← Quay lại trang sách

Chương 24 Mây khỏi lướt qua

Thời gian trôi nhanh như một cái búng tay, thấm thoắt đã qua ba năm. Chuyện xưa như hoa rơi nước chảy, không thể nào nắm được. Tình cờ nhớ lại, cũng chỉ coi như một giấc mơ lộn xộn lạ lùng. Tỉnh dậy, tất cả đều đẹp đẽ chói lọi. Không liên quan được mất, không hỏi đến thời gian.

Trong ba năm này, trong triều ngoài nội đều yên ả lạ thường. Yên ả đến mức vị đại thần nào đó đêm qua bị bà vợ hung dữ đánh cho sưng mắt, cháu trai bụ bẫm nhà thường dân nào đó tám tháng đã biết nói, cây hoa hạnh trong con ngõ nào đó một đêm nở rộ, đều có thể trở thành một việc lớn để mọi người bàn tán xôn xao.

Mấy năm gần đây sức khỏe của Lý Thế Dân không được tốt cho lắm. Tất nhiên cũng chưa đến nỗi tệ. Chỉ có điều, ông không còn cưỡi ngựa, cũng đã bỏ thói quen hằng ngày dậy sớm luyện kiếm. Lúc rảnh thì ông đọc sách luyện chữ trong thư phòng, lúc cao hứng thì triệu mấy phi tần trẻ tuổi đến nói chuyện giải khuây.

Lý Trị thường bầu bạn bên cạnh ông, có lúc còn mang theo cậu con trai nhỏ tên là Tổ Tiết cùng tới. Sau khi Tiêu lương đệ có cậu con trai này, địa vị trong Đông cung không ai có thể lung lay được nữa. Những cung nhân nhiều chuyện thường bàn tán sau lưng rằng, tiểu vương tử được thái tử sủng ái này ngày sau nhất định sẽ là sự lựa chọn tốt nhất cho ngôi vị thế tử. Mấy lời đồn này thỉnh thoảng cũng đến tai Lý Trị. Nhưng Lý Trị chỉ cười trừ. Thái độ mặc nhận này dường như càng củng cố những suy đoán đó hơn.

Năm ngoái, Kỳ Úc sinh cho Lý Khác đứa con thứ ba, đặt tên là Lý Côn. Cậu bé mang tên một thứ ngọc đẹp này, ngay lúc chào đời đã xinh xắn khác thường. Ngay cả bà mụ cũng không khỏi cảm khái, sao lại có em bé vừa ra đời đã có đôi mắt trong veo sáng ngời đến thế! Lý Khác cưng cậu như châu báu ngọc ngà, gần như không muốn dời mắt khỏi cậu dù chỉ một khắc. Kỳ Úc thường cười y, đâu phải lần đầu làm cha, sao lại xúc động đến mức này? Lý Khác cứ kệ nàng cười, chỉ nói là mình thích trẻ con, dù sinh bao nhiêu cũng không chê là nhiều.

Buổi chiều, nắng dịu. Mấy đứa trẻ đang học chữ trong gác Cẩn Du. Lý Nhân năm nay vừa tròn năm tuổi, tuy tư chất hơi kém hơn Lý Khác hồi nhỏ, nhưng cần cù chăm chỉ khác thường, có lúc trong mơ vẫn lẩm nhẩm thơ văn vừa học ban ngày. Lý Vĩ ngồi bên cạnh giờ đã cao gần bằng anh trai. Ba năm trước, Lý Khác đã trình báo với Tông Chính phủ [*] , đặt Lý Vĩ dưới tên của mình với danh nghĩa con thứ của Ngô vương.

“Tỉ tỉ. Lý Vĩ huých cùi chỏ vào Lý Phong bên cạnh, “Sao tỉ tỉ vẫn chưa sờ đến bút? Thầy bảo là, hôm nay phải chép ba lần bài thơ Cam đường rồi đọc thuộc lòng đấy! Nếu không thì thầy sẽ báo với cha.”

[*] - Cơ quan quản lý nội bộ hoàng tộc thời xưa.

Lý Phong để tóc hai búi, hấp háy mắt nhìn cậu: “ Cam đường sum suê, chớ xén chớ chặt, Thiệu Bá chợp mắt. Cam đường sum suê, chớ xén chớ bỏ, Thiệu Bá tạm ở. Cam đường sum suê, chớ xén chớ bẻ, Thiệu Bá dừng nghỉ . [*] ”

Giọng cô bé lảnh lót vui tai, đọc bài thơ lên bổng xuống trầm, nghe rất hay. Vừa xong chữ cuối cùng, không chỉ Lý Vĩ lộ vẻ kinh ngạc, mà ngay cả Lý Nhân và Nguyên Tư Trung học chung đều không hẹn mà cùng nhìn cô bé. Bài Cam đường này, thầy giáo mới chỉ đọc một lần rồi ra ngoài đi vệ sinh.

Lý Phong thấy cả bọn đều không nói gì, liền chớp mắt: “Có chỗ nào không đúng sao?”

Nguyên Tư Trung cúi đầu nhìn bài Cam đường mà mình vừa mới chép xong, nói liên thanh: “Một chữ cũng không sai! Huyện chúa thật là giỏi!”

“Tất nhiên! Cái này không khó.” Lý Phong sờ bông hoa nhỏ màu hồng trên đầu, vẻ khá là tự đắc, tiếp đó lại nghiêng đầu nói, “Nguyên Tư Trung, ta không muốn viết chữ, người viết hộ ta đi! Phải bắt chước giống một chút, không được để thầy phát hiện.”

Nguyên Tư Trung nở nụ cười điềm tĩnh không tương xứng với tuổi của cậu: “Huyện chúa nói gì Tư Trung cũng nghe theo.”

[*] - Thiệu Bá là quan phụ chính đại thần đầu thời Chu, vào một lần đi tuần địa phương, đã dừng nghỉ dưới gốc cây cam đường. Có người đến thưa kiện với ông, được ông xét xử công bằng thấu đáo. Người dân nhớ ân đức của ông, thấy cây cam đường đó như thấy người, quý cây như quý người.

Kỳ Úc vốn định qua xem mấy bạn nhỏ có nghiêm túc học hành không, nhưng vừa đến cửa đã nghe thấy cuộc trò chuyện này, không khỏi mỉm cười. Cô con gái này thật là giống nàng, ngay cả cái nét ngang ngược cũng y hệt. Nghĩ đến đây, nàng lắc đầu bất lực, quay người bước đi.

Vừa ra đến sân đã thấy Tiểu La từ đằng xa hớt hải chạy tới. Sau khi Bạch Đàn, Cẩm Quỳ kết hôn, chính cô ta và một tì nữ khác tên là Hà Bội ở bên hầu hạ Kỳ Úc. Tiểu La năm nay vừa tròn mười sáu, trông thanh tú xinh đẹp hẳn ra, thoạt nhìn hao hao giống Tương Thành công chúa. Tiểu La nhanh nhẹn bước đến trước mặt Kỳ Úc, chắp tay nhún mình chào: “Vương phi, điện hạ tìm người ạ!”

Kỳ Úc gật đầu, cùng cô ta đi về hành lang phía Nam. Bọn họ còn chưa đến Cảnh Hạnh trai, đã thấy Lý Khác rảo bước ra đón, sốt ruột kéo nàng vào trong: “Kỳ nhi, mau thay quần áo, chúng ta đi.”

“Xảy ra chuyện gì vậy?”

“Vừa nãy Vương thái y qua đây. Ông ấy nói bà ngoại chắc không qua nổi đêm nay.”

Năm đó, A Nặc ở ngoài cửa nghe được cuộc nói chuyện giữa Lý Khác và Tiêu Vũ. A Nặc ở bên Tiêu thị mười mấy năm, biết rõ bình sinh bà ấy thương nhất người con gái út. Vì vậy, khi biết bí mật kinh thiên động địa này, cô rất sợ hãi, cắm đầu cắm cổ chạy. Do chạy quá gấp, không cẩn thận cụng trán vào con sư tử đá ở ngoài cửa phủ, rách một vết rất to, nhưng cô chẳng màng, vẫn lao đi như bay.

