← Quay lại trang sách

Chương 11 Đâm lao theo lao

Một buổi hoàng hôn vài ngày sau, Lý Khác đến điện Vũ Đức, tâu bày cặn kẽ chuyện của Huyền Giác thiền sư và Vũ Văn Sĩ Cập cho Lý Thế Dân.

Ánh chiều tà chiếu vào qua cửa sổ, để lại một dãy bóng hình thù khác nhau trên nền gạch xanh. Vương Trung hơi cúi đầu đứng hầu ở một bên, đứng một lúc lâu cảm thấy hơi mệt, nhất thời không kìm được ngáp một cái. Lý Thế Dân gập tấu sớ lại, đôi mày nhíu chặt nãy giờ cuối cùng cũng từ từ giãn ra. Ông ho khẽ một tiếng, sau đó uống một hơi cạn chén trà.

Vương Trung rất tinh mắt, thấy thế liền rót đầy trà vào trong chén. Lý Thế Dân ngước mắt nhìn Lý Khác hỏi: “Đều là sự thật sao?”

Lý Khác gật đầu, chỉ trả lời ngắn gọn: “Thật ạ.”

Có lẽ vì ngồi quá lâu, hai chân hơi tê, nên lúc Lý Thế Dân đứng dậy, người ông hơi chao đảo. Vương Trung đang định bước lên, Lý Khác đã nhanh nhẹn bước tới đỡ Lý Thế Dân, nói: “Phụ hoàng cẩn thận.”

“Con đừng coi ta là một lão già vô dụng như thế chứ. Theo ta ra ngoài đi dạo đi.” Lý Thế Dân vỗ vỗ tay y rồi cùng y bước ra khỏi cửa điện. Bên ngoài, cây ngân hạnh cao nhất đã rụng sạch lá, đang chầm chậm lắc lư theo gió. Vương Trung dẫn vài tiểu thái giám đi theo sau họ từ xa.

Dọc đường hai cha con không nói gì, khi bước đến hành lang chín khúc, Lý Khác mới không kìm được hỏi một câu: “Phụ hoàng muốn công khai chuyện này với mọi người sao?”

Lý Thế Dân cúi đầu nhìn cá chép đang tung tăng bơi lội dưới hồ nước trong veo, hỏi ngược lại: “Trong lòng con không có quyết định gì sao?”

“Ở vị trí nào, bàn việc ở đó. Việc cần phụ hoàng quyết định, con không thể vượt quá chức phận.”

Lý Thế Dân dừng bước, tiện tay vứt một chiếc lá rơi trên người xuống hồ, dõi mắt theo những gợn sóng nhìn về phía xa xăm, rất lâu sau mới thu hồi ánh mắt: “Con trở nên thận trọng dè dặt như vậy trước mặt trẫm từ bao giờ thể? Bảo con nói thì nói đi!”

“Vâng! Vậy con sẽ nói ngay.” Giọng Lý Khác rất gấp gáp, như thể chỉ đợi một câu này của ông, “Vũ Văn Sĩ Cập là trung thư lệnh, lén đem việc cơ mật của triều đình tiết lộ cho người ngoài, lại dựa vào đó để vơ vét tiền của, cuối cùng vì thế mà chết, cũng không có gì đáng tiếc. Nếu công khai chân tướng sự thật thì chính là xóa sạch danh tiếng của ông ta. Nhưng phụ hoàng luôn đãi ông ta không bạc, còn hạ lệnh mai táng theo lễ, giờ lại bất ngờ xảy ra chuyện này, chỉ sợ sẽ khiến người đời cảm thấy phụ hoàng phó thác sai người, nhìn người không sáng suốt.”

Lý Thế Dân cười rộ: “Con sợ ảnh hưởng đến danh tiếng anh hùng của trẫm ư? Khác nhi, con hơi coi thường trẫm quá đấy, trẫm mà lại để tâm đến việc này sao? Huống hồ, đế vương cũng chẳng phải là thần, đâu thể hiểu hết việc đời?”

“Phụ hoàng không để tâm, nhưng con để tâm.” Lý Khác thấy con đường đá phía trước trơn trượt, liền vươn tay đỡ ông, nói: “Hơn nữa, không phải là không có cách vẹn cả đôi đường.”

“Lợi dụng chuyện này làm lý do Đông chinh, phải không?” Nắng chiều chiếu lên con rồng cuộn thêu bằng tơ vàng trên áo bào của Lý Thế Dân, trông hết sức rực rỡ.

Đi qua hết đường đá, Lý Khác vẫn không buông tay. Khoảng thời gian được nắm tay cha thong thả dạo chơi như thế này, dù là quá khứ hay tương lai cũng khó mà có được. Lòng y ấm áp khoan khoái không gì sánh bằng, giống như được uống một ngụm sữa bò ngọt ngào. Y trầm mặc một lát, rồi mới khẽ gật đầu: “Phụ hoàng nói không sai. Huyền Giác là gian tế mà Cao Câu Ly bí mật cài cắm vào Đại Đường ta, hòng nghe ngóng thái độ của chúng ta đối với Cao Câu Ly và Tân La. Hắn lấy lý do dùi mài Phật pháp, kết thành bạn thân với Vũ Văn công, trong lúc Vũ Văn công không chút phòng bị, đã hạ độc giết chết ông ta, hơn nữa còn đánh cắp rất nhiều bí mật quân sự trong tay ông ta. Trước lúc lâm chung Vũ Văn công đã xác nhận ‘thiền sư là hung thủ, Kỳ nhi và Tiêu lương đệ, cùng rất nhiều bá tánh trong phường Đức Hưng đều có thể làm chứng. Sự thực là như vậy.”

“Vậy thì hời cho Vũ Văn Sĩ Cập rồi.” Lý Thế Dân nghiêng đầu nhìn Lý Khác, thấy y hơi nhăn mày, dường như đang chìm đắm trong suy nghĩ, liền cất cao giọng hỏi, “Còn điều gì phải nghĩ ngợi sao?”

Lý Khác cắn môi, lòng bàn tay trái nãy giờ siết thành nắm đấm đã dâm dấp mồ hôi: “Nhưng trong lòng con không mong như vậy...”

Lý Thế Dân nhẹ nhàng nói: “Không thể nói với người đời những hành vi tiểu nhân của Vũ Văn Sĩ Cập, trẫm cũng thấy không cam lòng.”

“Không! Không phải chuyện này..” Đôi mày Lý Khác ngày càng nhíu chặt, “Nếu lý do này khiến phụ hoàng rơi vào hiểm cảnh, chịu tổn hại dù chỉ mảy may, thì con suốt đời suốt kiếp không thể tha thứ cho mình.”

“Lo bò trắng răng” Lý Thế Dân cười tự phụ, hướng ánh mắt an ủi về phía Lý Khác, “Hồi trẫm mười tám tuổi theo ông nội con khởi binh ở Tấn Dương, con còn chưa ra đời! Những người phản đối xuất binh trong triều hầu hết đều lấy lý do là không đáng, chứ không có ai nói là không thắng nổi. Trẫm hy vọng vào thời khắc quan trọng này, con có thể đồng lòng nhất trí với trẫm, đừng nghi ngờ bản thân con, cũng đừng nghi ngờ trẫm, biết không?”

“Con biết rồi. Lời này, phụ hoàng đã nói với con từ rất lâu trước kia.” Lý Khác cảm thấy thoải mái hơn đôi chút, liền thở phào một hơi, “Mẹ cũng nói rồi.”

Bước chân của Lý Thế Dân hơi chậm lại, nhưng sắc mặt vẫn như bình thường: “Con đã gỡ được thế khó cho trẫm, nói trẫm nghe, con có muốn gì không?”

Không biết tại sao, Lý Khác đột nhiên nhớ đến một câu mà Võ tài nhân từng nói với y trước đây không lâu: Nếu điện hạ thực sự muốn ngôi vị đó thì hãy nói với bệ hạ, bệ hạ đang đợi ngài lên tiếng. Y hơi hoảng hốt, nhưng rất nhanh sau đó chỉ mỉm cười nói: “Ít lâu nữa, con muốn đưa Kỳ nhi đi Giang Nam chơi, xin phụ hoàng cho phép nghỉ một tháng.”

“Cho con hai tháng” Lý Thế Dân nghĩ bụng thẳng bé này cũng thật là biết tranh thủ, liền cười nói: “Đẹp nhất Giang Nam không gì vượt được Dương Châu, chỉ là đi rồi không được lỡ ngày về đâu đấy.”

Đang nói chuyện thì thấy thái tử Lý Trị đi tới. Trông y trắng nõn nà, gương mặt vẫn còn phảng phất nét trẻ con, song vẻ mặt ung dung trầm ổn, rất có phong thái bề trên. Lý Khác buông tay, tiến lên một bước, cúi người vái chào: “Thái tử mạnh khỏe.”

