “Thái tử rồi sẽ trở thành vua của một nước, thân phận cao vời, đương nhiên Lý Khác phải kính trọng nhiều hơn.”

Lý Trị có vẻ khá dễ chịu với câu nói này, ngước mắt lên thấy Kim Thứ Nam và Phác Hữu Xương đang lắc lư đầu nghe nhạc với vẻ ngất ngây, liền hạ giọng nói: “Nhìn bộ dạng đắc ý của chúng, e là thật sự cho rằng phụ hoàng quyết ý xuất binh vì muốn giải vây cho Tân La! Tiểu quốc nhỏ bằng bàn tay của chúng mà cũng đáng để phụ hoàng để mắt tới ư? Không đi soi gương nhìn bộ dạng của mình mà xem! Đúng thật là suy nghĩ viển vông!”

Lý Khác không ngờ, thái tử xưa nay hòa nhã đôn hậu lại nói ra những lời cay nghiệt như bây giờ, nhưng ngoài miệng chỉ phụ họa: “Tâm tư của phụ hoàng tất nhiên cao thâm khó dò, e là không ai có thể đoán được thấu triệt.”

Lý Trị không nhận xét gì, chỉ nói: “Người khác không đoán được, chẳng nhẽ ngay cả tam ca cũng không biết sao? Nếu không thì tam ca cần gì phải hao tâm tổn trí, để Huyền Giác trở thành hung thủ giết chết Vũ Văn Sĩ Cập?”

Lý Khác đanh mặt lại, quay đầu đối diện với ánh mắt suy tư của thái tử. Y đột nhiên nhận ra, trong mắt người thiếu niên mới mười mấy tuổi này lại có một vẻ lạnh lùng nhìn thấu tất cả. May mà xưa nay mình không có bụng dạ đó, bằng không, đây thực sự là một đối thủ đáng gờm. Lý Khác uống một ngụm trà, thản nhiên hỏi lại: “Lẽ nào thái tử cảm thấy Huyền Giác không phải là hung thủ?”

Lý Trị ngẩn người, sau một thoáng lúng túng sắc mặt lại trở lại bình thường. Y nhìn các nhạc sư tấu xong khúc nhạc lần lượt lui xuống, nói giọng trầm trầm: “Phụ hoàng và văn võ bá quan đều cho là vậy thì tất nhiên cô cũng chỉ có thể cho là vậy, có điều cho là và sự thật rốt cuộc vẫn không giống nhau. Phải biết rằng, chính vì bản tấu và những lời trên buổi đại triều của tam ca, mới khiến các vị võ tướng, bao gồm cả Giang Hạ vương thúc toàn lực ủng hộ quyết định Đông chính của phụ hoàng. Lần này xuất chinh, nếu khải hoàn thì cũng thôi, nhưng một khi thất bại, truy cứu ngọn nguồn trách nhiệm, tam ca cho rằng ai phải gánh chịu?”

Lý Khác bóc quả quýt trong tay, phản bác: “Giả sử phụ hoàng thật sự muốn ta gánh chịu, ta cũng cam tâm tình nguyện, tuyệt đối không phản bác.”

Lý Trị mỉm cười gắp một miếng thịt dê đặt vào chiếc đĩa sứ trắng trước mặt Lý Khác: “Tam ca đâu cần phải vậy? Chẳng qua cô nói đùa một câu thôi mà. Phụ hoàng là chiến tướng dày dặn sa trường, tất cả ắt đã nằm trong tính toán của ông.”

“Đương nhiên là vậy.” Bình th