Sau khi về phủ, cô không nhịn nổi kể tất cả những gì mình nghe thấy cho Tiêu thị. Tiêu thị bàng hoàng tột độ, ngất ngay tại chỗ. Bà vốn đã ở tuổi cổ lai hy [*] , đâu thể chịu được nỗi kích động này? Thái y bảo bà kinh mạch không thông, bị liệt nửa người. Ba năm nay, bệnh tình của bà ngày một nghiêm trọng. Ban đầu chỉ không cử động được tay phải và chân phải, về sau, tay trái và chân trái cũng dần dần không nhấc nổi. Sau đó, bà dần nói không rõ tiếng, cũng không chủ động nói chuyện với người khác. Dâng cơm thì bà ăn, rót nước thì bà uống. Cuối cùng, ngay cả cơm cũng không nuốt nổi, chỉ húp được một chút cháo loãng được nấu thật nhừ. A Nặc ngày ngày khóc lóc tự trách mình, nhưng luôn chăm sóc bà từng li từng tí, tất cả những việc bẩn thỉu vất vả, chưa bao giờ cô nhờ người khác làm. Vương thái y và mấy vị thái y khác cứ cách mười ngày nửa tháng lại tới khám một lần, nhưng lần nào cũng nói những lời giống nhau: “Hết cách rồi. Được ngày nào hay ngày ấy”

Lúc Lý Khác và Kỳ Úc đến nơi, Dương Chính Đạo và Tuyết Lộ đang đứng hầu trước giường Tiêu thị. Lý Khác vội hỏi: “Giờ thế nào rồi?”

Dương Chính Đạo lắc đầu: “Sáu mạch đều yếu, chắc cũng chỉ còn một hai canh giờ nữa thôi.”

Lý Khác nhận lấy chiếc khăn ướt từ tay A Nặc, lau đôi môi khô nẻ trắng bợt của Tiêu thị, khẽ gọi một tiếng: “Ngoại.” Đột nhiên, môi bà hơi mấp máy, Lý Khác vội cúi người, kề tại bên cạnh mỗi bà.

Dương Chính Đạo cũng ngồi thụp xuống, nắm tay bà, thì thầm: “Nội à, chúng con đều ở đây.”

[*] - Tức tuổi bảy mươi.

Trong những tiếng kêu gọi như vậy, mắt Tiêu thị thực sự đã hơi hé. Bà muốn nói chuyện, nhưng âm thanh bị mắc ở cổ họng, không sao phát ra được. Bà cố nhiều lần mới gắng gượng nặn được hai chữ, nhưng mọi người đều không nghe rõ. Lý Khác lại cúi xuống hỏi bên tai bà: “Ngoại bảo gì ạ?”

Tiêu thị chật vật mở mắt to hơn, hướng ánh mắt vào mấy người bọn họ. Bà thở gấp, gần như dùng toàn bộ sức lực gọi lại lần nữa.

Lần này, mọi người đều nghe rõ. Người bà gọi, là Nhiêm nhi.

Đợi một lát, giọng nói của bà càng lúc càng rõ ràng, hai mắt càng lúc càng mở to. Nhưng từ đầu đến cuối bà chỉ lặp đi lặp lại hai chữ: Nhiêm nhi.

Dương Chính Đạo thấy ánh mắt đục ngầu của bà dán chặt vào một nơi nào đó, dường như mang nỗi ân hận và không cam tâm vô hạn, vội ngoảnh đầu gọi: “Kỳ muội!”

Kỳ Úc hiểu ý, nhanh chóng bước lên, dịu dàng nói nhỏ: “Con là Nhiêm Nhi, con gái Nhiêm nhi của mẹ đây…”

Tiêu thị rốt cuộc đã dần bình tĩnh lại, chật vật ngoảnh đầu sang, săm soi nhìn khuôn mặt Kỳ Úc, khóe miệng dần hé nở một nụ cười an nhiên. Cuối cùng, bà nói ngắt quãng được hai câu hoàn chỉnh: “Con… con đừng sợ. Mẹ sẽ… sẽ luôn… luôn mang con theo bên mình.”

Lý Khác ở bên cạnh lại nói: “Ngoại yên tâm, mẹ sẽ mãi mãi ở bên cạnh người. Con và Kỳ nhi, huynh và Tuyết Lộ cũng vậy.”

Bên ngoài gió thu thổi qua, lá trúc xào xạc. Mưa nhỏ rả rích tuôn rơi, thoắt chốc lại biến thành một trận to như trút nước. Tiêu thị từ từ nhắm mắt, muốn trả lời Lý Khác, nhưng không sao nói ra được. Một canh giờ sau, bà trút hơi thở cuối cùng.

Vị công chúa nước Lương hồi trẻ nghiêng nước nghiêng thành này, do cơ duyên xảo hợp, được gả làm vợ Tấn vương Dương Quảng của triều Tùy bấy giờ. Đêm động phòng, công chúa xinh đẹp và Tấn vương trẻ tuổi vừa gặp nhau đã xiêu lòng. Không lâu sau đó, họ có con cả là Dương Chiêu, một năm nữa, lại có thêm con thứ là Dương Giản. Tình cảm giữa hai người vô cùng tốt đẹp, rất được mọi người ngưỡng mộ.

Sau đó, Dương Quảng nói với bà, ông muốn tranh ngôi thái tử. Bà nói, được, thiếp sẽ giúp chàng. Thế là, ông chém giết trong vòng xoáy quyền lực trước triều, bà vì ông mà lấy lòng mẹ chồng, thu xếp ổn thỏa trên dưới hậu cung. Họ phối hợp vô cùng ăn ý. Cho nên, họ đã thắng. Rồi một ngày, ông lên ngôi hoàng đế, bà trở thành hoàng hậu.

Ông lấy niên hiệu là “Đại Nghiệp”, lập chí muốn hoàn thành nghiệp lớn vượt qua Nghiêu Thuấn. Nhưng mà, muôn dặm non sông nhà Tùy cuối cùng đã hao mòn trước những ý tưởng kỳ diệu vượt quá thời đại và sức chịu đựng của nhân dân. Gió đầu xuân ở Giang Đô trong trẻo nhưng lạnh lẽo. Mệnh trời không phù hộ, thân chết chốn tha hương. Hài cốt của ông bị vùi trong cây cỏ. Tiêu thị vốn định chết theo ông, nhưng Tề vương phi được cứu ra từ trong lửa lớn lại khóc lóc nói với bà rằng mình đã mang thai hai tháng. Đứa bé chưa ra đời, cháu của bà, giọt máu hương hỏa cuối cùng của nhà họ Dương này đã cứu bà một mạng. Bà quyết định sống tiếp, dù khó khăn khốn khổ cũng phải sống tiếp.

Nghĩa Thành công chúa đón bọn họ sang Đột Quyết, nhưng không cho bà và Dương Chính Đạo gặp nhau. Bà ta nói, Tùy vương đã có em đích thân dạy dỗ, xin chị dâu chớ bận lòng. Mãi đến nhiều năm sau, bà mới nhìn thấy Dương Chính Đạo đã mười ba tuổi ở bên cạnh thi thể Nghĩa Thành công chúa. Bà chạy tới, ôm chặt cậu vào lòng. Cậu lại giơ tay đẩy bà ra, nép vào sau lưng Giang Hạ vương hỏi, bà là ai?

Nhưng rốt cuộc vẫn là máu mủ ruột rà. Sau khi về Trường An, Dương Chính Đạo thường đến thăm bà. Ban đầu chỉ có một mình, về sau đưa cả Lý Khác đi cùng. Mà bà lại luôn dửng dưng với họ, thậm chí có lúc còn tránh mặt họ. Bà biết đương kim thiên tử bụng dạ rộng lượng, lại có tình cảm với Dương Nhiêm, tất nhiên sẽ không để ý việc họ thường qua lại, nhưng bà vẫn không muốn gặp họ, cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, vẫn không muốn.

“A Nặc!” Tuyết Lộ quay người lau nước mắt, lại thấy A Nặc đang cầm con dao nhỏ trên bàn lên, rạch mạnh một nhát vào mạch máu mình, trong khoảnh khắc đã không còn hơi thở.

Lý Thế Dân xưa nay rất kính trọng lễ phép với vị quốc mẫu tiền triều họ Tiêu này, huống hồ bà ấy là thím họ ngoại, lại còn là mẹ vợ của ông. Vì vậy Lý Thế Dân thực sự buồn về cái chết của bà, ngày thứ hai sau khi Tiêu thị qua đời, ông hạ chỉ bỏ buổi chầu để tỏ lòng thương tiếc. Đợi quàn linh cữu trăm ngày xong, sẽ chuyển quan quách đến Dương Châu, hợp táng cùng chồng bà.

Hôm đó, Lý Khác chậm rãi bước đến linh đường, giơ tay gạt phướn trắng trước mặt, cúi xuống khoác chiếc áo lông cáo bạc trong tay lên người Dương Chính Đạo. Dương Chính Đạo nắm chặt chiếc áo, ngẩng đầu nhìn y: “Không phải đã bảo đệ đừng đến sao?”

Lý Khác thấy mắt gã đỏ au là biết mấy ngày mấy đêm rồi gã chưa chợp mắt, liền mỉm cười: “Đến cũng đến rồi, huynh bảo ta về được ư?”

Dương Chính Đạo rắc thêm mấy cọng rơm vào trong chậu lửa, giọng nói lộ rõ vẻ mệt mỏi: “Vậy thì cùng trò chuyện với ta.”