“Tam ca” Lý Trị chỉ khẽ gật đầu, rồi đi đến trước mặt Lý Thế Dân, đưa tấu sớ trong tay cho ông, nói giọng nhỏ nhẹ, không vội không chậm, rất có dáng vẻ của người có học.

Lý Thế Dân nhận tấu sớ, tiện tay giở một trang xem. Lời phê của Lý Trị tuy chưa được lão luyện lắm, nhưng thỉnh thoảng cũng có vài kiến giải sâu sắc, nếu tiếp tục cầm tay chỉ bảo cẩn thận, cho thêm thời gian, thì chắc cũng có thể có thành tựu. Lý Thế Dân hài lòng nói: “Viết tốt đấy. Hãy nhớ, cây cối phải lấy mực thước làm chuẩn thì mới có thể ngay thẳng, làm vua phải biết tiếp nhận lời khuyên can thì mới có thể thánh minh.”

Lý Trị kính cẩn đứng ở một bên, không ngớt dạ vâng: “Tạ ơn phụ hoàng dạy bảo.”

Hôm nay Lý Thế Dân có tâm trạng rất tốt, thấy Lý Trị cũng vui vẻ trong lòng, nên đã luôn miệng nói rất nhiều điều với y, từ những chuyện hài hước hồi y còn nhỏ cho đến đạo làm người làm vua. Lý Trị đứng cách ông một cánh tay, từ đầu đến cuối không nói một lời, chỉ thỉnh thoảng gật đầu coi như phụ họa.

Lý Khác cảm thấy mình đứng bên cạnh thật là thừa thãi, bèn nhân quãng ngắt trong câu chuyện của Lý Thế Dân mà thi lễ cáo lui.

Đi đến Huyền Vũ môn, Lý Khác nhìn thấy con trai cả của Bình Dương Chiêu công chúa đã quá cố là Sài Triết Uy đang trực, bèn chào hỏi gã. Sài Triết Uy có nước da sạm đen, dáng người khôi ngô, vừa thấy Lý Khác liền mừng rỡ chào đón: “Lần trước tam ca bảo là sẽ tặng em thanh kiếm cổ đó, tam ca không quên đấy chứ?”

Lý Khác nói: “Việc đồng ý với em, ta đã quên bao giờ chưa? Sáng mai ta sẽ bảo Vũ Lương mang đến phủ của em, thế nào?”

“Em biết tam ca tốt với em nhất mà.” Sài Triết Uy hào hứng như một đứa trẻ, hai tay khua khoắng không biết phải đặt vào đâu, một lúc sau, gã lại bổ sung một câu, “Là thanh kiếm Vân Long của nước Triệu, chứ không phải thanh kiếm Thanh Dương của nước Hàn. Hàn Triệu vốn cùng một nhà, công nghệ đúc kiếm cũng giống nhau cả. Tam ca không được cầm nhầm đâu đấy.”

“Được! Nếu cầm nhầm, ta sẽ đích thân mang đến cho em, được không?” Lý Khác tủm tỉm. Sài Triết Uy là một gã si mê kiếm, từ nhỏ đến lớn đã lừa mất không biết bao nhiêu thanh kiếm từ chỗ y. Chân trái của Lý Khác vừa giẫm lên bàn đạp ngựa, bên tai lại đột nhiên vang lên câu nói vừa rồi của Sài Triết Uy, y giật mình vội vàng quay lại trước mặt gã, sốt ruột kéo tay áo gã: “Em vừa mới nói, Hàn Triệu vốn là một nhà?”

Sài Triết Uy không biết y có ý gì, nói với vẻ mặt đầy hoài nghi: “Cuối thời Xuân Thu, ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy cùng chia nước Tấn. Em không nói sai chứ?”

Tim Lý Khác bỗng nhiên đập thình thịch, sau đó lại dần dần bình lặng, không biết đã rơi xuống xó xỉnh nào. Y không đáp lại lời của Sài Triết Uy, chỉ xua tay với gã. Vì tâm trạng xao động quá mạnh, lúc lên ngựa hai chân y hơi chới với, suýt nữa thì ngã xuống đất.

Vài hạt mưa nhỏ từ trên trời rơi xuống vạt áo của Lý Khác. Xưa nay y không hề biết, nước mưa lại có thể lạnh giá như thế này, dường như sắp làm lục phủ ngũ tạng của y đông lại thành băng. Y sai rồi, sai thật rồi. Tất cả đều là ý muốn chủ quan của y, y đã dùng yêu ghét của bản thân để tùy tiện suy đoán chân tướng của sự việc.

Thọ Quang huyện chúa nói: “Lang chủ bị nóng gan, thực ra không nên ăn những đồ ăn tính nóng.”

Lưu thị nói: “Hình như gần đây lang chủ liên tục xem địa chí Tân La, luôn nói đến những chuyện kiểu như người Tân La bị Cao Câu Ly đánh rất đáng thương.”

A Nặc nói: “Nhiều nơi ở quê nô tì, nếu đứa trẻ nào ốm yếu từ nhỏ thì sẽ vời pháp sư chuyên biệt xăm một vài hình mãnh thú lên cổ tay nó, hy vọng sẽ được phù hộ.”

Huyền Giác nói: “Tôi đã cho hắn uống chén rượu có độc đó, để hắn nếm trải cái giá phải trả của việc lừa dối!”

Lý Khác vỗ mạnh vào lưng ngựa, Lưu Phong lao về phía trước nhanh như chớp, nước bắn tung tóe suốt dọc đường. Huyền Giác vô tội, ông ấy không phải là người Cao Câu Ly, mà là người Tân La. Cao Câu Ly và Tan La cùng chung nguồn gốc, Cao Câu Ly có phong tục gì thì Tân La cũng có y hệt. Huyền Giác thấy Tần La bị Cao Câu Ly ức hiếp, liên tiếp thua chạy, trong lòng muôn phần lo lắng, nên đã lấy bạc hối lộ cho người thường đến nghe mình thuyết giảng là Vũ Văn Sĩ Cập, xin ông ta củng cố quyết tâm Đông chinh của hoàng đế.

Vũ Văn Sĩ Cập không hề thất tín, ông ta khua đao môi múa kiếm lưỡi tranh luận với Giang Hạ vương trên triều, ra sức trình bày bốn điều có lợi khi đánh Cao Câu Ly, ép Giang Hạ vương không còn lời nào để phản bác. Tuy lén lút cho nhận không phải là hành động quang minh lỗi lạc của đại trượng phu, nhưng việc làm của Huyền Giác không phải vì ham muốn cá nhân, nên cũng không mất đi tiết tháo. Rượu có tính nóng, theo lời Thọ Quang huyện chúa, Vũ Văn Sĩ Cập tuyệt đối sẽ không dùng, thì sao lại chết vì nó được? Cho nên lúc đó, khi Lý Khác nói ra suy đoán Huyền Giác hạ độc giết Vũ Văn Sĩ Cập, Huyền Giác mới lộ ra vẻ mặt nghi ngờ lo sợ như vậy. Lý Khác luôn tưởng rằng đó là nỗi sợ hãi sau khi tội ác bị vạch trần, đến giờ mới biết, đó chỉ là Huyền Giác cảm thấy cái gọi là chân tướng mà y ức đoán thật không thể tưởng tượng nổi.

Nhưng mà Huyền Giác vẫn thừa nhận, hơn nữa còn thừa nhận nhanh chóng dứt khoát. Giống như những gì Lý Khác nói, một người Cao Câu Ly giết tể tướng Đại Đường ở trong lãnh thổ Đại Đường, rất dễ khơi lên lòng thù hận đối với Cao Câu Ly của triều đình và người dân. Như vậy thì ông ấy cũng đạt được mục đích của mình. Lúc đó cũng không phải Lý Khác không nghi ngờ khi thấy Huyền Giác thừa nhận nhanh chóng dứt khoát, nhưng y không truy cứu sâu, vì y rất mong Vũ Văn Sĩ Cập thật sự phải nếm quả báo mà mình gieo, chết oan chết uổng.

Tuy Lý Khác vẫn chưa nói rõ với người ngoài Huyền Giác phạm tội gì, nhưng mấy hôm trước đã hạ lệnh tống giam ông ta vào nhà lao của Đại Lý tự như một trọng phạm giết người. Giờ đây chuyện này đã gây nên mưa gió khắp thành, suy đoán kiểu gì cũng có cả. Lý Thế Dân rõ ràng cũng muốn lấy nó làm lý do cuối cùng để chinh phạt Cao Câu Ly. Nếu bây giờ y nói với họ, tất cả chỉ là một sự hiểu nhầm to lớn do sai lầm của y mà ra, vậy thì chuyện này phải kết thúc thế nào đây? Còn Vũ Văn Sĩ Cập nữa, lẽ nào cái chết của ông ta thật sự chỉ là bất ngờ hoặc ngẫu nhiên sao? Nghĩ đến đây, Lý Khác lại kéo chặt cương ngựa, thúc Lưu Phong tăng tốc độ.

