Chương 25 Chuyện ma Dương Châu
Tháng Ba ở Dương Châu đúng vào mùa mưa, sương mù giăng khắp mặt sông. Nước mưa chốc chốc lại gõ lên lan can thuyền, phát ra tiếng “lộp bộp”. lái thuyền khoác áo tơi đội nón lá đứng ở mũi thuyền, vừa ra sức chèo vừa ngoảnh đầu nói: “Công tử ngồi dịch vào bên trong một chút, đừng để mưa hắt ướt người.”
Lý Khác hơi dịch vào, vừa cười vừa nói: “Giọng Dương Châu của ông thật là dễ nghe, còn hay hơn cả tiếng quan thoại Trường An của chúng tôi!”
Ông lái thuyền đưa tay lau mồ hôi trên trán, thẳng thắn nói: “Công tử cứ đùa. Phía trước là ngã ba, công tử muốn đi theo đường nào?”
Lý Khác nghịch chiếc quạt xếp trong tay, hững hờ nói: “Không quan trọng. Ông thích đi đâu thì đi!”
Ông lái thuyền lắc đầu chẳng biết làm sao. Ông chèo thuyền ở vùng Dương Châu này đã mấy chục năm, chưa bao giờ gặp người khách nào tùy tiện như vậy. Thấy trời mưa ngày càng nặng hạt, bà vợ ở nhà chắc vẫn đang đợi ông về nấu bát canh gà mái già để bồi bổ cơ thể. Nghĩ đến đây, ông liền khua nhanh tay chèo, chèo về phía gần bờ nhất.
Hai bên bờ gió mát lướt qua, tạt nước mưa vốn hắt vào mặt rơi cả vào cổ. Lý Khác đứng dậy, mở chiếc ô vải dầu lớn mang theo bên mình, lấy một xâu tiền trong tay áo ra, đặt vào tay ông lái thuyền, nói lời tạm biệt rồi lên bờ.
Tang sự của Tiêu hoàng hậu đã xong xuôi từ hơn nửa tháng trước, nhưng thứ sử Dương Châu Trịnh Đạc ngày nào cũng dẫn mấy người bản xứ có tiếng đến bái kiến, nên nhất thời họ vẫn chưa đi được. Lý Khác thật sự không thích ứng phó với những tình huống kiểu này, nên luôn mượn cớ để ra ngoài dạo chơi một mình. Có điều, trước khi lên đường Lý Thế Dân đã trao cho y chức truất trắc sứ đạo Hoài Nam, cũng là có ý muốn y thay thiên tử tuần du, tra xét dân tình, khảo sát chính tích của quan viên. Cho nên y làm vậy cũng không thể coi là bỏ bê việc chính.
Nơi xuống thuyền đã là vùng ngoại ô Dương Châu, chỉ có lác đác mấy nóc nhà. Lý Khác đi loanh quanh một lúc, thấy phía trước có một ngôi miếu tuy hơi cũ kỹ, nhưng được xây dựng rất gọn gàng tinh xảo. Trên tấm biển là ba chữ dùng đá xếp thành: miếu Đồng Tử.
Y còn chưa gõ cửa đã thấy có một con mèo đen từ bên trong nhảy ra, nhắm về phía y kêu ré lên. Lý Khác giật nẩy mình vì bất ngờ, vội vịn vào khung cửa bên cạnh.
“Tiểu súc sinh! Ba ngày không động gì đến mày, lại định thò mặt ra chọc phá quý nhân đấy phỏng?” Người đàn ông mặt đầy râu tua tủa cầm một cây chổi lớn lao vọt ra, vừa đuổi vừa lớn tiếng chửi mắng.
Con mèo thấy ông ta, lập tức lủi vào trong bụi cỏ bên cạnh. Người đàn ông đành hậm hực vứt cây chổi sang một bên, đoạn cười xòa, cúi người vái chào: “Tại hạ Tưởng Thổ Căn, là thủ từ của ngôi miếu này. Khiến công tử giật mình rồi, mau vào trong ngồi một lát đi”
Lý Khác phủi bụi trên tay áo, gật đầu nói: “Cũng được.”
Hai bên chính điện là hai hàng giá đặt hai mươi bốn ngọn nến ngay ngắn chỉnh tề, bên trên bàn thờ phía trước có thắp mười hai nén đàn hương, ba chiếc đĩa bạc bên dưới thì đựng hoa quả tươi, còn chính giữa phía trên bàn thờ là một bức tượng thiếu niên trong bộ đồ hoa lệ màu đỏ. Lý Khác thấy cậu thiếu niên mặt mày như tranh vẽ, phong thái trác việt, còn đẹp hơn tượng Thiện Tài đồng tử mà trước đây y từng thấy, liền tò mò hỏi: “Nơi đây thờ phụng ai vậy?”
Tưởng Thổ Căn lấy bàn chải quét tàn hương rơi trên bàn thờ, nói với vẻ mặt trang nghiêm: “Triệu vương”
Đôi mày Lý Khác khẽ giật: “Triệu vương là ai?”
Tưởng Thổ Căn “ài” một tiếng, quan sát Lý Khác mấy lượt: “Chính là Triệu vương Dương Cảo hơn ba mươi năm trước bị phản quân giết ở Dương Châu. Chắc công tử biết chứ?”
Lý Khác nhận ba nén hương từ tay Tưởng Thổ Căn, cúi người vái ba vái rồi cắm vào trong lư hương. Sau đó y lại lấy hai lạng bạc trong tay áo ra đặt lên trên bàn, coi như là tiền nhang khói: “Chuyện của Triệu vương, đúng là tôi có nghe sơ qua. Chỉ không ngờ, ở đây lại có người lập miếu cho ông ta.”
Tưởng Thổ Căn bỏ bạc vào trong chiếc hòm sắt cạnh tay, vuốt bộ râu cá trê nói: “Công tử nhìn xem, bức tượng này đã tuấn tú lắm rồi! Nhưng nghe các cụ từng trông thấy Triệu vương trong làng chúng tôi nói, nó vẫn chưa thể hiện được một phần mười thần vận của ngài ấy! Lúc đó, mấy đại hoạn quan bên cạnh Tùy Dạng Đế cưỡng ép các cụ nhập ngũ, chính Triệu vương đã quỳ xuống cầu xin Dạng Đế, nên bọn họ mới được miễn phu phen. Mấy hôm sau, Triệu vương lại sai tiểu thái giám dưới quyền mình đem chút vàng bạc của cải tặng cho các cụ. Năm Vũ Đức thứ nhất, Dương Châu mưa dầm dề không ngớt, ruộng đồng không thu hoạch nổi một hạt thóc. Đạo sĩ giang hồ nói rằng, Triệu vương chết oan, ông trời đang buồn bã đau lòng. Chỉ có lập miếu cho Triệu vương, truyền đời hương khói, mới có thể giữ được một phương thái bình..”
Lý Khác nghe đến đây, trong lòng bất giác trào dâng mấy phần thê lương quạnh quẽ. Dương Cảo là em trai duy nhất của mẹ y, lúc chết mới chỉ mười hai tuổi. Một cậu thiếu niên mười hai tuổi có dung mạo siêu phàm thoát tục, tâm hồn trong sáng đơn thuần, lại bị một lũ bẩn thỉu vô liêm sỉ nhất thế gian đoạt mạng. Lý Khác đột nhiên nhớ đến ba chữ mình nhìn thấy lúc mới bước vào: miếu Đồng Tử. Một thiếu niên như vậy, có lẽ đúng là mang mệnh đồng tử! [*]
[*]
Theo tử vi, những người mang mệnh đồng tử tuy từ nhỏ tài ba xuất chúng, nhưng cuộc đời nhiều sóng gió, tai ương, không được thọ.