“Huynh vào trong nằm nghỉ một lát đi. Ở đây ta trông cho.”

“Đệ không ở đây ta còn chẳng buồn ngủ. Đệ đến rồi, ta lại càng không muốn ngủ.”

Lý Khác bước đến trước linh cữu, thắp ba nén hương, quỳ gối vái ba vái rồi cắm vào trong lư hương. Đúng lúc này, ba nén hương bị gãy gần như cùng lúc. Một nén hương gãy mang theo tàn lửa tình cờ rơi đúng mu bàn tay y. Tim y bỗng đập dữ dội, tựa hồ có một dự cảm chẳng lành khó mà diễn tả đột ngột trào dâng.

Dương Chính Đạo thấy y không nói gì, không kìm được hỏi: “Sao thế?”

“Không sao.” Lý Khác ngồi xuống cạnh gã, thản nhiên nói, “Trên buổi đại triều hôm nay, Lai Tế nói, huynh đã phải để tang, phủ Ung Châu lại không thể không có người chủ quản, hy vọng bệ hạ chọn người kế nhiệm càng sớm càng tốt.”

Dương Chính Đạo nhìn ngọn lửa từ từ thiêu rụi cọng rơm thành tro: “Ông ta nói không sai. Bà nội qua đời, tất nhiên ta phải để tang hai mươi bảy tháng.”

“Nhưng bệ hạ không đồng ý.” Lý Khác nói, “Ông ấy bảo, huynh là Ung Châu mục mà ông ấy hài lòng nhất. Chỉ cần qua ba tháng, đợi an táng bà ngoại ở Dương Châu xong, sẽ tái bổ nhiệm huynh, cho phép huynh mặc áo trắng làm việc, không cần tham gia bất cứ tiệc mừng nào trong cung.”

Đoạt tình khởi phục [*] .

Đây đúng là ân điển và vinh quang không gì lớn bằng. Dương Chính Đạo vội hỏi: “Đệ không lên tiếng phụ họa theo bệ hạ chứ?”

“Không. Ta là người đầu tiên phản đối. Về trung về hiếu, về công về… tư.”

Dương Chính Đạo khẽ thở phào: “Sau đó thì sao?”

“Sau đó, Liễu Phạm cũng lên tiếng phản đối, nói thông thường chỉ trong thời chiến mới phá lệ cho võ tướng. Kết quả là bệ hạ cũng chỉ bảo sẽ suy nghĩ thêm, chứ chưa thu hồi mệnh lệnh.” Lý Khác nói đến đây, bất giác đổi giọng, như đang thì thầm tự nói, “Sao ông ấy đối tốt với huynh như vậy nhỉ?”

“Còn không phải vì đệ..” Dương Chính Đạo khẽ than một câu rồi lại hỏi, “Mấy hôm nay Tiêu Nhuệ làm gì vậy? Cô ruột qua đời, y lại chẳng đặt chân đến dù chỉ một bước.”

[*] - Là một quy chế cổ của Trung Quốc, nghĩa là vì quốc gia mà đoạt đi tình hiếu thảo với người thân, chỉ việc quan lại có tang nhưng không cần từ chức, được mặc áo trắng làm việc, không tham gia các lễ hội tiệc tùng.

“Bệnh của ông cậu lại nặng hơn nhiều, chắc y không rời xa được.” Lý Khác ngay lập tức thanh minh cho Tiêu Nhuệ, “Huynh đừng trách y.”

“Năm xưa, đệ nói chắc như đinh đóng cột rằng không nhận ông cậu nữa. Nhưng những ngày ông ấy lâm bệnh, đệ vẫn không bớt đi thăm. Trái tim đệ vốn không lạnh lùng cứng rắn nổi. Thật không biết điều này là tốt hay xấu nữa.”

Khóe miệng Lý Khác bất giác nhếch lên một nụ cười chua chát: “Xưa nay ta luôn đi lại thân gần với ông ấy. Nếu ông ấy bệnh tật như thế mà ta còn không quan tâm thì bệ hạ sẽ nghĩ thế nào? Ta không thể nói cho bệ hạ biết sự tình năm xưa được.”

Dương Chính Đạo lắc đầu: “Đệ cho rằng với sự anh minh của mình, bao nhiêu năm qua, bệ hạ thật sự không cảm nhận được chút gì sao? Chẳng qua đệ đang tìm lý do cho sự mềm lòng của mình thôi.”

“Đâu có mềm lòng, chỉ là thương hại…”

“Thương hại?” Trong mắt Dương Chính Đạo ẩn chứa một vẻ mất mát như có như không. Gã nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng vẫn lấy ra mấy bức thư cất trong tay áo, đặt vào tay Lý Khác: “Ta biết sự thương hại của đệ. Cho nên, ta đã găm lại những bức thư này ở chỗ mình từ lâu. Nếu cần thì chúng chính là hy vọng cuối cùng của đệ. Nếu không cần thì đệ cũng có thể hủy hết chúng đi.”

Lý Khác không biết ý của gã là gì, tiện tay mở ra một bức. Y chưa từng nghĩ, nét chữ quen thuộc này lại viết ra những câu khiến mình vô cùng kinh ngạc:

Trông ngọc đẹp, trăng như móc câu. Điện Càn Nguyên quanh quẩn, dưới song Tây buồn rầu. Dung nhan nàng ta thích, mong nàng thương tình sâu. Chỉ gặp không thể cầu, tương tư gửi nơi đâu?

Nhớ lần đầu gặp, gió mát trăng thanh, áo tiên sương đêm đọng. Trong khóm hoa thơm, đào nhuộm khuôn mặt hồng. Nhớ lúc cười, rạng như mẫu đơn nở, sáng tựa ánh trăng ngà. Đôi môi thắm hé mở, lòng theo nàng đi xa. Nhớ lúc buồn, cau mày liễu tô nhạt, tay mềm vuốt tóc dài. Thềm ngọc đứng một mình, lụa đỏ rơi ngắm mãi.

Đêm đêm than thở khó ngủ yên, sâu thẳm hồn mơ cũng giống nàng. Lệ như tơ, lau chẳng nỡ. Tay cầm ngọc tía thử thổi âm, mong tiếng tiêu trong đến bên nàng. Sớm mai gặp mặt đừng từ chối, đời này yêu thương, chỉ mong nàng an lành.

Đêm trăng rằm Trị gửi nỗi nhớ đến Mỵ Nương.

Lý Khác day mạnh huyệt thái dương, mới miễn cưỡng làm tâm trạng mình dịu lại một chút. Y ngước mắt nhìn Dương Chính Đạo, biết rồi vẫn hỏi: “Đây là cái gì?”

Dương Chính Đạo cũng chăm chú nhìn y, nắm chiếc áo lông cáo bạc trên người chặt hơn: “Việc tốt mà em trai của đệ làm đấy! Đệ nói xem, nếu trình những thứ này đến trước mặt bệ hạ, để ông ấy biết người kế vị mà ông ấy sủng ái tín nhiệm, còn vứt bỏ cả đệ để chọn đó, lại lén lút ôm mối tình loạn luân với phi tần của cha, thì có thể chấn động trong triều ngoài nội hơn cả tư tình giữa Cao Dương công chúa và Biện Cơ hòa thượng không?”

“Bọn họ..” Lý Khác đứng phắt dậy, do quá gấp nên cảnh vật trước mắt bất giác nhòe đi trong thoáng chốc, hồi lâu, y mới bật ra khỏi miệng mấy chữ, “To gan quá thể!”

Trên mặt Dương Chính Đạo hiện ra một nét cười nhàn nhạt gần như không thể trông thấy: “Chắc bọn chúng quen nhau từ ba bốn tháng trước, lúc bệ hạ nằm bệnh. Cha đau ốm, con lại mang tâm địa bẩn thỉu như vậy, đúng là cái gan mà người bình thường không thể có được!”

Lý Khác mở hết mấy bức thư khác ra xem. Chỉ thấy bên trong phần lớn là những lời ái mộ tương tư, có cái đã vô cùng lộ liễu. Lý Khác siết chặt hai tay hỏi: “Sao huynh lấy được chúng?”

“Hóa ra đệ lại để ý đến điều này đầu tiên.” Dương Chính Đạo trầm giọng, “Võ tài nhân sai đại cung nữ A Vãn bên cạnh mình giao chúng cho ta. Cô ta nói, thái tử quả thực đã tỏ tình mấy lần, lời lẽ táo bạo, khác hoàn toàn vẻ cẩn thận dè dặt thường ngày.”

Lý Khác lạnh lùng nói: “Ta thật muốn nhìn xem, nếu Trưởng Tôn Vô Kỵ biết đứa cháu họ ngoại bảo bối mà lão luôn bảo vệ lại bị nữ sắc mê hoặc thành ra thế này, lão sẽ có biểu cảm gì.”