Khi đến đường Đông Khánh ở phường Sùng Nhân, rất nhiều sai dịch của phủ Ung Châu đang lục soát từng nhà để truy lùng phạm nhân. Lý Khác chỉ sợ phi ngựa nhanh sẽ làm người khác bị thương, nên dù trong lòng muôn phần sốt ruột, nhưng vẫn xuống ngựa dắt Lưu Phong đi chầm chậm.

Chắc vì tháng trước phủ Ung Châu có hai đầu bếp mới tới, chuyện ăn uống đã được cải thiện rất nhiều, nên trông mặt Tề Trưởng Thăng rõ ràng tròn trịa hơn trước kia không ít. Ông ta nhìn Hoàng bổ đầu đang cúi đầu không nói một lời, lại càng tức giận: “Trông phạm nhân toàn để xổng mất! Rốt cuộc ngươi làm được trò trống gì? Chẳng thà về quê làm ruộng cho rồi! Cho dù làm ruộng ngươi cũng chẳng bằng nông dân thứ thiệt!”

Hoàng bổ đầu nghe ông ta chửi chán, mới ấm ức phân bua: “Ti chức biết sai rồi. Nhưng chẳng phải trưởng sử cũng nhìn thấy rồi đó sao? Tên phạm nhân đó giỏi quyền cước như thế, cho dù có thêm mười ti chức cũng chẳng phải là đối thủ của hắn!”

“Phạm nhân xổng mất từ trong tay ngươi, ngươi còn cãi cố hả!” Tề Trưởng Thăng nghe thấy lời này, càng thêm tức giận giậm chân.

“Rõ ràng là thế mà!” Hoàng bổ đầu cúi thấp đầu nói.

Đường đường là trưởng quan của châu phủ lại đứng giữa đường tranh cãi với thuộc hạ, Lý Khác thực sự không nhìn nổi, liền buộc Lưu Phong lại, chen ra khỏi đám đông, bước đến sau lưng Tề Trưởng Thăng, hạ thấp giọng nói: “Tề trưởng sử nóng nảy quá đấy!”

Tề Trưởng Thăng vừa nghe thấy giọng nói này, liền sợ hãi ra mặt, quay người định quỳ gối xuống lạy. Lý Khác thấy người dân đang quây lại xem, lập tức đưa thanh trường kiếm trên tay chặn trước đầu gối ông ta: “Ông không ngại mất mặt, ta thì vẫn ngại! Phạm nhân xổng mất là kẻ nào?”

Tề Trưởng Thăng lườm Hoàng bổ đầu một cái, dẫn Lý Khác lùi lại một bên, nói: “Chính là tên trộm đã đột nhập vào am Tịch Quang lần trước. Đã bắt được rồi, nhưng ai ngờ chưa kịp đưa ra xét hỏi đã để hắn chạy mất.”

Lý Khác thấy người dân xem náo nhiệt đã dần tản đi, bèn cởi dây cương buộc trên cây, hững hờ hỏi: “Hắn tên là gì?”

“Chính là.” Tề Trưởng Thăng vỗ đầu một cái, quay người lại chẳng thấy Hoàng bổ đầu đâu, liền giậm chân nói: “Chết tiệt! Hoàng bổ đầu vừa nãy có nói với hạ quan tên của hắn, sao giờ hạ quan lại chẳng nhớ ra nổi nhỉ?”

“Vậy đợi ông nhớ ra rồi nói tiếp!” Lý Khác nhảy lên lưng ngựa, đi được mấy bước lại ngoảnh đầu nói, “Hoàng bổ đầu làm người hay làm việc đều không tệ, ông đừng suốt ngày trút giận lên hắn.”

Mùa thu đêm dài, lúc đến nhà ngục của Đại Lý tự, trời đã dần tối. Ngục thừa Trương Phóng tuổi đã ngũ tuần, nhưng cơ thể cường tráng, lại có một thân võ công cừ khôi. Vì hồi nhỏ sốt cao gây tổn thương đến cổ họng, nên giọng nói nhỏ nhẹ như con gái, bởi vậy không ít lần bị đồng liêu chê cười, nhưng ông ta chẳng thèm để tâm. Lý Khác sải bước tới, nói với Trương Phóng: “Dẫn Huyền Giác đến điện phụ, bản vương có chuyện muốn hỏi.”

Trương Phóng dạ một tiếng. Không lâu sau đã thấy Huyền Giác kéo lê theo xiềng xích nặng nề, chầm chậm bước về phía y. Không đợi ông ta mở miệng, Lý Khác đã nói với Trương Phóng: “Tháo hết ra. Ngươi lui trước đi.”

Lúc này Huyền Giác mặc một bộ quần áo của trọng phạm, mặt mũi hơi tiều tụy, trên trán nổi lên cục sưng nhỏ, chắc là bị côn trùng trong nhà lao cắn. Tuy Lý Khác lòng như lửa đốt chạy đến đây, nhưng vừa thấy ông ta, nhất thời lại không biết nên hỏi từ đâu. Cuối cùng Huyền Giác lại là người mở miệng trước: “Ngô vương điện hạ đã hiểu rõ hết đầu đuôi câu chuyện rồi sao?”

Lý Khác chắp tay vái một vái: “Là tiểu vương hiểu nhầm thiền sư, xin nhận lỗi với thiền sư. Nhưng mà tiểu vương không định rửa oan cho thiền sư. Có lẽ bản thân thiền sư cũng không muốn.”

Mí mắt Huyền Giác giật giật hai lần, dường như ông không ngờ rằng Lý Khác lại nói rõ ràng thẳng thắn như vậy. Ông đưa tay xoa mu bàn tay mình, cười nhạt nói: “Điện hạ muốn thành toàn cho ai?”

“Phụ hoàng ta.” Lý Khác nói không cần suy nghĩ, “Uy nghi của ông ấy lan khắp tứ di, thủ lĩnh của tất cả các bộ tộc đều thật lòng khâm phục, gọi ông ấy là ‘Thiên khả hãn. Chỉ có Cao Câu Ly không chịu thần phục! Nếu ta là ông ấy, ta cũng không cam tâm!”

Huyền Giác ngồi quỳ dưới đất, im lặng một lúc lâu rồi mới nói: “Tôi xuất thân vương tộc Tân La, bị đánh bại trong cuộc tranh giành quyền lực hơn hai mươi năm trước. Thiện Đức nữ vương Kim Đức Mạn của Tân La hiện nay là chị họ nội của tôi, thuộc hạ của bà ta từng mấy lần muốn lấy mạng tôi. Tôi bị bọn họ ép đến bước đường cùng, nên mới đến Trường An xa xôi để lánh nạn.”

Lý Khác hít sâu một hơi, không ngờ ông ta lại có thân phận như vậy. Y quan sát Huyền Giác lần nữa, thấy hai mắt ông ta sáng trong, vẻ mặt điềm đạm, nhìn kỹ thì quả thật có đôi chút khí chất vương tử. Lý Khác đặt thanh bội kiếm xuống, ngồi quỳ trên đệm mềm, hỏi dò: “Tân La đã có lỗi với thiền sư, thiền sư hà tất luôn nghĩ cho Tân La như vậy? Cứ kệ cho bọn họ tàn sát lẫn nhau, thiền sư chưa hẳn hết cơ hội Đông Sơn tái khởi [*] , ngồi thu lợi ngư ông.”

“Đổi lại là điện hạ, ngài sẽ làm thế sao?” Huyền Giác nghiêm túc hỏi lại, “Người khác có thể thẹn với tôi, nhưng tôi không thể thẹn với lương tâm của mình. Điện hạ cứ xử tôi theo pháp luật là được rồi, chúng ta đều đạt được thứ mình cần.

Trời đã tối đen, tiếng quạ kêu quang quác ầm ĩ mà thê lương. Lý Khác nghe ông ta nói vậy, trong lòng vô cớ sinh ra vài phần chán nản: “Vậy bây giờ ông có thể nói với ta, rốt cuộc Vũ Văn Sĩ Cập bị người nào hại không?”

Huyền Giác lắc đầu: “Điện hạ hà tất phải cố chấp thái quá. Chân tướng mà ngài biết chính là chân tướng duy nhất, cũng là kết cục tốt nhất.”

“Nói cho ta!” Lý Khác nghiến răng nghiến lợi gắn từng chữ.