“Công tử?” Tưởng Thổ Căn thấy Lý Khác có vẻ trầm tư, liền khựng lại, suy nghĩ một lát rồi mới nói tiếp, “Thế là các cụ liền mời người xây ngôi miếu Đồng Tử này, còn đem vàng bạc của cải năm xưa Triệu vương tặng đặt vào trong hộp gấm rồi chôn xuống đất. Nói ra cũng thật kỳ lạ, kể từ đó nơi đây gần như không xảy ra tai họa. Các cụ đều bảo, Triệu vương nhân hậu, ở trên trời vẫn tiếp tục bảo vệ trăm họ dưới trần gian!”
Lý Khác nghe tiếng mưa bên ngoài dần ngưng, liền đứng dậy, lại vái bức tượng đó một lần nữa, rồi quay sang nói với Tưởng Thổ Căn: “Các ông có lòng thành kính nể sợ thần linh như vậy, thần linh cũng sẽ phù hộ các ông”
Tưởng Thổ Căn hơi ngạc nhiên: “Trông công tử có dáng vẻ nhà quan, không ngờ cũng tin chuyện quỷ thần”
“Thủ từ kể chuyện sinh động như vậy, hóa ra không phải là mong tôi tin à!” Lý Khác cầm chiếc ô vải dầu dựng ở một bên lên, mỉm cười: “Cảm ơn ông”
“Công tử cảm ơn vì điều gì?” Lúc bước qua bậc cửa, Lý Khác nghe thấy Tưởng Thổ Căn ở đằng sau cao giọng hỏi. Y cũng mặc kệ, vẫn cứ đi tiếp.
Không khí sau mưa là tươi mát nhất, hít nhẹ một hơi, liền cảm thấy trong bụng vô cùng dễ chịu. Lý Khác đi trên con đường quanh co bên ngoài miếu Đồng Tử, tâm trạng nặng trĩu suốt mấy ngày dường như đã vơi đi không ít theo chuyến đi hôm nay. Dương Châu đúng là rất tốt, chẳng trách năm xưa Tùy Dạng Đế lại thích Dương Châu như vậy, thậm chí trong lần cuối cùng xuống Giang Nam, ông ta còn coi Dương Châu là chốn an thân cho nửa đời còn lại. Nhưng về sau, nơi đây lại trở thành mồ chôn của ông ta, thật không biết nên thương xót hay nên than thở.
Lý Khác muốn đưa Kỳ Úc tới Dương Châu chơi từ mấy năm trước, chỉ là lúc đó trên dưới triều đình đều đang chuẩn bị cho trận chinh phạt Cao Câu Ly, nhất thời y cũng không thoát ra được. Những ngày sau đó, y luôn cảm thấy bất an, lại thêm việc Lý Thế Dân đau ốm, nên y cũng chẳng còn lòng dạ đi du sơn ngoạn thủy nữa. Còn lần này thì đến để lo tang, tâm trạng nói chung là chán chường nhiều hơn vui vẻ.
Lúc về đến dịch quán Dương Châu, trời đã sẩm tối. Vân Lĩnh bỏ lại hai thị vệ đang trò chuyện vui vẻ với mình, vội vàng bước tới đón: “Điện hạ đã về. Trịnh thứ sử và Hồ huyện lệnh huyện An Nghi, còn cả mấy vị quan viên trí sĩ cũng vừa mới ra về ạ?”
“May mà có huynh ấy.” Lý Khác lau nước mưa vô tình dính trên tóc, vừa đi vừa nói, “Ngươi đi bảo đám người dưới một tiếng, trưa mai chúng ta sẽ lên đường về Trường An.”
Vân Lĩnh dạ một tiếng, quay người chạy ra ngoài cửa.
Lúc này Đỗ Húc đang bưng một cái khay, bước chậm rãi từ cuối hành lang tới, cúi người nói: “Tham kiến điện hạ. Công tử bảo là, đợi ngài về sẽ qua tìm ngài. Công tử còn bảo sau này sẽ không bao giờ giúp ngài đối phó với mấy người đó nữa.”
Lý Khác lắc đầu bất lực, nghĩ bụng: Cũng được, may mà mai là đi rồi. Sau đó y mở nắp chén trà trên khay, bất giác nhíu mày: “Sao huynh ấy lại muốn uống trà đặc như thế này? Hại dạ dày quá. Bảo nhà bếp chuẩn bị nước mật ong ấm một chút.”
Đỗ Húc khó xử nhăn mày: “Nhưng công tử sẽ nổi giận đấy ạ. Ngài biết mà, gần đây công tử không được vui vẻ cho lắm.”
“Hình như trước đây ngươi đâu có sợ huynh ấy như vậy!” Lý Khác nhìn Đỗ Húc nói, “Cứ làm theo lời ta đi! Nếu huynh ấy trách ngươi thì hôm tới ngươi qua phủ Ngô vương làm việc”
Bên ngoài gian nhà Dương Chính Đạo ở có trồng một bãi ngô đồng. Tuy đông ấm hè mát, nhưng hay có côn trùng chui vào qua cửa sổ. Thế là gã đành phải đặt một lượng lớn hương huỳnh đàn trong bốn chiếc lư ở chính đường để xua đuổi. Lúc này gã đang nhắm hờ mắt, dùng tay day huyệt thái dương, nói với giọng đượm phần mệt mỏi: “Dạo này ta luôn cảm thấy đầu óc váng vất, đành phải uống chút trà đặc cho tỉnh táo. Thế mà đệ cũng muốn quản sao?”
“Huynh nói, làm sao ta biết được?” Lý Khác vén áo ngồi xuống cạnh gã, “Mà đâu chỉ có thế. Dọc đường từ Trường An đến Dương Châu, huynh đều không muốn nói chuyện với ta cho lắm. Vấn đề ở phía ta, hay là ở phía huynh?”
Dương Chính Đạo biết ắt hẳn y đã nhịn rất lâu rồi mới hỏi như thế này. Nhưng trong một chốc một lát gã cũng không giải thích được, đành nói với vẻ dửng dưng: “Đệ không nên đến Dương Châu. Trường An cần đệ hơn.
“Bất kể cần hay không, ta cũng đã đến rồi. Nếu huynh thật sự trách ta vì việc này, thì ta cũng chẳng có cách nào cả.
“Đệ giận dỗi ta làm gì? Nếu đến bây giờ mà đệ vẫn không hiểu ý ta, thì những năm qua chúng ta uổng công làm huynh đệ rồi!”
Lý Khác đang định mở miệng thì nghe thấy bên ngoài có tiếng gõ cửa vang lên. Y đứng dậy mở cửa, đón lấy chiếc cốc sứ trong tay Đỗ Húc, rồi xua tay bảo hắn đi.
“Lúc không vui phải nếm chút đồ ngọt. Miệng ngọt rồi thì lòng sẽ không đắng” Lý Khác bưng chén sứ đựng đầy nước mật ong đến trước mặt Dương Chính Đạo, “Huynh có giận ta thì cũng không thể không quý trọng thân thể mình. Ngày mai chúng ta sẽ lên đường, nếu mọi thứ suôn sẻ thì có thể về nhà trước tết Hàn thực”
Dương Chính Đạo uống một hơi hết nước mật ong trong chén, rồi lại lấy cốc sứ rót thêm chén nữa. Một lúc lâu sau gã mới nói: “Ngọt quá. Tên nhóc Đỗ Húc này thật là không biết chừng mực khi pha. Cơ mà mật ong này được đấy, dư vị dài lâu, còn thoang thoảng mùi thơm của hoa.