“Vậy đệ muốn thế nào? Một khi Lý Trị bị phế, đệ chính là thái tử không bàn cãi vào đâu được. Không ai phản đối, và cũng không ai dám phản đối.”

Lý Khác ngồi quỳ xuống đất, bỏ những cọng rơm mà y đã nắm một lúc lâu vào trong chậu lửa. Đột nhiên, một cảm giác chua xót khó tả từ từ ứa ra trong lồng ngực y: “Không có cái ‘một khi đó… Nếu bệ hạ biết, ông ấy sẽ xử tử Võ tài nhân không chút do dự. Thái tử, vĩnh viễn là thái tử.”

“Nhưng ông ấy từng nói, đệ mới là thái tử trong lòng ông ấy.”

“Phải, ông ấy có nói vậy. Nhưng ông ấy và ta đã bỏ lỡ cơ hội tốt nhất rồi. Bây giờ, chỉ cần Lý Trị không phạm phải tội mưu phản, bệ hạ sẽ không động đến y. Biểu huynh, trái tim ông ấy mệt rồi, ta cũng thế.”

Dường như Dương Chính Đạo đã sớm đoán được y sẽ nói như vậy. Gã cụp mắt nhìn những cái bóng loang lổ mà ánh nến rọi xuống đất, giọng hơi khàn: “Tuy không phải là cơ hội tốt nhất, nhưng không phải là không có cơ hội. Ta biết, đệ vì bệ hạ, càng vì sự yên ổn trong triều ngoài nội nên mới vậy. Nền móng ngôi kế vị mà lung lay, lòng người ắt sẽ không yên. Huống hồ, trước đây đã xảy ra một lần rồi.”

“Biểu huynh, tâm tư của ta, xưa nay huynh đều hiểu.” Nói rồi Lý Khác xé vụn những bức thư trong tay, nhìn ngọn lửa bốc lên từ từ thiêu chúng thành tro, “Bảo A Vãn chuyển lời cho Võ tài nhân, chăm sóc bệ hạ cho tốt, tránh xa thái tử một chút.”

Dương Chính Đạo ngồi rất gần chậu lửa, má bên phải hơi nóng rát. Gã nhìn ngọn lửa bùng lên rồi dần tàn lụi, bên tai bỗng văng vẳng những lời người đàn bà đó nói với gã bằng giọng điệu nửa như ra lệnh, nửa như nguyền rủa vào ngày đông trời băng đất tuyết ấy: “Làm tất cả những gì cháu có thể để giúp nó thành công! Nếu vẫn không được thì cả hai đều sẽ chết! Trừ phi cháu sẵn sàng dùng tính mạng để bảo vệ nó, hoặc nó sẵn sàng dùng tính mạng để bảo vệ cháu.”

“Đệ có bằng lòng không?” Dương Chính Đạo hỏi như thể ma sai quỷ khiến.

“Gì cơ?”

Dương Chính Đạo cười nhẹ: “Kiếp sau, chúng ta làm anh em ruột.”

Tuy Lý Khác không rõ tại sao gã lại thốt ra câu nói mơ hồ này, nhưng vẫn gật đầu rất nghiêm túc, tựa hồ hứa một lời sẽ không bao giờ thay đổi: “Được. Chỉ là đừng sinh vào nhà đế vương nữa. Chúng ta chỉ làm hai ông nông dân bình thường. Sớm từ biệt người thân, chiều lại về đoàn tụ. Chơi với con trước giường, ngắm vợ ngồi dệt lụa. ”

“Sớm từ biệt người thân, chiều lại về đoàn tụ. Chơi với con trước giường, ngắm vợ ngồi dệt lụa.” Dương Chính Đạo lặp lại bốn câu thơ này, ngơ ngẩn thẫn thờ. Rõ ràng là những câu thơ ấm áp, nhưng lại giống một cây kim nhọn đâm mạnh vào trái tim gã. Rất lâu sau, gã mới ngây người nói: “Trong mười tám bài Nghĩ hành lộ nan của Bào Chiếu, ta cũng thích bốn câu này nhất. Đáng tiếc kết cục của ông ấy lại quá bị thảm [*] …”

Lý Khác vội cắt ngang lời gã: “Thời loạn xương khô, người gặp cảnh bi thảm há chỉ có một mình Bào Chiếu? May mà chúng ta sẽ không như thế.”

Y vẫn muốn nói tiếp, nhưng lại thấy Đỗ Húc rảo bước đi vào. Sự lỗ mãng và hấp tấp của Đỗ Húc cuối cùng cũng được dòng chảy thời gian dần dần mài nhẵn, hắn cúi người vái: “Điện hạ, công tử, bệ hạ giá đáo.

Dương Chính Đạo đứng dậy, cởi chiếc áo choàng lông cáo và bộ áo tang bằng vải gai trên người ra, cầm áo khoác màu trắng trên chiếc bàn bên cạnh lên mặc. Đi được hai bước, gã lại ngoảnh đầu nói: “Đệ không đi cùng à?”

[*] - Bào Chiếu (414-466) là nhà thơ nổi tiếng thời Nam Bắc triều, ông bị loạn quân giết chết.

Bấy giờ Lý Khác mới sực tỉnh: “Đi thôi.”

Lúc hai người đến chính đường, Lý Thế Dân đã ngồi bên trong. Ông nhìn Lý Khác: “Sao con cũng ở đây?” Lý Khác đang định mở miệng, lại nghe thấy Lý Thế Dân nói tiếp, “Con về trước đi.”

“Cha, con vừa mới tới, còn chưa nói chuyện xong với biểu huynh mà...”

“Đâu ra nhiều chuyện phải nói như thế?” Lý Thế Dân đưa mắt ra hiệu với Trần Cần, Trần Cần lập tức hiểu ý tiến lại gần một bước đợi sai bảo, “Đưa Ngô vương về phủ đi.”

Lý Khác vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng thấy Dương Chính Đạo khẽ gật đầu với mình, đành cúi người cáo lui.

Lúc này, trong chính đường chỉ còn lại Lý Thế Dân và Dương Chính Đạo. Lý Thế Dân cứ nhìn gã mãi, nhưng trước sau không nói lời nào. Hồi lâu, Dương Chính Đạo mới ngẩng đầu, gọi một tiếng: “Bệ hạ.”

Lý Thế Dân thở dài: “Chính nhi, ta là dượng của cháu. Những lời ta sắp nói sau đây, cháu phải nghe cho kỹ.”

Dương Chính Đạo sững sờ. Những năm qua, tuy Lý Thế Dân luôn rất quý trọng gã, nhưng chưa bao giờ dùng giọng điệu như vậy, cách xưng hô như vậy để gọi gã. Thế nên gã không kìm được ngẩng đầu lên, vừa khéo chạm phải ánh mắt ấm áp của ông. Gã vội vàng cụp mắt, kính cẩn nói: “Lời của bệ hạ, thần nhất định khắc ghi trong lòng.”

Lý Thế Dân gật đầu, đặt chiếc chén cầm trong tay nãy giờ xuống. Ông suy nghĩ một lúc, rồi vẫn thẳng thắn nói: “Ta muốn sau này cháu toàn tâm toàn ý phò tá thái tử.”

“Không…” Dương Chính Đạo buột miệng, song ngay lập tức nhận ra, từ chối không cần suy nghĩ thế này quá là không nể mặt hoàng đế. Thế là gã cuống quýt quỳ gối xuống, giọng nói có phần run rẩy: “Thần đội ơn bệ hạ hết mực yêu thương. Chỉ là thần tài hèn học mọn, sợ rằng không giúp nổi thái tử.”

Lý Thế Dân có lẽ sớm biết gã sẽ nói như vậy, cũng chẳng tức giận, vẫn nhẹ nhàng nói: “Đâu phải bảo một mình cháu giúp. Trưởng Tôn Vô Kỵ và Chử Toại Lương là trung thần ta để lại cho thái tử, nếu Mã Chu có phúc sống được đến ngày thái tử lên ngôi, ông ta cũng tính là một trong số đó.”

Dương Chính Đạo chỉ cảm thấy da đầu ngứa ran, thực sự không hiểu tại sao ông ấy lại phải đuổi Lý Khác đi để nói riêng với gã những lời này. Vì Lý Khác, gã đã đắc tội với toàn bộ đám người này, bao gồm cả thái tử. Bây giờ, đừng nói là gã không đồng ý, dù gã đồng ý, sợ rằng bọn họ cũng không dung nổi gã.

“Bệ hạ đã sắp xếp cho thái tử ổn thỏa nhất có thể rồi. Huống hồ, người đang tuổi dồi dào, không cần vội nghĩ đến..” Dương Chính Đạo thoáng khựng lại, rồi tiếp tục nói, “… hậu sự như thế.”

“Trẫm không thể không nghĩ.” Lý Thế Dân nghiêm khắc, “Trẫm bảo ngươi làm sao thì ngươi làm vậy, ngươi không có quyền nói ‘không!”