Huyền Giác không bị câu nói hùng hổ đó uy hiếp, chỉ nhìn Lý Khác với vẻ ôn hòa. Có một thoáng, dường như Lý Khác nhìn thấy sự đồng cảm và thương hại trên mặt ông ta. Tại sao? Tại sao ông ta lại lộ ra biểu cảm kỳ lạ như vậy? Hồi lâu, Huyền Giác mới đứng lên, chắp hai tay lại, chào theo lễ của một nhà sư: “Thật ra Vũ Văn thí chủ đã nói cho điện hạ biết từ lâu rồi. Nếu điện hạ có lòng thì tất nhiên có thể nghĩ ra. Bần tăng chỉ nói đến đây được thôi.”

Không ai có thể uy hiếp một người tình nguyện chịu chết nói thật. Trái tim Lý Khác đập dồn dập hồi lâu, cuối cùng cũng dần bình tĩnh trở lại. Y bảo Trương Phóng đưa Huyền Giác về phòng giam, bản thân thì vẫn ngồi một mình ở đó, nhìn sáp nến lăn xuống từng giọt một. Y cảm thấy cực kỳ mệt mỏi, nhưng dường như có vô số giọng nói không ngừng la hét bên tai, ồn ào làm não y giần giật hết cơn này đến cơn khác.

[*] - Chỉ việc khôi phục được địa vị sau khi thất thế.

Không biết đã qua bao lâu, Lý Khác mới tỉnh lại. Lúc này trời đã sáng bảnh, bốn ngọn nến trước mặt đều đã cháy hết. Y mở cửa điện, một luồng gió thu trộn lẫn cát bụi phả vào mặt, khiến y cảm thấy mặt ngứa ran khó chịu vô cùng. Hai viên tiểu lại đang canh trực vội vàng lại đón, gọi một tiếng: “Điện hạ.”

Lý Khác mệt đến mức không buồn mở miệng, chỉ vẫy tay với bọn họ, rồi tiếp tục đi. Lưu Phong dường như cảm nhận được tâm trạng suy sụp của chủ nhân, nên cũng không hí lên, chỉ nhẹ nhàng chạy nước kiệu dọc đường về nhà.

Trong sân nhà chính của vương phủ, Vũ Lương đang chỉ huy mấy gã tiểu nô bê chậu hoa cúc: “Chu Lục, mấy chậu sen thanh thủy này cứ đặt ở hành lang đã, một lát nữa mấy lão ma ma ở chỗ vương phi sẽ qua mang sang Cảnh Hạnh trai.”

Chu Lục là một cậu thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi, vừa nghe câu này liền nhìn quanh một vòng, hồ nghi hỏi: “Mấy cái này không phải đều là hoa cúc sao? Hoa sen ở đâu ra ạ?”

Lời vừa thốt ra, cả đám người trong đó có cả Vũ Lương đều cười không thẳng được lưng. Cuối cùng một gã mặt rỗ, để râu quai nón vỗ vai cậu ta, gắng nhịn cười, chỉ vào mấy chậu cúc ở bên cạnh chân mình nói: “Chú em ngốc, sen thanh thủy đâu phải là hoa sen thật? Đó là tên của một giống cúc, vô cùng quý báu hiếm có đấy! Trước đây điện hạ từng dặn dò, những thứ tốt nhất đều phải đưa cho vương phi trước, mấy chậu sen thanh thủy này tất nhiên cũng không phải ngoại lệ. Còn không mau đặt cẩn thận qua bên này!”

Chu Lục xấu hổ, không ngớt vâng dạ đi làm.

Đó không phải là hoa sen thật, mà là tên của một giống cúc. Lúc đi qua Cảnh Hạnh trai, Lý Khác cứ nghĩ mãi về câu nói đó, dường như suýt nữa đã liên hệ được với một câu nói khác trong ký ức. Nhưng nhất thời y lại không nghĩ ra, đành tạm gác lại một bên.

Nửa tháng sau, trong buổi đại chầu, Lý Khác cùng thượng thư bộ Hình, ngự sử trung thừa đã tâu rõ đầu đuôi vụ án Huyền Giác và kết quả xét xử cuối cùng của tam pháp ty với Lý Thế Dân và văn võ bá quan. Huyền Giác bị xử trảm vì tội giết người, đợi sau thu sẽ chấp hành. Nhất thời, lòng người kích động phẫn nộ, ngay cả Giang Hạ vương luôn không mấy hòa thuận với Vũ Văn Sĩ Cập cũng tức giận khôn nguôi, thái độ kiên quyết phản đối Đông chinh cũng mềm đi vài phần.

Buổi chầu đã tan, Dương Chính Đạo bước ra khỏi cửa chính của điện Vũ Đức, thấy triều thần xung quanh vẫn chưa lui hết, đành gọi một câu: “Ngô vương điện hạ xin dừng bước.”

Lý Khác dừng bước, sánh vai đi cùng gã một lúc lâu mới nói: “Huynh đừng hỏi ta nữa. Điều huynh cần biết, vừa nãy ta đã nói cả rồi. Điều huynh không cần biết, lần trước ta cũng nói hết với huynh rồi”

“Ai muốn hỏi đệ chuyện đó chứ?” Dương Chính Đạo giơ tay gạt hộ y hai cành liễu rủ sát đất ở trước mặt, “Vừa nãy ta thấy lúc đệ nói ánh mắt cứ hấp háy không yên. Thực ra, đệ đã làm rất tốt việc bảo toàn danh tiếng của Vũ Văn Sĩ Cập và hiểu thấu tâm sự của bệ hạ, đến mức không thể bắt bẻ được rồi. Hơn nữa, Huyền Giác cầu nhân được nhân, lại chẳng phải là đệ ép ông ta nhận tội, đệ đừng áy náy về điều đó nữa. Trên đời này, có rất nhiều thứ còn quan trọng hơn cả đúng sai.”

“Biểu huynh, huynh cả nghĩ rồi, ta đâu có.” Lúc nói câu này, Lý Khác chỉ cảm thấy có thứ gì đó đang khuấy động ruột gan y. Dương Chính Đạo không biết, ánh mắt y luôn né tránh không phải vì do dự hay xấu hổ, mà chỉ vì không muốn để người khác nhìn thấu tim đen mình. Vào giây phút y biết rõ chân tướng, nhưng vẫn lạnh lùng nói với Huyền Giác là không muốn rửa oan cho ông ta, có lẽ trái tim y đã không còn trong sáng và bướng bỉnh như hồi thiếu niên nữa rồi. Y cười tự giễu, không biết từ bao giờ, y đã trở nên tinh ranh lọc lõi giống những kẻ trước đây y từng căm ghét.

“Không có thì tốt. Thật sự rất tốt.” Dương Chính Đạo như cởi tấm lòng, giọng nói tràn đầy vẻ nhẹ nhõm và khuây khỏa, sau đó lại cười: “Mấy hôm trước lục đệ phàn nàn với ta, nói đệ đã hứa đi săn với nó, nhưng mãi vẫn chưa thấy hẹn ngày cụ thể.”

Lý Khác lắc đầu ngao ngán: “Cái thằng này cũng sắp làm cha rồi mà cả ngày vẫn lông bông. Có điều, đó cũng là phúc khí của nó.”

“Phần lớn phúc khí của nó là nhờ vào đệ” Dương Chính Đạo nghiêng đầu nhìn y, nói tiếp, “Lần trước nó phạm lỗi về kinh, bệ hạ bảo đệ quản nó cho cẩn thận, sao đệ chẳng làm gì cả? Chẳng trách Trưởng Tôn Vô Kỵ nói trước mặt bệ hạ là đệ thiên vị bao che khuyết điểm.”

“Ông ta muốn nói gì thì tùy” Lý Khác không đồng tình, “Ta chỉ có một đứa em trai ruột, có thể không bảo vệ sao? Hơn nữa những tật xấu của nó không phương hại đến đại nghĩa, đợi lớn hơn chút nữa nó khắc chững chạc lên, không cần người ngoài nhận xét nhăng cuội, lo lắng linh tinh.”

“Người ngoài? Trưởng Tôn Vô Kỵ sao?” Dương Chính Đạo nghe giọng y có vẻ không có ý tốt, liền tò mò hỏi, “Đệ kết thù oán với ông ta từ bao giờ vậy?”

“Ông ta là bề tôi đắc lực của Đại Đường, là anh rể của phụ hoàng, là cậu ruột của thái tử, sao ta dám kết thù oán với ông ta?” Lý Khác không khỏi cười khẩy, “Chỉ là sự việc hôm đó ta cũng có nghe nói chút ít, nếu không phải Trưởng Tôn Vô Kỵ ở bên cạnh châm lửa thổi gió, phụ hoàng cũng không đến nỗi nổi giận truất ngôi tể tướng của ông trẻ, biếm ông ra khỏi kinh thành.”