Lý Khác thấy cuối cùng giọng gã đã dịu đi, nghĩ bụng, biết thế cho uống sớm một chút thì có phải tốt rồi không, nhưng miệng chỉ nói: “Chỉ cần huynh thích là được. Nếu huynh thật sự không ngủ nổi thì ta sẽ đánh cờ với huynh. Lâu lắm rồi chúng ta cũng chưa rèn giũa ngón cờ một cách nghiêm túc.”
Một đêm chơi cờ say sưa thỏa thích đã kết thúc, rạng sáng, cả hai cuối cùng cũng buồn ngủ, gục luôn xuống bàn đánh một giấc. Đến khi ngoài cửa vẳng tới những tiếng bước chân nhộn nhạo, hai người mới không hẹn mà cùng tỉnh dậy. Quý Ân gõ cửa khe khẽ, dừng lại một chút, rồi gõ tiếp hai cái: “Điện hạ, ti chức có chuyện muốn bẩm báo.
Lý Khác dụi đôi mắt ngái ngủ, quân cờ đen y nắm suốt trong tay liền rơi xuống đất. Y nói nhỏ: “Biểu huynh, mau ra mở cửa”
Dương Chính Đạo đứng dậy, hai chân bỗng nhũn ra, vội vịn vào giá sách trước mặt, một bình hoa phỉ thúy bên trên lắc lư mấy cái, lúc sắp rơi xuống đất thì Lý Khác nhanh tay lẹ mắt đón được. Dương Chính Đạo giật mình, bước qua hai tấm đệm trúc, đi đến trước cửa, kéo then ra: “Sáng sớm ngày ra, có việc gì mà gấp thế?”
Quý Ân đưa tay lau mồ hôi trên trán, lo lắng ra mặt: “Quấy rầy quân hầu nghỉ ngơi rồi. Vừa nãy Trịnh thứ sử đến báo tin, miếu Đồng Tử ở ngoại ô phía Tây đêm qua bị cháy, chính điện đã thành một đống hoang tàn. Thủ từ không chạy kịp, bị chết ngạt ở bên trong.”
“Thời tiết Dương Châu khá là ẩm ướt, sao có thể xảy ra hỏa hoạn vào mùa này?” Dương Chính Đạo hết sức kinh ngạc hỏi, “Hơn nữa những việc kiểu này đúng ra phải do thứ sử xử lý, tại sao lại vội vã đến báo với chúng ta như thế?”
“Chắc ông ta có lý do.” Lý Khác từ bên trong bước ra, tiện tay ném chiếc đệm trúc dưới đất lên giường, nói với Quý Ân, “Bảo Trịnh thứ sử chuẩn bị, ta muốn đến đó xem xem. Nói đoạn, y lại quay sang Dương Chính Đạo, “Xem ra, hôm nay chúng ta chưa lên đường được rồi.”
Ngoại ô Dương Châu, gió xuân phớt qua mặt, ánh nắng rực rỡ từ trên cao chiếu xuống, nước đọng trên con đường lát đá lấp lánh sáng ngời. Một mùi khét nồng nặc bốc lên trong không khí, làm người ta ho sặc sụa không thôi. Trịnh Đạc nói với vẻ mặt bứt rứt: “Quấy rầy điện hạ đích thân đến kiểm tra, hạ quan thực sự thấy thẹn trong lòng”
Dương Chính Đạo khẽ nhếch môi phản bác: “Chẳng phải chính Trịnh thứ sử tới quấy rầy sao? Giờ còn nói như vậy, không cảm thấy rất nực cười à?”
Trịnh Đạc nắm chặt hai tay vào nhau, không khỏi lúng túng ra mặt. Lý Khác nghiêng đầu nhìn Dương Chính Đạo, ý nói: Biết thừa nhưng đừng nói toạc, không thể chẳng giữ lại chút thể diện nào cho người ta như vậy. Lúc ở Trường An, y có tìm hiểu về tác phong hành sự của vị Trịnh thứ sử này, tuy năng lực làm việc hơi yếu, nhưng ông ta là người trung hậu khiêm tốn, lại rất quan tâm đến nỗi khổ của người dân, có thể coi là một vị quan tốt.
Y đang suy nghĩ thì thấy Trịnh Đạc dẫn một người đàn ông trung tuổi mặc áo bào xanh đi tới: “Điện hạ, người này tên là Kim Hồng. Chính ông ta đã đến phủ thứ sử báo án”
Ánh mắt của Lý Khác vượt qua hai người họ, hướng đến một bãi ngổn ngang cách đó không xa. Còn chưa đầy một ngày, chính điện của ngôi miếu Đồng Tử vốn được xây dựng khá là tinh xảo đã thành ra thế này, quả thực y cũng thấy hơi buồn. Y bèn tiến lên mấy bước, dừng lại một lúc rồi mới ngoảnh đầu hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Kim Hồng cúi đầu, đưa tay trái xoa mấy vết thương trong lòng bàn tay phải: “Bẩm điện hạ, nơi này chỉ có mười mấy hộ dân, hơn nữa cách miếu Đồng Tử khá xa, vì vậy mọi người đều không biết ngọn lửa này bắt đầu từ đâu. Khi hay tin, tiểu nhân vội vàng chạy tới, thì đã cháy thành như thế này rồi. Thi thể nằm bên cạnh mảnh vỡ của tượng Triệu vương, tuy bị thiêu biến dạng, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra đó chính là thủ từ Tưởng Thổ Căn, người quanh năm sống một mình trong miếu Đồng Tử. Sau đó ngỗ tác xác nhận, trong miệng Tưởng Thổ Căn có một lượng lớn tro khói, có thể thấy đúng là đã bị chết cháy”
Lý Khác trầm ngâm hỏi: “Có người nhà đến nhận xác không?”
Kim Hồng lắc đầu: “Theo tiểu nhân được biết, Tưởng Thổ Căn góa vợ, cũng không có con cái.”
“Vậy thì coi như là xác vô chủ rồi.” Lý Khác ngồi xổm xuống, cầm một thanh đòn ngang lên, lấy tay lau vết bẩn bên trên, ngẩng đầu nhìn Dương Chính Đạo. Gã hiểu ý, cầm mảnh sứ ở bên cạnh đưa lên mũi ngửi thử, rồi gật đầu. Lý Khác đứng dậy, rút chiếc khăn trong tay áo ra lau hai tay, sau đó nói với Trịnh Đạc: “Thông thường thứ sử xử lý mấy xác chết kiểu này như thế nào?”
Trịnh Đạc kính cẩn nói: “Thông thường nha phủ đều bỏ tiền bạc ra chuẩn bị quan tài sơ sài, an táng những thi thể vô chủ ở hậu sơn của chùa Vạn Tượng cách phủ thứ sử Dương Châu năm dặm. Mùng một hằng tháng, thiền sư Minh Huệ trong chùa sẽ siêu độ cho họ.”
“Thứ sử nhân hậu, chẳng trách cuộc sống của trăm họ Dương Châu lại sung túc vui vẻ như vậy. Nhưng mà..” Lý Khác nói đến đây, đột nhiên đổi sang giọng nghiêm nghị, “Một vụ án cố ý phóng hỏa giết người thế này, thứ sử phải tập trung toàn bộ tinh thần cẩn thận điều tra cho rõ.”
Mây đen trên trời từ từ trôi tới, dần chặn lại ánh nắng vừa nãy còn chói chang. Trịnh Đạc thoáng ngây ra, rồi lập tức nói với vẻ mặt như bình thường: “Sao điện hạ lại nói như vậy?”