“Nhưng ngay từ đầu người đã nói, người là dượng của thần.” Dương Chính Đạo đánh bạo nói, “Chắc trong lòng người hiểu rõ, thần không thể đi làm việc giúp thái tử. Người hà tất phải làm khó thần?”

Lý Thế Dân vỗ mạnh lên bàn một cái, giận dữ nói: “Dương Chính Đạo, trẫm đang bảo vệ ngươi, cũng là bảo vệ nó! Sao ngươi lại không biết tốt xấu như vậy?”

Dương Chính Đạo chỉ cảm thấy có thứ gì đó nổ tung trong đầu, người mềm nhũn, suýt nữa ngã oặt ra đất. Mãi sau gã mới gượng chống đỡ thân thể, thì thào nói: “Thái tử… sẽ không tin thần.”

“Vậy thì ngươi hãy làm cho nó tin!” Lý Thế Dân gằn giọng, “Cho dù phải bán sai lầm của Lý Khác cho thái tử, ngươi cũng phải làm cho nó tin ngươi. Trẫm không tin ngay cả bản lĩnh này ngươi cũng không có.”

“Không. Thần không thể.” Dương Chính Đạo chỉ cảm thấy đau nhức nơi cổ tay. Trong khoảnh khắc này, gã gần như muốn bịt tai lại, quay người chạy trốn khỏi đây. Nhưng ngay sau đó, gã lại trấn tĩnh tinh thần nói: “Thần không thể có lỗi với Ngô vương, cũng không thể có lỗi với lòng mình. Bệ hạ, thần hiểu ý của người. Người không thể lập Ngô vương làm người kế vị, cũng không thể bảo vệ Ngô vương cả đời. Cho nên người chỉ còn cách cắt bỏ vây cánh của Ngô vương. Không, cắt thôi vẫn chưa đủ, còn phải đem nó cho người khác dùng. Chỉ là, thần… thần thật sự không làm nổi những việc như vậy.”

Lý Thế Dân nhíu mày càng lúc càng chặt. Hôm nay ông tới đây, chỉ vì muốn một câu trả lời khẳng định của Dương Chính Đạo. Nếu gã không thể cam tâm tình nguyện làm phụ tá cho thái tử, thì dẫu sau này ông hạ chỉ, kết quả cũng sẽ là phản tác dụng. Nhưng giờ trong bộ dạng của gã, e là nói thế nào cũng không thông nổi. Một kẻ cố chấp đến mức không sợ chết mới là đáng sợ nhất.

Nghĩ đến đây, Lý Thế Dân lắc đầu bất lực, thở dài: “Đứng dậy đi. Nếu ngươi thật sự không muốn thì thôi vậy. Chuyện hôm nay, đừng nhắc đến trước mặt Lý Khác.”

“Vâng. Thần sẽ ngậm miệng không nói.” Dương Chính Đạo chậm rãi đứng lên, như thể vừa từ địa ngục trở về nhân gian. Gã thở phào, trái tim đập dữ dội cuối cùng đã dần bình tĩnh trở lại.

“Chính nhi, thứ cháu vừa từ chối không phải là ý chỉ của trẫm, mà là con đường sống khả dĩ duy nhất của cháu. Lý Thế Dân lại xót xa thở dài một tiếng, “Trước mặt quyền lực to lớn tuyệt đối, tất cả mưu trí của cháu đều không có đất dụng võ. Cháu đừng gửi gắm hy vọng vào Lý Khác. Đến lúc đó thật, nó chẳng có sức để bảo toàn cho cháu đâu. Trẫm cũng không có cách nào phòng xa chu đáo, vì dù thái tử muốn động đến cháu thì cũng không trách được. Những chuyện cháu từng làm, muốn người ta không nổi sát tâm cũng khó!”

Dương Chính Đạo hơi nhếch môi, cười bình thản như gió thoảng mây thưa: “Cháu hiểu cả. Đa tạ… dượng.”

“Năm xưa, khi Nhiêm Nhi biết trên đời vẫn còn có cháu, nàng đã rất vui. Ngay cả lúc sinh Lý Khác, nàng cũng không vui như vậy. Nàng nói, ông trời có mắt, nhị ca cuối cùng có thể nhắm mắt được rồi. Ta đã hứa với nàng, một ngày nào đó, Đại Đường sẽ khiến Đột Quyết cúi đầu xưng thần, đưa các người trở về Trường An.”

Bên ngoài gió rít mạnh dần, thổi lá phong khua xào xạc, gần như át mất giọng nói của Dương Chính Đạo: “Bà nội chưa bao giờ nhắc về cha với cháu. Bệ hạ, người từng gặp cha cháu rồi sao? Rốt cuộc ông ấy là người như thế nào?”

Lý Thế Dân thấy một thứ ánh sáng rực rỡ nhấp nháy trong mắt gã, bèn nói: “Gặp rồi. Y và cháu rất giống nhau. Đặc biệt là đôi mắt, gần như y hệt.”

“Những cái khác… thì thế nào ạ?”

“Y xuất khẩu thành thơ, hạ bút như thần, khá có tài hoa.”

Dương Chính Đạo khẽ bặm môi, tiếp tục gặng hỏi: “Còn gì nữa không ạ?”

“Còn có.” Lý Thế Dân gõ nhẹ vào đôi chân đã hơi tế mỏi, nghĩ một lát rồi nói, “Cháu biết tại sao suốt mười hai năm đằng đẵng sau khi Dương Chiêu lâm bệnh qua đời, cha cháu lại không được lập làm người kế vị không?”

Dương Chính Đạo có vẻ rất khó mở miệng nói ra câu này, nhưng cuối cùng vẫn lên tiếng: “Cháu từng nghe người kể chuyện trong phường nói rằng, phẩm hạnh của cha thiếu sót, nên không được lòng ông nội cho lắm.”

“Người kể chuyện cũng chỉ nghe hơi nồi chõ rồi cho là thật thôi. Lý Thế Dân lắc đầu, “Dương Giản mừng giận đều lộ ra ngoài, cách đối nhân xử thế đúng là vô cùng cao ngạo phô trương. Y sẽ làm những người mình nhìn không thuận mắt phải bẽ mặt ngay tại chỗ, không để lại một chút đường lùi cho mình. Tính cách như vậy, không hợp làm quân vương, nhưng y lại thực sự có hiểu biết, có tài hoa. Vì vậy, dù ông nội cháu không lập y làm người kế vị, nhưng cũng chưa từng nghĩ đến người khác.”

Lý Thế Dân thấy Dương Chính Đạo vẫn tỏ vẻ khó hiểu, liền nói tiếp: “Suốt bao nhiêu năm Dương Quảng luôn lạnh lùng với y, chẳng qua là để gọt giũa tâm tính của y. Sau khi toàn bộ góc cạnh đều được mài nhẵn, y chính là người kế vị không có gì phải bàn cãi. Nhưng y chưa bao giờ hiểu nỗi khổ tâm đó, chỉ một mực làm theo ý mình. Cho nên cuối cùng, hai cha con nghi kỵ nhau, đến chết vẫn chưa giải quyết được hiểu lầm.”

Trong lòng Dương Chính Đạo bất giác trào lên một cơn thổn thức, sau đó gã lại hỏi: “Nhưng sao bệ hạ có thể nhìn rõ tâm tư của ông nội như vậy?”

“Vì trẫm đã từng có cùng suy nghĩ với ông ấy.”

Dương Chính Đạo sực hiểu: “Nhưng cuối cùng bệ hạ có phúc hơn ông ấy nhiều.”

Lý Thế Dân không nhận xét gì. Có phúc hay không chỉ như người ta uống nước, lạnh ấm tự biết mà thôi. Ông đứng dậy, bất chợt cảm thấy chóng mặt. Dương Chính Đạo vội bước tới đỡ ông ngồi xuống. Thấy môi ông hơi tái, gã vội vàng đặt tay lên mạch ông. Rất lâu sau gã mới run giọng: “Bệ hạ, thân thể của người đã… đã...”

Lý Thế Dân nhìn vẻ mặt luống cuống của gã, nói thản nhiên như không: “Trẫm còn bao nhiêu ngày nữa, ngoài Vương Thọ Đức ra, cũng chỉ có cháu biết.”

Dương Chính Đạo lại quỳ xuống đất, nói năng có phần lộn xộn: “Không, có lẽ… có lẽ thật sự không tệ đến thế. Thần sẽ nghĩ cách… Vương thái y… ông ấy nhất định có cách.”

“Sống chết có số.” Lý Thế Dân giơ tay vỗ vai gã, “Trẫm không ngu xuẩn giống Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, cho rằng trên đời này thật sự có tiên đan trường sinh bất lão. Thời trẻ trẫm chém giết quá nhiều, có thể chết an lành đã là ân đức lớn không gì bằng của ông trời rồi. Những cái khác, trẫm không cần.”