“Vẫn còn tức giận vì chuyện này cơ à!” Dương Chính Đạo ôn tồn nói, “Ba mươi năm gió mưa luân chuyển xoay vần, quan trường thăng giáng, đây giảm kia tăng, cũng là chuyện bình thường. Khác đệ, yên tâm đi! Ông trẻ quá hiểu đạo lý này, ắt có thể bảo vệ bản thân chu toàn. Huống hồ bệ hạ cũng chẳng thể rời nổi lão nhân gia người, không chừng năm nay hoặc sang năm lại được vời về làm tể tướng thôi.”

Trong khi nói chuyện, hai người đã đến cửa cung. Quý Thành bước nhanh đến đón, nói: “Điện hạ, vừa nãy người của phủ Vũ Văn sang phủ của chúng ta, bảo rằng Thọ Quang huyện chúa tìm ngài có chuyện quan trọng, mời ngài sau buổi chầu nhất định phải qua một chuyến.”

“Đã đóng hòm luận định rồi, còn gì để nói nữa?” Lý Khác lầu bầu một câu, nhưng lúc lên xe ngựa vẫn nói với Dương Chính Đạo, “Huynh không đi cùng ta à?”

“Người ta mời đệ, ta đi làm gì?”

“Nếu huynh không đi, lát nữa ta vẫn phải đến phủ của huynh kể lại chuyện này một lượt, phiền phức lắm!” Lý Khác vén rèm lên nói, “Được rồi! Mau lên xe cùng đi thôi!”

Bốn ngọn đèn lồng trắng trước cửa phủ Vũ Văn không ngừng đung đưa theo gió. Thọ Quang huyện chúa mặc đồ tang, trên búi tóc chỉ cài xéo mấy cây trâm bạc, nét mặt lại hòa dịu hơn lần trước nhiều, có lẽ người thì mất rồi, bà ấy cũng đã biết bình thản đón nhận. Thị nữ thấy gió lạnh nổi dần, liền ân cần khoác lên người bà chiếc áo khoác mình cầm trên tay. Bà nhìn Dương Chính Đạo một cái rồi nói với Lý Khác: “Ngô vương điện hạ, vị này là...”

Lý Khác đưa cái hốt trong tay cho Quý Thành, giới thiệu: “Đây là biểu huynh của ta, tán kỵ thường thị, Tuyên Bình hầu đích thân bệ hạ phong.”

Trong đôi mắt bình tĩnh của Thọ Quang huyện chúa thoáng lóe lên tia kinh ngạc, bàn tay đang nắm khuy buộc theo thói quen bất giác thông xuống, giọng nói hơi run rẩy, như thể vừa nhai một viên đá lạnh: “Dương Trinh Khanh Dương công tử?”

“Không sai. Trinh Khanh là tên tự mà bà nội đặt cho tôi. Nụ cười tươi tắn của Dương Chính Đạo có mang chút ý vị sâu xa, “Chuyện huyện chúa muốn nói với Ngô vương chắc không phải chuyện Dương Chính Đạo không thể nghe đâu nhỉ.”

“Đương nhiên không phải” Thọ Quang huyện chúa mỉm cười, “Mời hai vị vào nhà chính nói chuyện.”

Cách bài trí của nhà chính không khác mấy so với những gì Lý Khác thấy khi đến đây lần đầu tiên, chỉ là ngọn đèn treo trên đầu dường như đã tích rất nhiều bụi, gió vừa thổi qua là bụi bặm tung bay lơ lửng trong không khí, không cẩn thận là mờ cả mắt. Thọ Quang huyện chúa đuổi những người hầu ở trong phòng ra, lấy ra một mảnh giấy đầy nếp gấp từ trong tay áo, đưa cho Lý Khác rồi nói: “Cái này là đêm qua lúc thiếp thân thu thập di vật của lang chủ, tình cờ bắt gặp trong một chiếc hộp gấm. Thiếp thân cảm thấy có gì đó bất thường, nên hy vọng Ngô vương có thể giải đáp nghi ngờ cho thiếp thân.”

Những chữ bên trên được viết rất nhỏ, nhưng vô cùng ngay ngắn và đẹp:

Phương Nam gió đưa, thổi chồi táo kia. Chồi táo tươi non, mẹ nhọc vì con.

Nhìn sang bên phải thì thấy một hàng chữ còn nhỏ hơn:

Tối mùng tám tháng Tư, gặp tại đình Thu Hà.

Lạc khoản là hai chữ: Thiền sư.

Lý Khác xem xong liền đưa mảnh giấy cho Dương Chính Đạo. Lông mày Dương Chính Đạo hơi nhíu lại, rồi gã thình lình đứng dậy, nghiêm nghị nhìn Thọ Quang huyện chúa: “Thiền sư là ai?”

Thọ Quang huyện chúa càng thêm bất an, nói: “Quân hầu cũng cảm thấy mảnh giấy này không phải do Huyền Giác thiền sư viết?”

Dương Chính Đạo gật đầu: “Bốn câu đầu lấy từ bài Khải Phong trong Kinh Thi , ca ngợi phẩm hạnh tốt đẹp của người mẹ đã vất vả cực nhọc nuôi dạy con cái. Huyền Giác không có lý do gì để gửi cái này cho Vũ Văn... Vũ Văn công.”

“Còn nữa..” Lý Khác ở bên cạnh bổ sung, “Mùng tám tháng Tư là lễ Phật Đản, các chùa miếu lớn nhỏ trong kinh thành đều sẽ tổ chức pháp hội để kỷ niệm. Huyền Giác đã là cao tăng có đạo, bất kể có chuyện quan trọng đến đâu, cũng không chọn một ngày như vậy để hẹn Vũ Văn công ra ngoài.

Thọ Quang huyện chúa cầm chén trà lên rồi lại đặt xuống, sau đó lại không ngừng vuốt tay áo: “Vì vậy... có lẽ thiền sư ở đây là một tiểu tăng vô danh trong chùa, chỉ có tranh thủ lúc pháp hội, mọi người đều bận rộn hỗn loạn, mới có thể chuồn ra khỏi chùa hẹn gặp lang chủ.”

Dương Chính Đạo truy hỏi: “Vậy huyện chúa có biết người này có thể là ai không?”

“Không đúng! Biểu huynh, có lẽ chúng ta đều sai cả rồi.” Lý Khác nắm chặt cổ tay Dương Chính Đạo, nhìn vào mắt gã không chớp mắt, “Thiền sư không phải là chỉ tăng nhân, mà là tên người!”

Dương Chính Đạo cảm nhận được hơi nóng trong lòng bàn tay Lý Khác, biết nhất định là y đã ngộ ra chuyện bí mật gì đó, liền vỗ lên vai y để xoa dịu, rồi hỏi: “Đệ dựa vào đâu mà nói vậy?”

“Phương Nam gió đưa, thổi chồi táo kia. Chồi táo tươi non, mẹ nhọc vì con.” Lý Khác không trả lời câu hỏi của gã, chỉ chậm rãi đọc bốn câu thơ này, trong lòng y trào dâng một cảm giác ấm áp không thể diễn tả, ngay cả giọng nói cũng dịu đi nhiều, “Có một câu, Lý Khác muốn mạo muội hỏi cô cô, xin cô cô hãy nói thật.”

Thọ Quang huyện chúa cụp mắt, sờ đóa lan trắng cài bên cạnh tóc mai, nói: “Điện hạ cứ hỏi.

Ánh nắng ảm đạm xuyên qua tán lá hòe già chiếu xuống đầm nước, hắt bóng lưa thưa ngang dọc, mặt nước loang loáng dập dềnh. Lý Khác chắp tay bước đến trước cửa sổ, mải nhìn một lúc lâu, rồi mới quay người lại hỏi với ánh mắt sáng quắc: “Vũ Văn công có vợ lẽ bên ngoài phải không?”

“Không có.” Thọ Quang huyện chúa nói không cần suy nghĩ.

“Hả? Cô cô có chắc không?” Lý Khác nửa tin nửa ngờ hỏi lại.

“Tất nhiên là chắc. Ngoài nguyên nhân lần trước thiếp thân đã nói với điện hạ ra, thì đó là trực giác,” Thọ Quang huyện chúa suy nghĩ một chút, sau đó lại bổ sung một câu, “trực giác nhạy bén của một người đàn bà.”

“Được, ta biết rồi. Vẻ mặt Lý Khác thoáng chút hoang mang và ngưng trệ, như thể đang tấu một khúc nhã nhạc, lại trật mất một hai nhịp. Bên ngoài chim chóc kêu líu ríu, vừa vặn khỏa lấp khoảnh khắc trống rỗng này. Y khẽ gật đầu với Dương Chính Đạo: “Chúng ta đi thôi!”

“Đợi đã Ngô vương.” Thọ Quang huyện chúa vội nói, “Mối nghi ngờ của thiếp thân vẫn chưa có lời giải.”