Ánh mắt Lý Khác hơi nhấp nháy: “Thứ sử hẳn đã sớm biết việc này có khá nhiều ẩn tình, sợ mình không đủ sức khám phá, nên mới cần ta ra mặt giải quyết. Có điều, ông lại sợ ta phủi tay mặc kệ, nên muốn ta tận mắt nhìn thấy những điểm khả nghi, để ta chủ động đề nghị giúp ông điều tra, đúng không?”
Những giọt nước trên trán Trịnh Đạc từ từ chảy xuống, vào tận trong vạt áo, lại không biết là nước mưa hay mồ hôi. Ông ta cuống cuồng quỳ xuống, giọng nói hơi run vì chột dạ: “Điện hạ, hạ quan... hạ quan biết sai rồi. Hạ quan không nên có ý nghĩ như vậy. Chỉ là... điện hạ biết đấy, Triệu vương trong miếu Đồng Tử từng phù hộ cho Dương Châu mưa thuận gió hòa, giờ lại bị thiêu cháy một cách khó hiểu như vậy, hạ quan thật sự... thật sự cảm thấy sợ hãi”
Mưa ngày càng nặng hạt, các hộ vệ tới tấp mở ô che mưa cho mấy người. Lý Khác nói với vẻ lạnh nhạt: “Bản vương thân là Đại Lý tự khanh, lại là truất trắc sứ đạo Hoài Nam do bệ hạ khâm định, việc này không nằm ngoài phận sự. Có điều, bản vương cũng cần phải biết, ông có tư cách để ta giúp đỡ hay không. Đứng dậy nói những gì ông đã điều tra được đi!”
Giờ Trịnh Đạc mới dám giơ tay lau những giọt nước trên mặt, nói nhỏ: “Tảng sáng hạ quan đã dẫn người đến đây một lần. Lúc đó hạ quan phát hiện ra trong đống đổ nát có rất nhiều dấu vết của rượu mạnh và dầu thông dẫn lửa, cho nên mọi thứ trong miếu mới bị đốt sạch như này. Nhưng trong một ngôi miếu bình thường còn không có dầu thông và rượu mạnh, huống hồ là miếu thờ Triệu vương? Hơn nữa, Tưởng Thổ Căn sống ở hậu viện, tại sao nửa đêm ông ta lại vào trong chính điện? Vả lại, Tưởng Thổ Căn đang độ tráng niên, chính điện có song có cửa, dù là lửa cháy bất ngờ, sao ông ta lại không chạy thoát nổi cơ chứ?”
“Chắc chỉ có một khả năng” Lý Khác chậm rãi nói, “Đêm khuya có kẻ tới tìm Tưởng Thổ Căn nói chuyện. Có lẽ, người thì ông ta quen mà chuyện ông ta cũng rành. Nhưng mà, trong quá trình trò chuyện, kẻ đó lại tính kế đánh thuốc mê ông ta, rồi phóng hỏa thiêu chết, đốt rụi chính điện. Trịnh thứ sử vừa nãy chỉ bảo trong miệng ông ta chứa tro khói, còn trong khoang bụng, không biết ngỗ tác có thể kiểm tra không?”
Trịnh Đạc hít sâu một hơi: “Hạ quan hiểu rồi. Nhưng mà, Tưởng Thổ Căn đã chẳng còn người thân trên đời, không biết hạ quan nên điều tra từ đâu đây?”
“Không có người thân thì vẫn còn bạn bè.” Lý Khác trừng mắt với ông ta, lại thấy trong ánh mắt có vẻ kính cẩn của ông ta dường như lóe lên tia sáng thâm sâu khó dò, không khỏi thầm ngạc nhiên. Con người này, khá là thú vị.
Dương Chính Đạo cũng quan sát Kim Hồng mấy lượt, hỏi: “Ai bảo mà ông biết nơi đây bị cháy vậy? Tại sao khi trời còn chưa sáng kẻ đó lại tới nơi hoang vu này?”
Kim Hồng hơi nhíu mày, khóe mắt hằn sâu mấy nếp nhăn: “Tiểu nhân nghe người cùng thôn tên là Triệu A Cửu nói. Hẳn là người làm ăn, quanh năm hành tẩu bốn phương, hôm nay vốn định lên đường đi U Châu bán hàng, ai ngờ gặp phải vụ việc này. Hắn hoảng trong lòng, chỉ sợ đây là ông trời cảnh báo, cho nên liền hớt hải chạy đến báo tin miếu Đồng Tử bị cháy cho tiểu nhân”
“Vậy thì đây đúng là một việc kỳ lạ.” Dương Chính Đạo hỏi vặn: “Kim Hồng, ta hỏi ông, nếu nửa đêm ông đi ngang qua ngôi miếu Đồng Tử đang cháy, ông sẽ làm gì?”
“Tiểu nhân sẽ chạy trốn thật xa. Kim Hồng nói không suy nghĩ, sau đó dường như thấy nói vậy rất không thỏa đáng, bèn vội vàng chữa lại: “Tiểu nhân sẽ đi cứu hỏa”
Mắt Dương Chính Đạo thoáng hiện vẻ trào phúng: “Chạy trốn là bản năng, cứu hỏa cũng là bản năng. Nhưng hắn đã không chạy trốn, cũng chẳng cứu hỏa, mà lại đi xa như vậy để nói với ông. Việc này chẳng phải khá kỳ lạ sao?”
Kim Hồng hơi bần thần, nhất thời không nói nên lời.
Trịnh Đạc thắc mắc: “Quân hầu nghi ngờ Triệu A Cửu phóng hỏa sao? Nhưng mà hắn có mưu đồ gì? Hay là giờ hạ quan đi xích hắn đem tới đây tra hỏi kỹ càng?”
Dương Chính Đạo nhướng mày, hững hờ nói: “Ta chưa hề hoài nghi gì cả. Thứ sử muốn làm gì thì cứ việc làm. Tưởng Thổ Căn bị hại như này, thực là oan uổng. Trịnh thứ sử là quan phụ mẫu Dương Châu, tự biết nặng nhẹ.”
Trịnh Đạc vâng vâng dạ dạ, sau khi cáo tội với Lý Khác và Dương Chính Đạo, liền dẫn các bổ khoái dưới quyền đi đến thôn Mi Vu nơi Triệu A Cửu sống.
Trên đường về, Lý Khác liên tục đưa mắt trông ra cảnh đường phố bên ngoài xe ngựa, đến khi cảm thấy cổ đau nhức mới buông rèm xuống, khẽ bặm môi: “Biểu huynh, huynh từng bảo, tuổi tác lớn dần thì càng thêm kính sợ chuyện quỷ thần. Giờ huynh vẫn nghĩ như vậy chứ?”
“Tất nhiên.” Dương Chính Đạo đưa một túi nước ở cạnh tay cho y, “Vừa nãy đệ còn nói rõ ràng đâu ra đấy, giờ lại muốn quy kết chuyện này cho quỷ thần sao?”
Lý Khác mở túi, uống hết già nửa nước bên trong mới cảm thấy cổ họng khô khốc của mình dễ chịu hơn: “Đâu có. Chỉ là, vừa nãy lúc nhìn thấy mảnh vỡ của tượng Triệu vương trong đống đổ nát, ta vẫn thấy hơi khó chịu trong lòng. Huynh cũng hiểu mà, phải không?”
“Phải. Ta hiểu. Cho nên... Trịnh Đạc điều tra là việc của Trịnh Đạc, chúng ta điều tra là việc của chúng ta. Bất kể là người hay ma, cũng mặc kệ là âm mưu quỷ kế gì, chúng ta đều không sợ.”