“Trần công công, bệ hạ có chuyện gì muốn nói với Dương công tử vậy?” Dọc đường, Lý Khác đã hỏi Trần Cần ba lần cùng một câu hỏi.

Lần nào Trần Cần cũng chỉ cung kính và nhẫn nại trả lời y một câu: “Điện hạ, nô tài thật sự không biết.”

Lý Khác buông mạnh rèm xuống, cầm ấm trà trên chiếc bàn thấp trong xe ngựa lên, kê miệng vào vòi uống cạn nước trà bên trong. Y cúi đầu, thấy trên ngón tay dính chút tro đen, trong lòng trào dâng tạp niệm rối bời. Xe ngựa chạy chậm và êm. Đầu đường cuối ngõ ồn ào náo nhiệt. Tâm trạng của y dần bị sự huyên náo đó thổi tan, đến khi định thần, y lại quên mất vừa nãy mình đã nghĩ những gì.

“Điện hạ, đến vương phủ rồi.” Trần Cần ghìm cương ngựa, ngoảnh đầu thông báo.

Lý Khác nói “biết rồi”, sau đó xuống xe. Lúc này, bầu trời đã tối sầm, thấy lại có một trận mưa to như trút nước sắp đổ xuống, y khép chặt vạt áo, tạm biệt Trần Cần rồi bước đi.

Hai tiểu nha hoàn chuyên làm việc nặng đang cầm cây chổi lớn cao bằng bọn họ quét dọn lá phong rụng đầy đất. Hai người trông thấy Lý Khác, liền dựng chổi ở góc tường, chắp tay nhún mình chào: “Điện hạ”

Lý Khác hững hờ xua tay: “Đừng quét nữa, lui xuống đi.”

Một tiểu nha hoàn có lông mày lá liễu, mắt đan phượng tiến lên một bước, rụt rè nói: “Nhưng mà trước khi đi, Tiểu La tỉ tỉ dặn chúng nô tì nhất định phải quét sạch chỗ này. Nếu không thì chúng nô tì sẽ bị phạt…”

“Cô ta mà hỏi, các ngươi cứ nói là ta bảo thế. Lá phong khắp chốn rụng bời bời, cũng rất đẹp mắt” Lý Khác bước hai bước, lại ngoảnh đầu hỏi, “Tiểu La đi đâu rồi?”

Tiểu nha hoàn vừa mới nói đó trả lời: “Tiểu La tỉ tỉ và Hà Bội tỉ tỉ theo vương phi đến phủ Tiêu công rồi ạ. Người của Tiêu phủ nói, Tiêu công có lẽ sắp không xong rồi.”

Tại sảnh ngoài Cảnh An uyển của Tiêu phủ, đã có mấy người phụ nữ đang khóc rưng rức. Phu nhân nguyên phối của Tiêu Vũ mất sớm, trong phủ chỉ có mấy bà thiếp, hơn nữa đa số cũng đã ngoài năm mươi. Đối với nữ sắc, từ hồi trẻ Tiêu Vũ đã rất xem nhẹ.

Bây giờ Tiêu Vũ đã gầy trơ xương, hai mắt tuy mở to nhưng không chút sinh khí. Cả người chỉ tỏa ra duy nhất một mùi đáng sợ đến từ cái chết. Ông há miệng, nói một cách rất khó khăn: “Kỳ nhi, Ngô vương đâu rồi?”

Kỳ Úc nhìn Tiêu Nhuệ, thấy Tiêu Nhuệ nhìn mình bằng ánh mắt gần như là cầu khẩn, cũng chỉ ngồi xổm xuống, dịu dàng nói bên tai Tiêu Vũ: “Ông chú đừng lo, chàng tới ngay bây giờ…”

Tối qua sau khi từ trong cung trở về, bệnh tình của Tiêu Vũ đã xấu đi nhanh chóng. Sáng nay lúc thái y tới, ông đã hấp hối. Đến trưa đột nhiên hồi lại chút tinh thần, nhưng chỉ mở miệng nói là muốn gặp Ngô vương. Tuy Tiêu Nhuệ cục mịch, nhưng cũng có thể cảm nhận được sự xa cách của Lý Khác với Tiêu Vũ, thậm chí với cả gã trong mấy năm nay. Gã từng bóng gió hỏi Tiêu Vũ chuyện gì đang xảy ra, Tiêu Vũ lại chỉ nói rằng, Ngô vương có thân phận tôn quý, vốn nên như vậy. Nhưng đã vậy thì tại sao đến lúc này, ông ấy vẫn khăng khăng phải gặp Ngô vương bằng được?

Tiêu Nhuệ nghe thấy tiếng trẻ con thút thít ở đằng sau, vội quay người gọi Thủ Quy tới. Thủ Quy mới tám tuổi nhưng hiểu chuyện như người lớn. Cậu nắm lấy bàn tay gầy như que củi của Tiêu Vũ, gọi liên tục: “Ông ơi, ông ơi…”

Tiêu Vũ gắng gượng nặn ra một nụ cười, muốn nắm tay Thủ Quy nhưng không sao nắm nổi. Thủ Quy vẫn cứ kêu gào: “Ông ơi, ông không cần Thủ Quy nữa sao? Ông dậy dạy Thủ Quy đọc sách được không ông?”

Tương Thành công chúa thấy con khóc suýt nghẹt thở, vội cúi người ôm cậu vào lòng an ủi: “Thủ Quy đừng khóc. Ông chỉ mệt quá mà thôi, muốn ngủ ngon một giấc.”

Tiêu Nhuệ thấy vậy, liền kéo Kỳ Úc sang một bên, khẽ hỏi: “Rốt cuộc bao giờ Ngô vương mới tới? Cha rõ ràng là đang hồi quang phản chiếu, muộn hơn sợ rằng không kịp.”

“Chàng và biểu huynh đang túc trực bên linh cữu. Cháu đã sai người đi gọi rồi, chỉ là vừa đi vừa về, chắc phải mất hai, ba canh giờ. Hơn nữa… hơn nữa…”

“Rốt cuộc các người có chuyện gì vậy?” Tiêu Nhuệ thấy nàng muốn nói lại thôi, liền trầm giọng, “Y toàn nói lảng tránh, cháu cũng vậy. Có điều gì không thể tự nhiên dõng dạc nói ra hay sao?”

Phải nói thế nào đây? Kỳ Úc thở dài tận đáy lòng. Trong chuyện này có biết bao uẩn khúc không biết phải làm sao, há có thể nói rõ trong một hai câu ngắn ngủi? Những người bị cuốn vào trong như bọn họ đã không chạy thoát nổi, nhưng Tiêu Nhuệ và Tương Thành công chúa thì vẫn còn cơ hội, có thể tránh xa thì cứ tránh xa. Kỳ Úc đang định nói là chú quá nhạy cảm, bọn cháu chưa bao giờ thay đổi, thì lại nghe thấy mấy bà thiếp và thị tì sảnh ngoài đồng thanh hô: “Ngô vương điện hạ.”

Nét căng thẳng ngờ vực trên mặt Tiêu Nhuệ cuối cùng cũng biến mất, gã liền rảo bước quay trở lại. Lý Khác vừa đặt chân qua bậc cửa, Tiêu Nhuệ đã kéo tay áo y đi vào trong: “May mà tam đệ đã tới. Nhanh lên, cha có lời muốn nói với tam đệ.”

Lý Khác trông thấy bộ dạng cuống cuồng nóng ruột của gã, sau một thoáng đờ đẫn, vẫn theo gã bước nhanh vào. Đến trước giường Tiêu Vũ, Lý Khác khẽ gọi một tiếng: “Ông cậu.”

Tiêu Vũ nheo mắt quan sát y kỹ càng, dường như muốn nhìn từ khuôn mặt đến tận trái tim y. Không biết đã qua bao lâu, Tiêu Vũ mới mở miệng: “Ta xin lỗi.”

Tiêu Nhuệ và Tương Thành công chúa quay mặt nhìn nhau, đều lắc đầu không hiểu. Trái tim Lý Khác như bị cào mạnh, nhưng ngoài miệng chỉ thờ ơ nói: “Ông dưỡng bệnh cho tốt. Đừng suy nghĩ quá nhiều.”

Kỳ Úc sợ y quay người rời đi, liền bước tới nắm tay y. Lý Khác hiểu ý úp lòng bàn tay mình lên tay nàng.

Tiêu Vũ có lẽ không nghe thấy lời của y, vẫn cứ nói: “Tỉ tỉ biết chuyện đó nên mới lâm bệnh, trong lòng ta hiểu rõ. Nói cho cùng mẹ con họ chết đều là tại ta… Còn cả cháu và Chính nhi, ta không biết liệu có làm hại… hại các cháu không. Ta không nên áp đặt suy nghĩ của mình lên các cháu. Ngô vương, ta sai thật rồi, sai quá thể rồi. Cháu có thể chấp nhận lời sám hối cuối cùng của ta không?”