“Không quan trọng đâu, Lý Khác cười nhẹ như gió thoảng mây thưa, “có lẽ chỉ là một cuộc hẹn thông thường, cô cô không cần bận tâm. Kẻ giết người đã phải đền tội, Vũ Văn công dưới suối vàng có biết, cũng sẽ được yên nghỉ. Như vậy là được rồi.”

Trong mắt Thọ Quang huyện chúa dường như có vô vàn nỗi không cam tâm: “Thật sự chỉ như vậy thôi?”

“Chỉ như vậy thôi!” Lý Khác nói hết sức quả quyết.

Trên đường về, Lý Khác chẳng nói một lời. Thấy xe ngựa sắp dừng lại, Dương Chính Đạo cuối cùng cũng không kìm được hỏi: “Sao lúc nãy đệ lại hỏi câu đó?”

“Để xác định ý nghĩ hoang đường trong lòng ta.” Dù lúc này trong xe ngựa chỉ có hai người, nhưng Lý Khác vẫn nén giọng xuống rất thấp, “Phiền huynh hôm nay đích thân đến chỗ bà ngoại một chuyến, hỏi giùm ta một câu.”

Dương Chính Đạo nghe xong, thoạt tiên ngẩn ra, sau đó lại gật đầu nói: “Trước tối nay, ta nhất định sẽ cho đệ câu trả lời.”

Trong gác ấm của Cảnh Hạnh trai phủ Ngô vương, Kỳ Úc đang nằm nghiêng trên giường, thích thú nhìn Bạch Đàn khéo léo thêu một chiếc áo nhỏ với hoa văn thiện tài đồng tử. Bạch ma ma và Cẩm Quỳ ở bên cạnh thì tỉ mỉ xe tơ, hàng chục sợi rực rỡ đủ màu, nhìn hoa cả mắt. Tháng thai lớn dần, Kỳ Úc ngày càng cảm thấy mệt mỏi, ngay cả trở mình cũng vô cùng khó khăn. Có điều, may thay thái y bảo thai nhi ổn định, chỉ cần đợi đến lúc sinh nở là được.

“Mắt nhòe rồi, nhìn không rõ nữa. Cẩm Quỳ, phần còn lại con cứ xe tất với nhau đi.” Bạch ma ma dụi mắt, đứng dậy vung vẩy cánh tay, rồi đổi một chiếc gối hơi thấp hơn và đắp một chiếc chăn mỏng cho Kỳ Úc, “Tuy là giữa trưa nhưng vẫn phải cẩn thận kẻo bị lạnh. Đúng rồi, đêm qua Ngô vương điện hạ lại không về phủ sao?”

Kỳ Úc cầm lấy một chiếc giày nhỏ đầu hổ ở cạnh mình, sờ hai viên trân châu tròn xoe bên trên, gật đầu nói, “Không chỉ đêm qua mà hôm kia chàng cũng không về.”

“Vương phi phải đoán được sẽ có ngày hôm nay từ lâu rồi mới phải.” Bạch ma ma nắm tay Kỳ Úc nói, “Thay vì để điện hạ đề nghị đón người khác vào cửa, chẳng bằng người đề cập trước, như vậy cũng thể hiện được sự độ lượng của người. Nói đi thì phải nói lại, sở dĩ điện hạ thành ra như vậy cũng bởi vương phi đã sơ suất. Thực ra, người nên chọn cho ngài ấy vài cô trắc phi phẩm hạnh đoan trang ở bên cạnh ngay từ sớm. Phụ nữ bên ngoài, rốt cuộc cũng chẳng biết là tốt hay xấu.”

“Ma ma đang nói cái gì vậy?” Kỳ Úc cố nín hồi lâu, cuối cùng không nhịn được phải phì cười, cười đến đỏ cả tai.

Bạch ma ma thấy nàng như vậy, chỉ ngờ là nàng đau lòng đến mức thất thần, liền dịu dàng an ủi: “Vương phi đừng để tâm quá. Thiên hạ làm gì có người phụ nữ nào không trải qua chuyện này? Như cha của Đàn nhi đây này, năm xưa cũng nuôi một ả chơi đàn tỳ bà ở bên ngoài!”

Bạch ma ma còn muốn nói tiếp, nhưng lại nghe thấy giọng nói lanh lảnh của tiểu nha hoàn hầu trà Tiểu La: “Điện hạ, sao ngài không vào?”

Lý Khác từ sau bức bình phong bước vào trong phòng, y và Kỳ Úc nhìn nhau, đều thấy nét cười không thể ngăn nổi ở đáy mắt người kia. Bạch ma ma nghĩ đến việc có lẽ y đã nghe được những lời mình vừa nói, liền cảm thấy hơi lúng túng, chỉ biết chắp tay nhún mình chào: “Điện hạ.”

Nói xong, bà đưa mắt ra hiệu cho Bạch Đàn, Cẩm Quỳ. Hai cô lập tức hiểu ý nói: “Chúng nô tì không làm phiền điện hạ và vương phi nói chuyện nữa, xin cáo lui trước.”

Kỳ Úc thấy họ đi xa, mới thở phào một hơi, ngồi thẳng người dậy khoác tay Lý Khác, dựa vào vai y nói: “Phiền chết mất, cuối cùng cũng đi rồi.”

Lý Khác trìu mến véo khuôn mặt mềm mại của nàng, nói: “Ta bị bà ấy đổ oan thành ra như thế, sao ngay cả một câu nàng cũng không nói giúp ta?”

“Nhưng thiếp đâu biết là chàng oan uổng” Kỳ Úc giả bộ trầm ngâm, rồi lại bắt chước giọng của Bạch ma ma nói, “thiên hạ làm gì có người đàn ông nào thấy gái xinh mà rời nổi mắt chứ?”

Lý Khác cởi giày tất, nằm xuống cạnh Kỳ Úc: “Kỳ nhi là cô gái xinh đẹp duy nhất trong thiên hạ, ta cũng chỉ nhìn Kỳ nhi thì mới không rời mắt thôi. Đêm qua ta ở...”

“Chàng không cần nói với thiếp,” Kỳ Úc không đợi y dứt lời đã nói luôn, “phu quân của thiếp là người như thế nào, thiếp tự hiểu.”

Lý Khác thấy mặt nàng đầy vẻ quả quyết, liền ôm chặt nàng hơn. Lúc đó vừa gặp đã xiêu lòng, cái y thích là dung mạo siêu phàm thoát tục và tính cách cởi mở vui tươi của nàng; về sau là cùng chung chí hướng, tâm hồn hòa hợp; rồi sau đó, y cũng chẳng biết yêu vì điều gì, nhưng luôn cảm thấy y và nàng là nhân duyên trời xanh định sẵn, là ràng buộc từ kiếp trước đến đời này, chia không rời, cắt chẳng đứt. Càng ở bên nàng lâu, y càng hiểu rằng lời yêu thương đẹp nhất trên đời này không phải là câu thề non hẹn biển trường tồn cùng trời đất, mà chỉ là một chữ: Hiểu.

Lý Khác nghiêng người sang, áp tai lên bụng dưới của Kỳ Úc, thỉnh thoảng có thể nghe thấy tiếng động của đứa bé bên trong. Những năm tháng yên ả và tươi đẹp như thế, dường như y không còn gì để chê bai nữa. Nhưng hôm nay, vào giây phút bước ra khỏi phủ Vũ Văn, y đã ý thức được những bí mật của quá khứ, y có thể không nói ra miệng, nhưng không thể không đi tìm hiểu, chứng thực. Y đột nhiên cảm thấy hơi buồn ngủ, nói như đang nằm mơ: “Kỳ nhi, chúng ta sẽ không giống bọn họ. Chúng ta sẽ mãi ở bên nhau... Nhưng ta vẫn sợ... vẫn sợ...”

Kỳ Úc giơ tay vuốt ve khuôn mặt y. Dù nhắm mắt, nàng vẫn dễ dàng cảm nhận được vẻ mặt buồn bã của y. Y vẫn cứ anh tuấn rạng ngời như thế, có buồn bã thì cũng rất đẹp. Kỳ Úc mỉm cười: “Tam lang, thiếp không sợ. Chàng biết đấy, thiếp không sợ gì cả.”

Lúc Lý Khác tỉnh thì đã qua giờ Dần. Y đứng dậy vặn cái cổ hơi tê mỏi, thấy Kỳ Úc đang ngồi trước bàn luyện chữ, liền nói: “Sao nàng không gọi ta dậy? Giữa ban ngày sao có thể ngủ lâu như vậy được?”

Kỳ Úc không ngẩng đầu nhìn y, chỉ chấm mực viết nốt nét thu bút cuối cùng: “Thấy chàng mệt như vậy, thiếp xót lắm! Đâu nỡ đánh thức chàng?”