Xe ngựa dần đi đến khu chợ sầm uất nhất cổng Nam của Dương Châu. Bên ngoài những tiếng rao hàng nối tiếp nhau vang lên, xen lẫn cả tiếng cãi nhau do mua bán không thành mà lòng sinh oán giận. Giọng Dương Châu êm ái dễ nghe, du dương trầm bổng, dù tranh cãi đến đỏ mặt tía thì nghe cũng chỉ giống lời khuyên giải nhẹ nhàng thân mật giữa bạn bè với nhau.
“Quý Ân, dừng lại phía trước đã. Ta muốn xuống mua mấy thứ”
Lý Khác đặt túi nước rỗng sang một bên, cởi hầu bao trên thắt lưng, lấy ra hai xâu tiền rồi xuống xe, đi đến sạp hàng nhỏ gần nhất, cậu con trai hơn mười tuổi của chủ sạp đang ở đó nghịch một con dao bấm. Lý Khác trò chuyện với chủ sạp một hồi, rồi bê về một bọc lớn. Dương Chính Đạo lắc đầu bất lực, cười nhạo: “Chủ sạp vớ được một phú ông như đệ, đúng thật là phúc khí ba đời tu thành.”
Lý Khác cất mấy đồng tiền thừa, phản bác: “Huynh đừng tưởng ta quên chuyện năm xưa huynh từng vung ra một miếng ngọc bội trị giá cả trăm lượng. Về sau bà ngoại hỏi đến, huynh nói như nào nhỉ? Ngọc quý báo đáp tri kỷ, con đã tặng nó cho một người bạn tâm đầu ý hợp rồi. Thế mà bà vẫn tin huynh, liên tục hỏi huynh người đó là nam hay nữ.”
Dương Chính Đạo nghe y nói đến chuyện xấu hổ mười mấy năm về trước bằng giọng bình thản như gió thoảng mây thưa, dường như có một lớp sương mù dày đặc phủ lên trái tim gã. Rất nhiều người và việc gã không muốn nghĩ tới, dưới sự lắng đọng của thời gian, cuối cùng đã hóa thành từng làn khói xanh trôi đi xa. Dương Chính Đạo cười nhạt, tựa hồ không muốn vướng vào mớ cảm xúc hỗn độn trong đầu. Gã giơ tay mở bọc đồ ra, vừa nhìn liền bật cười thành tiếng: “Đệ mua những đồ gì thế này?”
“Tất nhiên đều là đồ tốt. Không phải huynh chưa thấy bao giờ đấy chứ?” Lý Khác tiện tay cầm một món đồ lên nói, “Đây là con quay tung hứng, Phong nhi nhà em chắc chắn sẽ thích. Đây là khóa Khổng Minh cho Côn nhi chơi, thằng bé thông minh, lại cứng cỏi quật cường, nhất định sẽ lắp được. Còn có cả chuỗi chín vòng, xe bùn, chó đất..”
Dương Chính Đạo ôm trán, lộ ra vẻ mặt không còn gì để nói: “Khó khăn lắm đệ mới được đến Dương Châu một lần, lại mang những đồ chơi ngoài chợ này về cho mấy đứa sao?” Lý Khác mân mê hai quả cầu lưu ly trong tay: “Vật hiếm thì quý, những thứ này đều không thường thấy ở Trường An. Không chỉ mấy đứa, Kỳ nhi nhìn thấy, ắt cũng sẽ vui mừng”
“Phải rồi, chỉ cần họ vui là được. Những cái khác đều không quan trọng”
“Vì vậy, huynh cũng đừng nghĩ ngợi lung tung. Những năm qua, chúng ta đã cùng nhau đối mặt với biết bao nguy hiểm. Vui vẻ một chút, được không?”
Dương Chính Đạo không trả lời y, ánh mắt xuyên qua tấm rèm kéo không kín, nhìn những người đi lại vội vã trên con đường lát đá xanh, thở dài một tiếng gần như không thể nghe thấy.
Về đến dịch quán thì giờ Dần đã điểm. Mấy viên chấp sự trong dịch quán đợi sẵn ở ngoài cửa, vồn vã tiến lên đón, thao thao nịnh nọt không tiếc lời. Lý Khác và Dương Chính Đạo chỉ vờ như không nghe thấy, bỏ lại bọn họ ở xa xa đằng sau, đi về phía khoảnh sân nhỏ ở sau hành lang. Lúc đi đến cuối hành lang, chợt nghe thấy chấp sự Hồ Thanh mặc Hồ phục cổ bẻ màu đen đang khẽ hỏi chấp sự Nghiêm Giáp gần ông ta nhất: “Sau đó Đào tiên sinh thế nào?”
Nghiêm Giáp ghé lại gần hơn một chút: “Nghe nói sau khi tỉnh lại, Đào tiên sinh liên tục nói nhảm, đại loại là hồn ma áo đỏ, Triệu vương trở lại nhân gian báo thù gì đó.”
Hồ Thanh hừ mũi: “Triệu vương là ân nhân có thể giữ cho Dương Châu mưa thuận gió hòa, sao lại hại trăm họ Dương Châu cơ chứ? Lão Đào xưa nay cổ hủ tự đại, những lời như vậy xem ra cũng không đáng tin.”
“Không thể tin hoàn toàn, cũng không thể hoàn toàn không tin. Hôm nay..” Nghiêm Giáp bỗng dưng im bặt, nuốt nước bọt mấy lần, mới nhả ra từng chữ: “Hôm nay là mùng mười tháng Ba đấy!”
Lúc này bên trong dịch quán im ắng, ngay cả chim chóc cũng kêu rất ít. Vì vậy dù bọn họ đã nén giọng xuống rất thấp, những lời đó vẫn lọt vào tai Lý Khác và Dương Chính Đạo một cách rõ ràng. Hai người nhìn nhau, không hẹn mà cùng quay người lại. Lý Khác hỏi: “Có chuyện gì vậy?”
Mấy viên chấp sự vội vàng dừng bước, hoảng hốt cúi đầu không nói. Lý Khác biết bên trong ắt có uẩn khúc, bèn chỉ vào Hồ Thanh đang không ngừng vân vê chéo áo, nghiêm giọng: “Ông đấy! Nói rõ đầu đuôi ngọn nguồn đi.”
“Vâng... vâng. Điện hạ.” Hồ Thanh buông tay, nhưng nhất thời không biết nên đặt vào đâu, “Hồi sáng mấy người bọn ti chức nghe được lời bàn tán đầu đường cuối ngõ thì mới biết. Đào tiên sinh là một thầy đồ sống trong ngõ Thanh An. Giờ Tý hôm nay, ông ta uống rượu về qua ngõ thì trông thấy một thiếu niên mặc áo đỏ từ trên trời hạ phàm, đứng trước mặt ông ta, trên ngực còn cắm một thanh chủy thủ. Đào tiên sinh sợ đến nỗi hai chân mềm nhũn, không dám động đậy. Thiếu niên áo đỏ rút dao ra, định đâm vào vai Đào tiên sinh. Đúng lúc này, có một phu điểm canh xách đèn lồng đi qua, thiếu niên áo đỏ mới bay đi. Đào tiên sinh bất tỉnh ngay tại chỗ, hai đại phu chữa suốt một canh giờ mới cứu được ông ta.”
“Chuyện cũng thú vị đấy.” Lý Khác vén áo ngồi xuống ghế ở hành lang, đầy hào hứng hỏi, “Vậy thì có liên quan gì đến Triệu vương?”