Chính bản thân Tiêu Vũ cũng không ngờ, ông lại có thể nói một hơi được nhiều lời như vậy. Thật ra, từ rất lâu trước kia, ông đã ngầm thừa nhận lỗi lầm của mình rồi. Chỉ có điều, ông không muốn, lại càng không dám thú nhận. Nhưng lúc này, ông không thể không thú nhận, ngay trước khi ông sắp xuống suối vàng gặp những người đã khuất đó.

Sám hối, sám hối… Lý Khác đọc thầm hai chữ này mấy lượt. Sau khi tất cả những xấu xa bị vạch trần, những gì y nhận được, lại chỉ là hai chữ lạnh ngắt: Sám hối.

Tuy Tiêu Nhuệ không biết giữa họ đã xảy ra chuyện gì, nhưng lúc này rõ ràng trong mắt cha đang le lói một tia mong đợi đầy đau khổ. Thấy Lý Khác mãi không nói gì, gã sốt ruột gắt lên một tiếng: “Tam đệ!”

Kỳ Úc cảm nhận được bàn tay Lý Khác đang run lên khe khẽ. Y nói: “Ông cậu, giờ không phải lúc nói chuyện này. Hơn nữa, cũng không cần thiết.”

Tiêu Vũ từ từ nhíu mày, sau khi nhìn y một lúc lâu, ông đảo mắt, nói với giọng gần như không nghe được: “Bỏ đi, ta nên hiểu từ lâu rồi mới phải. Cuối cùng cháu vẫn không chịu tha thứ cho ta, không chịu tha thứ cho ta…”

Tiêu Vũ qua đời vào giờ Tý đêm hôm đó. Vì nhà đã chuẩn bị trước quan tài cùng đủ các vật dụng cho tang lễ, lại có cả một nhóm các nhà sư siêu độ ở trong phủ, nên toàn bộ hậu sự đều được tiến hành hết sức trật tự. Sáng hôm sau, Tiêu Nhuệ vào trong cung báo tang với hoàng đế. Lý Thế Dân vô cùng đau xót, tự mình cầm bút hạ chỉ truy tặng Tiêu Vũ làm tư không, định tên thụy là “Trinh”, và cho phép con trưởng là Tiêu Nhuệ tập tước Tống quốc công.

“Rốt cuộc cha ta với ngươi có ân oán gì vậy?” Tiêu Nhuệ nhìn Lý Khác bằng ánh mắt rừng rực, “Đến lúc lìa đời ông ấy cũng không có được một câu trả lời khẳng định của ngươi, chết không nhắm mắt. Trái tim người tàn nhẫn thật đấy!”

Tuy đang ở thư phòng nhà trong, nhưng Tiêu Nhuệ nói cực kỳ lớn tiếng, khó mà không thu hút sự chú ý của những người đi đi lại lại ở bên ngoài. Lý Khác cắn môi, nghiêng mặt, nhìn đôi nến trắng trên bàn đến thất thần. Rất lâu sau, y mới nói: “Nhuệ ca, người nhẫn tâm không phải là em…”

Tiêu Nhuệ bỗng cảm thấy lửa giận bốc lên, lao tới bóp chặt cổ tay Lý Khác, giọng nói sặc mùi bức bách lạnh lùng: “Bao nhiêu năm qua, ta không ngờ ngươi lại là kẻ vong ân phụ nghĩa như vậy! Ước muốn lớn nhất đời này của ông ấy là giúp người lên làm thái tử. Tuy không được như ý, nhưng ông ấy cũng cố hết sức rồi. Ông ấy đã dõi theo ngươi từ nhỏ đến khi trưởng thành, vô cùng yêu thương che chở ngươi. Năm xưa lúc mẹ ngươi qua đời, bệ hạ không đoái hoài đến ngươi, chính ông ấy đã luôn bên cạnh ngươi, an ủi ngươi…”

“Không được nhắc đến mẹ em!” Lý Khác rụt mạnh tay lại, thuận thể đẩy gã một cái. Tiêu Nhuệ đứng không vững, va mạnh vào giá sách đằng sau, làm hai chiếc bình hoa lưu ly ở trên cao nhất rơi xuống, mảnh vỡ văng đầy đất.

“Ngươi uống nhầm thuốc à?” Tiêu Nhuệ lật tay đánh vào mặt Lý Khác. Lý Khác không ngờ gã lại ra tay hung hãn như vậy, không kịp tránh né, gồng người chịu một quyền của gã, lập tức một vệt máu đỏ thẫm ứa ra trên khóe miệng. Y cũng bực sẵn, nhất thời không kiềm chế được nóng giận, ra tay đánh trả.

Tuy Tiêu Nhuệ xuất thân võ tướng, nhưng nhiều năm qua sống trong sung sướng đã quen, công phu quyền cước kém xa trước kia, chỉ sau vài chiêu đã rơi vào thế hạ phong. Trong lúc cấp bách, gã vớ lấy con dao dài rọc giấy trên bàn, tiến về phía Lý Khác. Lý Khác cảm nhận được sát khí đang từng bước ép tới, cũng chỉ còn cách lùi lại từng bước. Lùi đến góc tường, Tiêu Nhuệ vẫn không thôi, giơ dao toan đâm vào ngực Lý Khác.

“Nhuệ ca, em phụng chỉ bệ hạ tới đây. Nếu làm em bị thương, Nhuệ ca đã nghĩ đến hậu quả chưa?” Lý Khác định rút thanh chủy thủ giắt ở bên hông ra, nhưng cuối cùng vẫn chỉ lạnh lùng nói vậy.

“Cạch” một tiếng, con dao dài trong tay Tiêu Nhuệ rơi xuống đất. Lúc này, ngoài cửa vẳng vào tiếng bước chân lộp cộp, một giọng nói to khàn vang lên: “Phò mã, có chuyện gì thế ạ?”

“Ai cần các ngươi tới? Cút hết đi!”

Giọng nói đó liên tục “dạ” mấy tiếng, rồi vội vàng dẫn đám người phía sau rút lui.

Tiêu Nhuệ nhìn đống bừa bộn trên mặt đất, lại nhìn khóe miệng sưng đỏ của Lý Khác, bất giác lạnh buốt sống lưng. Gã chỉ lớn hơn Lý Khác bốn tuổi, họ chơi cùng nhau từ nhỏ, tình nghĩa sâu đậm. Nhưng vừa nãy, lúc gã cầm con dao dài đâm Lý Khác, không hiểu sao trong lòng lại nảy sinh một chút sát tâm kỳ quái.

“Xin lỗi” Tiêu Nhuệ ngồi thụp xuống, cẩn thận nhặt từng mảnh lưu ly vỡ trên mặt đất bỏ vào trong sọt tre. Khi nhặt đến mảnh cuối cùng, gã đột nhiên ngẩng đầu hỏi: “Sai lầm mà cha ta gây ra… nghiêm trọng lắm à?”

Lý Khác vừa đặt lại lên giá những quyển sách rơi dưới đất, vừa nói: “Nếu Nhuệ ca muốn biết, em sẽ kể từ đầu tới cuối cho. Đúng đúng sai sai, chắc Nhuệ ca cũng có khả năng phán đoán.”

“Bỏ đi.” Tiêu Nhuệ đứng dậy, phủi bụi đất trên quần áo, “Người cũng mất rồi, còn nói những chuyện này làm gì? Dù ta thực sự có oán hận gì đó thì lúc nãy cũng trút ra rồi. Minh Giác quý tam đệ nhất, nếu nàng biết ta đánh tam đệ thành ra như này, sợ là mấy ngày không nói chuyện với ta mất.

“Vậy thì đừng để tỉ tỉ biết. Lý Khác giơ tay về phía gã, “Chúng ta giảng hòa, được không? Đừng để người ngoài nhìn vào chê cười.”

Tiêu Nhuệ ngập ngừng một chút, rồi vẫn vỗ tay với y: “Được. Sau này sẽ không thế nữa.”

Lý Khác khẽ thở phào, ngay sau đó lại hỏi: “Mấy người trong sân nhà Nhuệ ca đó… đáng tin cậy không?”

“Yên tâm đi! Bọn họ đều không phải là người thích ngồi lê đôi mách.” Cuối cùng Tiêu Nhuệ cũng dần bình tĩnh lại. Giờ gã mới nhớ ra vừa nãy Lý Khác nói là “phụng chỉ bệ hạ tới đây”, vội hỏi, “Sức khỏe của bệ hạ thế nào rồi?”

“Không tốt. Quan hệ giữa ông ấy và cha của Nhuệ ca ở mức độ nào chứ? Hễ mà cố được, ông ấy đã chẳng bảo em tới viếng thay.”