“Vốn định chiều nay viết nốt phần phụ hoàng giao cho, giờ xem ra phải đợi đến tối mới viết được.” Lý Khác soi gương chỉnh lại mũ bịt tóc nói, “Tối nay ta không qua Đại Lý tự nữa, mà sẽ ngoan ngoãn ngồi viết ở thư phòng bên ngoài, để tránh bị bà lão kia hiểu nhầm ta có nhân tình ở ngoài.”

Kỳ Úc nhoẻn miệng cười, đặt bút xuống nói: “Tam lang sợ ma ma đến thế sao?”

“Ta sợ bà ấy á? Ta sợ bà ấy làm phiền nàng thôi! Đến lúc đó, nếu bà ấy ép nàng nạp cho ta bảy, tám cô trắc phi thị thiếp, thì nàng mới là người phải chịu khổ.” Lý Khác bước đến bên cạnh Kỳ Úc, ngắm nhìn tỉ mỉ bức chữ mà nàng vừa mới múa bút viết thành.

“Vậy thiếp sẽ nói thật với bà ấy là thiếp không bằng lòng” Kỳ Úc bĩu môi không đồng tình, nàng khẽ vén lại tóc mai, đôi trâm mành mành vàng trên búi tóc lay động nhè nhẹ, nhìn từ xa tựa như hai con chim sẻ đang chụm đầu ríu rít.

“Thế thì chắc chắn bà ấy giận lắm đấy” Lý Khác vặn tay, đọc hai mươi chữ trên tờ giấy: “ Bình minh thấy bụi hoa, xuân đến theo chim ca, gió mới lay cành liễu, nắng ấm chiếu rêu nhòa. ”

Hai mươi chữ đó nối liền nhau không dứt, giống một bức tranh được dày công vẽ, tươi tắn trang nhã, tinh xảo độc đáo. Kỳ Úc thấy y xem rất nghiêm túc, liền cười hỏi: “Sao thế?”

“Đẹp. Một vẻ đẹp khó diễn tả.” Lý Khác gật đầu khen ngợi vô cùng chân thành.

“Vậy thiếp sẽ cho là thật. Kỳ Úc thấy mực đã khô, hài lòng cuộn tờ giấy lại, lấy dây lụa đỏ buộc rồi để vào trong chiếc bình lưu ly có hình hoa mai đỏ. Bỗng liếc mắt thấy một chiếc hộp gấm đỏ bên cạnh tay, liền lấy hai chiếc lắc vàng ở bên trong đưa cho Lý Khác xem, như đang khoe báu vật: “Tuyết Lộ tỉ tỉ tặng cái này lúc đến thăm thiếp hồi sáng, bảo là cho hai con của chúng ta. Đẹp không?”

Lý Khác nhìn đi nhìn lại rồi mới nói: “Quà Tuyết Lộ tặng tất nhiên là đẹp rồi. Thứ nàng thích đương nhiên cũng tốt.”

“Tuyết Lộ tỉ tỉ thật là có tâm. Chàng nhìn cái này...” Kỳ Úc đặt hai chiếc lắc vàng lại với nhau, chỉ vào dòng chữ bên trong, “ Công nghiệp sáng soi bốn biển, nhân từ gió thổi ngàn năm. Chẳng phải lần trước tam lang nói là muốn dùng câu trong Hậu Hán thư - Chương Đế kỷ này để đặt tên cho con của chúng ta sao?”

Lý Khác lại chú tâm nhìn lần nữa, quả nhiên thấy trong một chiếc lắc có khắc chữ “nhân”, trong chiếc còn lại thì khắc chữ “phong”, liền gật đầu nói: “Tên được giấu bên trong chiếc lắc, tâm tư thật là tinh tế...

Lý Khác đột nhiên ngừng nói, cảnh tượng xảy ra nhiều năm về trước chợt lóe lên trong đầu, sau một cơn lạnh sống lưng, y cảm thấy não mình co giật mạnh, tiếp theo mặt lại ửng đỏ lên từng chập. Y ngồi quỳ xuống đất, lẩm bẩm: “Lẽ nào là hắn?”

Kỳ Úc không hiểu hỏi: “Ai cơ?”

“Biểu huynh.”

“Biểu huynh? Chủ ý này là biểu huynh nghĩ ra à?”

“Không phải, không phải Trinh Khanh.”

Kỳ Úc nắm tay y, nhưng không mở miệng nói gì thêm.

Trong lúc im lặng, lại thấy Bạch Đàn khẽ khàng gõ cửa bước vào, đưa một mảnh giấy trong tay cho Lý Khác: “Điện hạ, vừa nãy Đỗ Húc tới bảo, chuyện ngài muốn biết, Tuyên Bình hầu đã hỏi rõ giúp ngài rồi.”

Lý Khác nóng lòng mở ra xem, bên trên chỉ viết hai chữ: Thiền Sư.

“Quả nhiên hắn chưa chết, hắn thật sự chưa chết! Đúng là nhân quả báo ứng!”

Bạch Đàn khó hiểu nhìn sang Kỳ Úc, Kỳ Úc cũng nhìn Lý Khác bằng ánh mắt nghi hoặc tương tự. Lý Khác bưng chén trà trên bàn lên, uống một hơi cạn sạch: “Kỳ nhi, ta muốn kể cho nàng một chuyện.”

Rạng sáng hôm sau, Lý Khác lên đường đến phủ Ung Châu. Đợi gần nửa canh giờ, Tề Trưởng Thăng mới liêu xiêu đi tới, theo sau là Hoàng bổ đầu hết sức kính cẩn. Tề Trưởng Thăng đang đi mà miệng vẫn không ngớt càu nhàu: “Vì chuyện vợ chồng cãi vã đánh nhau vỡ đầu này mà một góc yên ổn cũng mất luôn. Sao ngươi không hỏi cho rõ?”

Hoàng bổ đầu cúi đầu vâng dạ: “Người báo án bảo sắp xảy ra án mạng, ti chức thực không dám phó mặc cầu may”

“Ngươi lắm lời quá. Tề Trưởng Thăng “hừ” một tiếng, mãi đến khi nhìn thấy Lý Khác, vẻ kiêu ngạo trên mặt mới phai dần. Ông ta vái sâu một cái, khiêm cung nói: “Sao sớm thế này mà Ngô vương điện hạ đã đến rồi?”

“Dù sao cũng không phải tìm ông tán gẫu, tất nhiên là có việc lớn rồi.” Lý Khác vén áo ngồi trên công đường, tiện tay giở xem mấy bức chân dung truy nã ở trước mặt, “Vẫn không có tin tức gì về tên trộm lần trước ông bảo sao?”

“Ý điện hạ là thủ phạm vụ am Tịch Quang.” Tề Trưởng Thăng vỗ mạnh vào đầu một cái, ngoảnh lại nhìn Hoàng bổ đầu, “Kẻ đó tên là gì?”

Hoàng bổ đầu nhìn Tề Trưởng Thăng bằng ánh mắt nhìn một kẻ ngốc, nghĩ bụng: Tổng cộng chỉ có ba chữ, đã nói với ngài không biết bao nhiêu lần rồi, sao ngài mãi không nhớ nổi thế?

“Bỏ đi. Ông không nhớ cũng không sao, chỉ cần trong lòng bản vương biết là được rồi. Lý Khác không đợi Hoàng bổ đầu nói, liền mỉm cười chọn ra một bức trong xấp tranh chân dung, “Vẽ vẫn chưa giống lắm, lông mày của hắn phải rậm hơn một tí, mũi cũng thẳng hơn một chút.”

Tề Trưởng Thăng lại gần nhìn, sửng sốt hỏi: “Điện hạ nhận ra kẻ này?”

“Há chỉ nhận ra!” Lý Khác giơ tay chậm rãi xoa bức chân dung, rồi bỗng nhiên từ từ siết lại thành nắm đấm, “Bản vương với hắn là người quen cũ.”

Tề Trưởng Thăng “ủa” một tiếng, gãi đầu nói: “Có thể quen điện hạ thì đúng là hắn có phúc tu mấy kiếp. Đương nhiên, đó cũng là phúc của hạ quan. Hạ quan sẽ mãi mãi ghi nhớ lời dạy dỗ của điện hạ, ngoài miệng trong lòng một phút cũng không quên!”

Gương mặt Lý Khác giãn ra: “Tề Trưởng Thăng, ông không cần nịnh hót bản vương như thế. Nếu ông thực sự muốn thăng quan thì làm giúp ta một việc này. Nếu làm tốt, bản vương sẽ tiến cử ông làm Ung Châu mục trước mặt bệ hạ. Thế nào?”

“Xin điện hạ sai bảo! Vì ngài, hạ quan nhất định sẽ nhảy vào nước sôi lửa bỏng, quyết không từ nan!” Tề Trưởng Thăng nghe xong, lập tức kéo Hoàng bổ đầu cùng quỳ xuống.