Trong khi Hồ Thanh cụp mắt suy nghĩ, lại thấy Nghiêm Giáp tiến lên một bước, cúi người vái nói: “Điện hạ, cái này ti chức biết. Lúc bị hại Triệu vương mặc áo đỏ, mà tuổi tác của Triệu vương cũng xấp xỉ thiếu niên mà Đào tiên sinh mô tả. Vả lại, ngõ Thanh An trước đây vốn là hành cung Giang Đô năm xưa. Hơn nữa, hôm nay là ngày giỗ của Triệu vương.”
Dương Chính Đạo cắn chặt môi dưới, nhìn chằm chằm mấy người trước mặt bằng ánh mắt sáng quắc, nói lớn tiếng: “Toàn là nói bậy!”
Nghiêm Giáp đang hứng khởi nói thì đột nhiên bị cắt ngang, có phần không phục muốn bĩu môi, nhưng lại không dám biểu lộ ra mặt, đành vâng dạ: “Ti chức không dám nói bừa. Nếu không phải như vậy, thì tại sao miếu Đồng Tử vừa bị thiêu hủy là lập tức xuất hiện thiếu niên áo đỏ này? Vả lại, phu điểm canh nói, thiếu niên đó vừa thấy đèn lồng liền bay đi ngay. Quân hầu nghĩ mà xem, chẳng phải hồn ma đều sợ ánh sáng sao?”
“Hình như đúng là hơi có lý.” Dương Chính Đạo nhìn nhúm tóc bạc trên đỉnh đầu Nghiêm Giáp, lạnh lùng nói, “Ông nói chơi, ta cũng nghe chơi. Nghiêm túc như vậy làm gì? Điện hạ, chúng ta đi thôi. Tiền đệ thắng ta hôm qua, ta phải thắng lại mới được.”
Nghiêm Giáp có vẻ còn muốn nói thêm điều gì đó, lại bất ngờ bị Hồ Thanh khẽ giẫm một cái, đành miễn cưỡng nuốt xuống đầy một bụng lời định nói. Lý Khác trông thấy, nhưng chỉ dặn dò một câu: “Nói với quản gia trong phủ, món thăn bò ông ta xào ngon đến nỗi làm người ta ê răng. Hôm nay nhất định phải đổi cho ta món khác.”
Mấy viên chấp sự vâng vâng dạ dạ, thi lễ xong liền rời đi.
Lý Khác nhìn theo bóng lưng bọn họ, vội hỏi: “Huynh đang nghĩ gì vậy?”
Dương Chính Đạo cảnh giác nhìn xung quanh, ra dấu im lặng: “Chúng ta vào phòng rồi nói.”
Đỗ Húc biết họ ắt sẽ về vào lúc này, nên đã chuẩn bị nước giải khát cho họ từ sớm. Dương Châu tháng Ba hơi oi bức, uống một cốc nước giải khát, trong bụng đã mát rười rượi. Lý Khác cảm thấy chưa đã, liền rót thêm một cốc, uống một ngụm lớn rồi nói: “Hình như còn thoang thoảng có vị thuốc”
“Không sai, ta học được từ một đại phu dân gian ở Trường An. Giã nhuyễn lê, vải, dâu, rồi bỏ hoa kim liên và thổ phục linh vào, đun nhỏ lửa nửa canh giờ, đợi nguội là uống được. Không chỉ ngon miệng mà còn có công dụng thanh nhiệt giải độc. Mùa hè còn có thể cho thêm chút đá, vị sẽ càng ngon hơn.”
“Huynh không cần nói kỹ như vậy, dù sao ta cũng không nhớ được.” Lý Khác lấy khăn lau hai giọt nước vãi trên bàn, “Chuyện này rất kỳ lạ. Đêm qua miếu Đồng Tử vừa mới bị cháy, hôm nay đã lan truyền tin đồn hồn ma Triệu vương hại người, lại còn sinh động như thật. Nếu không kịp thời tra rõ chân tướng, thì không chỉ làm hỏng danh tiếng của Triệu vương, mà còn khiến người dân hoang mang sợ hãi.”
Dương Chính Đạo cau mày: “Ta biết. Chuyện quỷ thần tuy thời nào nơi đâu cũng có, nhưng mà, đã để chúng ta bắt gặp, lại còn liên quan đến Triệu vương, thì tất nhiên phải làm cho ra nhẽ.”
Lý Khác lấy tay chống đầu, chậm rãi xoa đôi mắt mệt mỏi, nói như đang nằm mơ: “Nơi đây năm xưa nhất định là một địa ngục trần gian. Toàn bộ những người đáng chết, không đáng chết đều chết cả. Biểu huynh, giả như không phải trời xui đất khiến, chúng ta cũng sẽ không còn sống trên đời. Huynh có biết vị trí cũ của hành cung Giang Đô giờ ở đâu không?”
“Ngoài ngõ Thanh An, còn có ngõ Vĩnh An, ngõ Bồng Lai, ngõ Bình Ninh, hai khu đất hai bên cầu Thích Gia chắc cũng phải.” Dương Chính Đạo đang nói, đột nhiên ngoảnh đầu hỏi, “Đệ định thế nào?”
“Đợi thêm đi. Xưa nay ta không sợ quỷ thần, càng không sợ những kẻ giả thần giả quỷ!”
Dương Chính Đạo mỉm cười nhìn y, gật đầu, lặng im không nói.
Dùng bữa tối xong, hai người thay quần áo văn nhân bình thường chuẩn bị ra ngoài. Vừa bước đến bụi trúc lùn ở mé Đông dịch quán thì thấy Trịnh Đạc dẫn theo mấy bổ khoái hớt hải đi tới. Trông thấy hai người, bọn họ vội lúc cúc chạy lại, cúi người vái chào: “Điện hạ, quân hầu, hạ quan vừa từ nhà Triệu A Cửu ở thôn Mi Vu về, quả nhiên có một số phát hiện quan trọng.”
Lý Khác tiện tay ngắt một chiếc lá trúc, cầm chơi trong tay: “Vừa đi vừa nói nhé.”
Trịnh Đạc hơi béo, chắc do chạy gấp nên hai má đỏ ửng lên: “Hạ quan không thấy Triệu A Cửu, liền sai người lục soát phòng của hắn, trong ngăn bí mật dưới gầm giường, phát hiện ra hai hũ rượu mạnh và dầu thông chỉ còn lại một nửa. Vì vậy hạ quan cảm thấy hắn có đủ điều kiện để phóng hỏa.”
Lý Khác chỉ cảm thấy ngón tay dính nhơm nhớp do nước từ lá trúc, rất khó chịu, liền lấy một chiếc khăn trong tay áo ra lau. Lau một lúc, y mới nhớ ra là nên trả lời Trịnh Đạc một câu: “Có điều kiện chưa chắc đã có bụng dạ.”
Trịnh Đạc đứng phía dưới Lý Khác, lúc mở miệng lần tiếp theo, hơi thở đã bình ổn lại nhiều: “Hạ quan cũng nghĩ như vậy. Cho nên hạ quan còn hỏi mấy người dân trong làng quen biết Triệu A Cửu, bọn họ đều nói, thường ngày hắn toàn làm ăn bên ngoài, không hay về nhà. Có điều, hạ quan cũng thăm dò được, hắn và Tưởng Thổ Căn đúng là có quen nhau.
“Tốt đấy. Chỉ trong nửa ngày ngắn ngủi ông đã điều tra được không ít thứ. Vậy tiếp theo đây ông định làm gì?”
Trịnh Đạc suy nghĩ rồi nói: “Hạ quan tính phát cáo thị, truy nã Triệu A Cửu toàn thành. Điện hạ, ngài thấy có được không?”