Tiêu Nhuệ không nói gì, chỉ im lặng lắng nghe mấy tiếng sấm lúc xa lúc gần ở phía chân trời. Gã chợt nhớ ra mấy hôm trước nghe được một câu tục ngữ người dân trong phường nói: Mùa thu sấm vang, Diêm Vương rơi lệ.

Chuyện gì mà có thể khiến Diêm Vương mặt sắt rơi lệ đây? Tiêu Nhuệ chưa kịp nghĩ kỹ, lại thấy một tia chớp xẹt qua. Sắp trở trời thật rồi!

Trận mưa thu đó mãi đến tận tối mới tạm ngưng. Kỳ Úc kéo rèm xuống, ngồi bên cạnh Lý Khác, lo lắng hỏi: “Không cần bôi thuốc thật sao?”

Lý Khác lắc đầu, vỗ nhẹ lên mu bàn tay nàng: “Vết thương ngoài da thôi mà, mấy hôm là khỏi.”

Kỳ Úc khẽ hừ một tiếng, mắt chứa chút giận: “Thi thể ông chú còn chưa lạnh, sao tiểu thúc thúc có thể ra tay tàn nhẫn với chàng như vậy? Cả chàng nữa! Thiếp không tin chàng không tránh được một quyền ấy!”

Lý Khác thấy nàng giận đến đỏ cả tai, biết nàng thương mình, liền mỉm cười: “Y đánh ta, xả được cơn giận, cũng tốt mà. Thực ra ta cũng hối hận. Lúc đó ông cậu cầu xin ta, ta lại cứ… Nhưng Kỳ nhi, nàng biết không, ta nhìn thấy ông ấy là sẽ nhớ đến bà ngoại, nhớ đến mẹ, thật sự ta không nói nổi lời tha thứ.”

Kỳ Úc vùi đầu vào trong lòng y, ôm chặt lấy eo y: “Sẽ qua thôi, mọi chuyện rồi sẽ qua thôi.”

“Mọi chuyện rồi sẽ qua thôi..” Lý Khác lẩm bẩm lặp lại lời nàng, trong lòng lại nghĩ đến một câu khác: Chẳng biết mọi chuyện có thật sự dừng ở đây không.

“Phải rồi! Chúng ta đều sẽ sống tốt.” Kỳ Úc khép hờ mắt, giọng nàng dịu dàng và ấm áp: “Tam lang, bao lâu rồi chàng chưa đánh nhau như thế này với người khác?”

Lý Khác vuốt mái tóc dài buông xuống của nàng, nói: “Rất lâu về trước, khi thấy không thoải mái, ta thường tìm biểu huynh đánh nhau. Chỉ là, huynh ấy sẽ nhường ta, ta cũng sẽ nhường huynh ấy. Nhưng hôm nay, từng chiêu của Tiêu Nhuệ đều mang theo sát khí, thật sự làm ta sợ hãi.”

“Người đồng ý với tiểu thúc thúc là chàng, không phải thiếp. Hôm khác, thiếp nhất định sẽ nhờ Minh Giác tỉ tỉ phân xử.” Nói rồi, Kỳ Úc chợt nhớ ra điều gì đó, liền ngồi dậy, “Có chuyện này thiếp mãi vẫn chưa hỏi chàng. Hôm đó, lúc thiếp nhờ Bạch ma ma bảo Vũ Lương đi tìm chàng là giờ Thân hai khắc, mà lúc chàng đến Tiêu phủ, chắc mới chỉ giờ Dậu. Sao lại nhanh như thế được?”

“Cha tìm biểu huynh có việc, vì vậy ta về phủ trước. Nghe hai tiểu nha hoàn quét sân bảo ông cậu sắp không xong rồi, nên ta mới tới.” Lý Khác nói đến đây, đột nhiên cảm thấy có chỗ không đúng, “Sáng nay Quý Ân nói với ta, lần cuối cùng nhìn thấy Vũ Lương chính là một ngày trước khi ông cậu qua đời. Từ đó về sau, hắn lại giống như tan vào không khí. Mà phòng của hắn thì được thu dọn sạch sành sanh, quần áo mặc thường ngày cũng không thấy đâu cả.”

“Cho nên… Kỳ Úc biến sắc nói: “Hắn không đến chỗ bà ngoại tìm chàng, mà là chạy thẳng. Nhưng tại sao chứ? Hắn đã là quản gia của vương phủ, bình thường chàng lại luôn đối đãi hắn không tồi.”

“Nếu hôm đó ta không về sớm như vậy, tất nhiên ta sẽ không thể gặp mặt ông cậu lần cuối, và e là Tiêu Nhuệ sẽ nghi ngờ. Vậy thì xem ra Vũ Lương đã bị bọn chúng mua chuộc từ lâu rồi.”

“Mục đích của bọn chúng là ly gián mối quan hệ giữa chàng và nhà họ Tiêu? Đúng! Bọn chúng đang dùng lại chiêu cũ. Trước đây, bọn chúng từng dẫn dắt chàng điều tra ra chuyện năm xưa.”

“Có lẽ sớm hơn. Lý Khác lạnh lùng nói, “Với phản xạ và trí nhớ của Lưu Phong, nó không thể lạc đường tại Ly Sơn mà nó thường xuyên ra vào. Kỳ nhi, năm xưa nếu không có nàng cứu, thì ta dù không bỏ mạng trong miệng hổ cũng khó tránh khỏi ngã gãy chân. Ta còn nhớ, hôm đó người dắt Lưu Phong ra cho ta chính là Vũ Lương.”

Kỳ Úc bất giác thấy ớn lạnh: “Tam lang, mau phát công văn truy bắt Vũ Lương, dù lên trời xuống đất cũng phải tìm ra hắn!”

“Cô ngốc này, truy bắt phải có lý do. Nếu không có chứng cứ xác thực mà ra công văn, một khi bị ngôn quan biết, ắt sẽ bị đàn hặc. Năm xưa vì Vũ Văn Thiền Sư, ta mới mạo hiểm bảo Tề Trưởng Thăng làm giả, còn bây giờ e là không thể nữa rồi.”

“Vậy chúng ta phải làm thế nào? Chẳng lẽ chỉ có thể mặc kệ buông xuôi hay sao?”

“Ta sẽ bảo Quý Ân, Quý Thành âm thầm đi tìm. Tóm lại không thể để mình chịu thiệt suông được.”

“Thật ra, Vũ Lương chỉ là một quân cờ nhỏ không đáng để mắt. Kỳ Úc nhíu mày nói, “Đáng sợ là những kẻ giật dây Vũ Lương. Không phải chúng ta không đụng đến chúng là chúng sẽ bỏ qua cho chúng ta. Cha thiếp trước đây từng nói, cách phòng thủ tốt nhất chính là phản công”

Lý Khác gật đầu: “Ta biết. Hôm nay Vương Thọ Đức nói với ta, Mã Chu chắc không qua nổi mùa đông này. Lão là tâm phúc của Lý Trị, lại từng bày mưu với biểu huynh và ta như thế, ta không thể không báo mối thù này. Còn những kẻ khác, chỉ cần bọn chúng không nổi tâm địa bất chính gì thì cũng thôi.”

Kỳ Úc không nói nữa, ánh mắt dừng ở đôi vẹt mẫu đơn trên rèm giường một lúc lâu. Nhìn đến khi mắt hơi mỏi, nàng mới tựa đầu lên vai Lý Khác. Chỉ một lát nàng đã cảm thấy buồn ngủ, nhắm mắt thiếp đi.

Sau độ thu nồng, thành Trường An lại bước vào mùa đông dài lạnh giá. Trong tháng Mười hai, có liên tiếp ba trận tuyết lớn, tuyết đã ngập đến đầu gối, người đi đường nhấc chân khó khăn, đành phải nắm tay nhau, bước từng bước nhỏ, chậm rãi đi về phía trước.

Tết năm thứ hai mươi ba niên hiệu Trinh Quán đến trong cảnh tuyết trắng tinh khôi bao phủ và trong những suy đoán chẳng lành về thời tiết bất thường của trăm họ. Ba vị tể tướng Tiêu Vũ, Mã Chu, Phòng Huyền Linh đều qua đời chưa lâu, lại thêm sức khỏe của Lý Thế Dân không được tốt cho lắm, nên Tết trôi qua cực kỳ nhàm chán ngột ngạt, dường như không ai buồn đốt một tràng pháo cho náo nhiệt. Thế là, thời gian cũng cứ thế trôi đi bình thường nhạt nhẽo.

Buổi chầu lớn đầu tiên sau Tết, Lý Thế Dân nghe xong tấu chương của quần thần, thấy người hơi mỏi bèn ngả về phía sau. Vương Trung vội kê chiếc đệm dựa trong tay vào sau lưng ông, nói nhỏ bên tai ông: “Bệ hạ, người muốn bãi chầu chưa ạ?”

Lý Thế Dân xua ta