Lý Khác xé nát vụn bức chân dung đó, như thể nếu không làm vậy thì không đủ để y giải hận: “Bản vương muốn ông thu hồi toàn bộ tranh truy nã ở các phường trong thành, nói là kẻ này bị bắt, sợ tội nên tự tử rồi, sau đó lập tức kết thúc vụ án.”

Tề Trưởng Thăng khó xử ra mặt, do dự hồi lâu mới nói: “Điện hạ, việc này... việc này không tốt cho lắm. Tội danh ban đêm đột nhập Phật môn thanh tịnh ăn trộm không hề nhỏ. Hạ quan đã là quan phụ mẫu của kinh thành, đương nhiên phải lấy việc bảo vệ an toàn cho trăm họ làm nhiệm vụ của mình, không thể dễ dàng bỏ qua loại trộm này!”

Lý Khác nghe giọng điệu của ông ta hùng hồn đầy chính nghĩa, trong lòng không khỏi khen thầm một câu: Không tồi. Rồi y lập tức nói: “Ông cứ làm theo là được. Bản vương muốn ông làm như vậy, đương nhiên là có lý do. Bất cứ chuyện gì xảy ra bản vương đều sẽ gánh hết.”

“Vâng!” Đến giờ Tề Trưởng Thăng mới mau mắn trả lời, lại kéo Hoàng bổ đầu đứng dậy, “Nghe thấy điện hạ nói gì chưa? Còn không đi làm mau!”

Ván cờ giằng co hơn nửa canh giờ, cuối cùng thắng thua đã rõ dần. Quân đen vừa mới cố ý mở một bên lưới, lấy hư đánh thực, đánh cho quân trắng không kịp trở tay, nhất thời quân trắng tiến thoái lưỡng nan, đành phải lùi thủ từng bước một, quân đen nhân thế phản công, không cho quân trắng bất kỳ cơ hội nào để dựa vào vị trí hiểm yếu mà ngoan cố chống lại. Một quân cuối cùng đặt xuống, quân đen xộc thẳng vào trong trận của quân trắng, quân trắng bị quét sạch.

Dương Chính Đạo cầm quân cờ trong tay, nghĩ đến trận chiến thỏa thuê sảng khoái vừa nãy, không khỏi cười rằng: “Khác đệ, một khi đệ nghiêm túc, đúng là xuống tay quả quyết, không lưu tình một chút nào!”

“Biểu huynh thua không phục ư?” Lý Khác thu lại từng quân cờ một, nhướng mày nói, “Ngày trước toàn là huynh thắng ta, giờ không cho ta thắng một ván?”

“Ngày trước là đệ không muốn thắng, chứ không phải ngón cờ của đệ không bằng ta.” Dương Chính Đạo đứng dậy cầm một miếng bánh trong đĩa trên bàn lên ăn, “Tay nghề của đầu bếp Đại Lý tự tuyệt thật. Không biết ta trả thêm tiền công cho hắn, hắn có bằng lòng đến phủ của ta không nhỉ?”

Lý Khác dở khóc dở cười: “Sao huynh lại có mới nới cũ như vậy? Không phải tháng trước huynh vừa mới mời đầu bếp Lưu từ chỗ ta sang sao?”

Dương Chính Đạo không đồng tình: “Lưu đầu bếp có sở trường là món vó bò, nhưng làm bánh thì lại không được, mà đầu bếp ở đây làm lại cực kỳ hợp với khẩu vị của ta.

“Được! Vậy hôm khác ta sẽ bảo Vũ Lương đi nói chuyện với hắn. Lý Khác cười ấm áp, nhìn nắng chiều rọi vào qua cửa sổ chạm hoa, “Tề Trưởng Thăng vừa mới tới, nói là việc đã xong. Xem ra, chúng ta cũng nên tìm thời gian đi am Tịch Quang một chuyến để gặp cố nhân.”

Dương Chính Đạo lấy khăn lau hai tay, cầm chiếc áo khoác treo trên giá áo lên nói: “Còn tìm thời gian gì nữa? Giờ chúng ta đi luôn!”

“Đợi đã..” Lý Khác đứng dậy, bước nhanh hai bước chắn trước mặt y, “Mai. Mai hãy đi.”

“Không được!” Dương Chính Đạo kéo Lý Khác ra ngoài cửa không cho phân bua, “Đệ vẫn luôn tìm kiếm đáp án mà đệ cần, ta cũng vậy! Giờ sắp tìm được rồi lại chùn bước, thế coi được sao? Đi!”

Am Tịch Quang được xây vào những năm đầu nhà Bắc Ngụy, tới thời Vũ đế nhà Bắc Chu thì bỏ hoang. Đến đầu niên hiệu Vũ Đức triều Đường, có mười mấy ni cô vân du bốn phương đến đây an thân, hương hỏa mới dần trở lại. Hai chữ “Tịch Quang” lấy ý từ thuật ngữ “Thường tịch quang độ” [*] của nhà Phật. Vì tọa lạc ở một nơi hẻo lánh ngoại thành, lại cũ kỹ nhỏ hẹp, ngoài vài hộ gia đình gần đó, bình thường chẳng có mấy ai đến dâng hương cầu phúc, nên am Tịch Quang thường chỉ mở cửa trong nửa ngày.

Do lâu năm không được tu sửa, bản lề hoen gỉ phát ra mấy tiếng “kẽo kẹt” khó nghe. Ni cô già ra mở cửa nhíu mày, quan sát kỹ lưỡng từ trên xuống dưới hai người Lý Khác và Dương Chính Đạo một lượt, thờ ơ hỏi: “Có việc gì?”

“Chúng ta...” Lý Khác mở miệng, nhưng nhất thời không biết bắt đầu từ đâu.

“Chúng ta muốn tìm thiếu chủ của các bà.” Dương Chính Đạo nhìn chằm chằm vào đôi mắt u ám của ni cô già với vẻ ung dung bình thản.

Ni cô già nhìn xung quanh đầy cảnh giác, xác định không có thêm người nào theo sau, mới lạnh lùng nói: “Các người tìm nhầm chỗ rồi.” Nói xong, liền đóng cửa lại.

Dương Chính Đạo vội lấy tay chặn cửa lại, nở nụ cười hết sức ôn hòa: “Hôm đó vì khách dâng hương phát hiện hắn từ thiền phòng đi ra, nên mới hiểu nhầm hắn là kẻ trộm nhỉ? Để thân phận của mình và của chủ nhân các bà không bị bại lộ, hắn chỉ có thể bó tay chịu trói, thừa nhận mình là kẻ trộm, đúng không?” Dương Chính Đạo không đoái hoài đến khuôn mặt biến sắc liên tục của ni cô già, nói tiếp: “Có điều hôm qua phủ Ung Châu đã kết án rồi. Hắn không sao cả.”

[*] - Chỉ cõi tịnh độ nơi pháp thân của chư Phật cư trú. Vì không sinh diệt biến hóa (thường), vắng lặng không nhiễu loạn (tịch), mà có ánh sáng của trí tuệ (quang), nên có tên như vậy.

Ni cô già giật mình nói: “Các người rốt cuộc là ai?”

Lý Khác lấy chuỗi ngọc tú oánh trong tay áo ra, chỉ lên con ngựa bạc nhỏ bên trên nói: “Chủ nhân của các bà sinh năm ngựa, đây chắc là vật yêu thích của bà ấy nhỉ? Mẹ ta cũng thích ngọc tú oánh, lúc nhỏ ta thường thấy mẹ đeo một chiếc nhẫn đệm bằng ngọc tú oánh.”

“Bà ấy... Các người là..” Giọng nói của ni cô già hơi run rẩy, chuỗi tràng hạt nãy giờ lần trên tay đã rơi xuống đất.

“Nếu bà biết rồi thì hẳn cũng rõ bọn ta tuyệt đối sẽ không làm hại họ.” Dương Chính Đạo bước qua ngạch cửa, không cho giải thích thêm, “Chúng ta có chuyện quan trọng, nhất định phải tìm thiếu chủ của các bà hỏi cho rõ.”

Ni cô già cúi người nhặt chuỗi tràng hạt lên, đeo lại vào cổ tay mình, nghĩ đi nghĩ lại rồi mới nói: “Vậy được, các người đợi ở đây một lát, bần ni đi bẩm báo với thiếu chủ một tiếng đã.”

Sắc trời tối dần, trong thiền phòng chỉ thắp hai trong số mười sáu ngọn nến, quá trống trải và u ám, khiến người ta thấy hơi rờn rợn. Kẻ trước mặt đứng chắp tay quay lưng về phía họ. Hắn mặc một chiếc trường bào màu nâu sẫm, dáng người cao thẳng m