Lý Khác đứng dậy, hững hờ nói: “Tùy ông”
“Đệ thuận miệng nói ‘tùy ông, chẳng biết tay Trịnh thứ sử đó sẽ suy đoán như nào nhỉ?” Dương Chính Đạo giãn đôi mày cười nhạt, ngay sau đó lại hỏi, “Giờ chúng ta đi đâu?”
Lý Khác ngước mắt nhìn bầu trời âm u, thắt chặt vạt áo: “Tới ngõ Thanh An xem trước đi. Vừa nãy đáng ra phải bảo Quý Thành chuẩn bị ngựa, mới đi có một lúc đã thấy mệt rồi.
Dương Chính Đạo nghe y nói vậy, không khỏi lộ vẻ quan tâm: “Gần đây sức khỏe của đệ vẫn tốt chứ? Vết thương cũ trên tay thật sự không tái phát nữa chứ? Đợi lát nữa về ta sẽ khám cẩn thận cho đệ”
“Chuyện bé xé ra to!” Nói rồi Lý Khác liền rảo bước tiến lên.
Dương Chính Đạo nhìn hai ngọn đèn lưu ly vàng vọt treo trước quán trọ đầu ngõ, vội vàng đuổi theo. Trong ngõ Thanh An có hơn trăm hộ gia đình, quá nửa là tiểu thương và thợ thủ công. Lúc này trời đã tối, nhà nhà đều có khói bếp lững lờ bay lên, mang theo những mùi thơm hấp dẫn. Dương Chính Đạo khẽ than một tiếng: “Không biết nhà nào đang nấu cơm kê, chắc là ngon lắm.”
“Vậy ngày mai bảo quản gia nhà bếp nấu.” Lúc hai người bước đến cuối ngõ, Lý Khác bỗng cảm thấy mình giẫm phải thứ gì đó, lộm cộm làm y khó chịu. Y liền dịch chân, cúi người nhặt thứ đó lên hỏi: “Cái này dùng để làm gì?”
Dương Chính Đạo vội lại gần nhìn: “Gân bò này hình như dùng để làm ná thun. Còn lò xo... đệ đúng là làm khó ta rồi.”
Lý Khác cất hai thứ đó vào trong đai ngọc của mình, chỉnh lại vạt dưới áo bào: “Không biết cũng chẳng sao. Đây chắc là nơi Đào tiên sinh xảy ra chuyện theo lời hai viên chấp sự đó. Biểu huynh, huynh có nhìn ra manh mối gì không?”
“Không” Dương Chính Đạo trả lời vô cùng nhanh gọn dứt khoát, “Có điều đây là nơi khuất nẻo nhất con ngõ này rồi, không chừng lũ ma quỷ thật sự sẽ thích”
Lý Khác biết thừa gã đang nói đùa, nhưng vẫn trả lời rất nghiêm túc: “Cũng có lý.”
Đang nói chuyện thì thấy hai chú chim vàng anh từ đằng sau bay tới, đáp trên vai hai người trong chốc lát, rồi lại bay đi, đậu lên trên tường bao. Lý Khác và Dương Chính Đạo bất giác đưa mắt nhìn lên theo chúng. Chim vàng anh có tiếng hót véo von, trông lại vô cùng nhỏ nhắn dễ thương, cho nên người khắp một dải Giang Nam đều rất thích nuôi trong nhà. Trông trên chân hai chú chim này vẫn còn buộc dây xích nhỏ, chắc là từ trong nhà dân nào đó sổ ra.
“Đệ mau nhìn xem. Dương Chính Đạo nhanh chóng chuyển ánh mắt từ chú chim vàng anh sang mấy viên ngói xanh bên cạnh, “Lạ thật. Trên tường bao cao thế này, sao lại có mấy vết móc câu sâu như vậy?”
“Hơn nữa còn rất mới, chắc cũng mới xuất hiện trong mấy ngày nay thôi. Lý Khác xoa cái cổ hơi nhức mỏi, nói với vẻ trầm ngâm, “Bên kia bức tường là dinh phủ của Trần viên ngoại trí sĩ mấy năm trước. Lẽ nào có gian tặc trèo tường trộm cắp sao?”
Dương Chính Đạo ngẩng đầu: “Có lẽ vậy. Lát nữa bảo người qua phủ thứ sử hỏi là biết ngay”
Gió nhẹ khẽ lướt qua, mang theo mùi hương cỏ thanh mát, còn mang tới cả mấy tiếng nức nở mơ hồ loáng thoáng. Hai người theo tiếng mà đi, nhìn thấy cạnh một gốc liễu lớn cách đó không xa, có một cậu thiếu niên khoảng mười hai mười ba tuổi đang khóc rưng rức, chốc chốc lại ló đầu ra, nhìn về phía ngôi tiểu viện trước mặt.
“Hình như ta đã gặp cháu ở đâu rồi. Cháu là con cái nhà nào? Lạc đường à?” Lý Khác bước đến trước mặt cậu ta, ngồi xổm xuống hỏi.
Cậu thiếu niên cúi đầu, dùng móng tay trỏ chậm rãi róc vỏ cây. Giờ Lý Khác mới để ý thấy, dưới mắt cậu ta có một vết sẹo nông, trông vô cùng lạc lõng trên khuôn mặt vốn trắng trẻo thanh tú.
Thấy cậu ta không nói, Lý Khác không nhịn nổi, lại hỏi một câu: “Cháu muốn đến nhà này à? Ta gõ cửa giúp cháu nhé, được không?”
Cậu thiếu niên nghe thấy câu này, đột nhiên biến sắc, lắc đầu quầy quậy: “Đào tiên sinh, ông ấy... ông ấy không thích cháu.”
“Cháu là học trò của Đào tiên sinh à? Cháu tên là gì?” Lý Khác thấy ngón tay róc vỏ cây của cậu hơi run lên, sợ sệt giống như một con thú nhỏ bị thương, bèn đổi sang giọng dịu dàng hơn, “Ta là bạn của ông ấy. Ta cùng cháu đi vào hỏi thăm ông ấy nhé, được không?”
“Cháu... cháu tên là Diêu Quang Tổ. Cháu... cháu không đi đâu. Cậu thiếu niên nhìn ánh mắt chờ đợi của Lý Khác, cuối cùng ngập ngừng mở miệng. Nói xong, cậu liền đứng lên, cắm cổ chạy thẳng, không ngoái đầu lại.
“Thành Dương Châu này đúng là rất thú vị, ngay cả tâm tư một đứa trẻ cũng khiến người ta không mò ra được.” Dương Chính Đạo nhìn chằm chằm vào bóng lưng đã rời xa của cậu bé, khẽ nhíu đôi mày, vê ngón tay theo thói quen, “Bỏ đi, cứ mặc kệ nó đã. Không còn sớm nữa, chúng ta về thôi! Món bánh anh đào nãy sai người làm chắc cũng xong rồi.”
Vào lúc mặt trời lặn ngày sau, Trịnh Đạc vừa bận rộn gần như cả ngày trong phủ thứ sử lại hớt hải chạy đến dịch quán Dương Châu. Sắc mặt của ông ta rất khó coi, hốc mắt trũng sâu, môi hơi bọt bạt, ngay cả bộ dạng đi đường cũng có phần loạng choạng. Trưởng sử Phùng Vạn Tề ở đằng sau phải đỡ Trịnh Đạc mấy lần, nhưng khuôn mặt của ông ta vẫn lộ rõ vẻ sợ hãi không che giấu nổi.
Lý Khác nhìn họ một thoáng, liền bảo Quý Ân lấy hai hũ rượu nữ nhi hồng dưới hầm rượu ở hậu viện ra đặt trước mặt họ: “Người đời đều nói uống rượu sẽ thêm can đảm, các ông cũng thử một chút đi! Bản vương không muốn tiếp tục trông thấy bộ dạng rụt rè sợ sệt này của các ông nữa. Có lời gì thì đợi tinh thần ổn định rồi hẵng nói.”
Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề quay mặt nhìn nhau, do dự hồi lâu, cuối cùng vẫn nâng hũ rượu lên, uống liền mấy ngụm mới đặt xuống. Trong không khí lập tức ngập tràn mùi rượu nồng nặc, xưa nay Lý Khác không quen ngửi mùi này, không kìm nổi ho mấy tiếng. Quý Ân vội mở hết toàn bộ cửa nẻo trong phòng, đem chỗ rượu họ uống còn thừa ra ngoài.
“Điện hạ, lại xảy ra chuyện rồi! Ngài xem cái này trước đi.” Hai má Trịnh Đạc đỏ gay, ông ta hít sâu một hơi, mở cái bọc cầm trong tay nãy giờ ra, lấy một thanh đoản đao và một chuỗi vòng tay bạch ngọc đưa cho Lý Khác.
Lý Khác thấy trên vỏ đao có khảm một viên lam bảo thạch xỉn màu, sống đao hơi gỉ sét, nhưng lưỡi đao trông vẫn sắc bén. Còn vòng tay bạch ngọc... Lý Khác nhíu mày, cúi đầu nhìn ba viên ngọc mỡ dê trên cổ tay mình hỏi: “Những thứ này là gì?”
Trịnh Đạc nói với giọng bình tĩnh nhất có thể: “Lý trưởng đến báo, ông lái thuyền Lâm Đại Mộc ở ngõ Vĩnh An đêm qua bị giết trước cửa nhà. Thanh đoản đao này, còn cả chuỗi vòng tay, đều là những thứ tìm được ở bên cạnh ông ta.”
Lý Khác đặt lại hai thứ này vào trong bọc, ngẩng đầu lên hỏi thẳng: “Cướp của hay là báo thù?”
Trịnh Đạc lắc đầu: “Hạ quan đã hỏi người nhà và hàng xóm của ông lái thuyền, mọi người đều bảo, Lâm Đại Mộc là người trung hậu, chưa bao giờ kết oán với người khác. Mà người nhà còn tìm thấy túi vải đựng bạc vụn trên người ông ta, có thể thấy, cũng không phải là cướp của.
“Đều không phải à... lẽ nào vẫn là bị ác ma đoạt mạng sao?”
“Điện hạ anh minh.” Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề không hẹn mà cùng đứng dậy. Một lát sau, Trịnh Đạc lại nói tiếp: “Lâm Đại Mộc bị đâm trúng ngực, nhưng không chết ngay tại chỗ. Người nhà bảo, ông ấy kêu liền ba tiếng ‘ma áo đỏ, rồi mới tắt thở.”
“Ma áo đỏ, ma áo đỏ...” Lý Khác nhắc lại mấy lần, “Nghe nói, đêm hôm kia cũng có người nhìn thấy thiếu niên áo đỏ đó, đúng không?”
“Vâng” Phùng Vạn Tề gật đầu lia lịa, “Lúc đó lý trưởng báo chuyện này cho hạ quan, hạ quan còn đích thân dẫn người đi gặp Đào tiên sinh. Cảnh tượng đó... quả thật khiến người ta khó quên! Có điều cũng khó trách, ai bảo Triệu vương chết thảm như thế!”
Lý Khác nghiêm nghị nói: “Các ông đã khẳng định thiếu niên áo đỏ đó là hồn phách của Triệu vương sao?”
Hai vai Phùng Vạn Tề bất giác run lên, ông ta chỉ vào cái bọc nói: “Bác của hạ quan là một hộ vệ của hành cung Giang Đô, ông ấy nói thanh đoản đao và chuỗi vòng tay này là vật yêu thích của Triệu vương. Điện hạ, ngài nhìn kỹ lại chữ khắc trên chuôi đao mà xem.”
“Ta biết” Lý Khác ngước mắt quan sát những biểu cảm nhỏ nhặt trên mặt ông ta, nói giọng ung dung điềm đạm, “Quý Tử, đúng không? Đó là tên tục của Triệu vương. Hồi nhỏ, thỉnh thoảng mẹ có nhắc đến nó với ta. Trừ những người chí thân, chắc rất ít người biết đến cái tên này. Vì vậy, bác của ông không nói láo.”
Phùng Vạn Tề buông đôi tay nãy giờ nắm chặt trước ngực, cuối cùng vẻ mặt cũng giãn ra đôi chút, giọng nói cũng lưu loát hơn nhiều: “Điện hạ nói phải. Nơi Triệu vương trú ngụ sau khi chết là miếu Đồng Tử vô cớ bị hủy, xem ra Triệu vương đã coi trăm họ Dương Châu là những kẻ vong ơn bội nghĩa, nên mới ra tay với Đào tiên sinh và Lâm Đại Mộc sống trên nền cũ của hành cung Giang Đô. Bọn họ... cũng thật là xui xẻo!”
Đáy mắt của Lý Khác thấp thoáng nét cười không dễ nhận ra: “Tuy khó bề tưởng tượng, nhưng cũng không thể nói là hoàn toàn vô lý. Vậy thì hôm nay các ông đến đây với mục đích gì?”
Phùng Vạn Tề nhìn Trịnh Đạc, liền đứng dậy, quỳ gối vái sâu một vái: “Bọn hạ quan nhất định sẽ dốc toàn lực truy bắt nghi phạm phóng hỏa Triệu A Cửu. Nhưng trước đó, xin Ngô vương điện hạ và Tuyên Bình hầu khuyên giải Triệu vương, đừng lạm sát người vô tội nữa..”
Bên ngoài có tiếng sấm xuân vang lên, át đi những lời kế tiếp của Phùng Vạn Tề. Lúc này, bầu trời đầy mây đen, dường như đang chuẩn bị cho một trận mưa bão kinh hồn. Đêm qua Lý Khác ngủ không yên giấc, chỉ cảm thấy cay mắt khó chịu. Y dụi mắt, hững hờ nói: “Người ma khác lối, biết gặp thế nào? Hơn nữa, sao các ông biết Triệu vương sẽ nghe lời bọn ta?”
Trịnh Đạc cũng đứng lên, ánh mắt sáng lên như thể nhìn thấy báu vật quý hiếm: “Điện hạ và quân hầu đều là người thân cận nhất của Triệu vương, chỉ cần hai ngài ra mặt, Triệu vương ắt sẽ chủ động tìm đến. Chỉ cần hai ngài nói rõ đại nghĩa, lại lấy tình thân cảm hóa, Triệu vương bản tính lương thiện khoan hòa, tất nhiên sẽ nghe theo.
“Thật sao?” Rất nhiều “chuyện ma” xảy ra trong vài ngày ngắn ngủi đang quay cuồng trong đầu Lý Khác, dường như y loáng thoáng cảm nhận được gì đó, nhưng nhất thời lại không chạm được vào chân tướng ẩn sâu sau lớp lớp sương mù. Thế là y đành cáu kỉnh xua tay bảo bọn họ lui xuống. Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề đưa mắt nhìn nhau, vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng cuối cùng cũng chỉ đồng thanh “vâng” một tiếng.
Mưa ở Giang Nam hết sức dịu dàng, bao giờ cũng rơi thăm dò trước mấy hạt, rồi từ từ phớt qua má, luồn vào cổ người ta, mang đến chút mát mẻ thấm vào tim cho tiết trời ngột ngạt. Lúc Dương Chính Đạo bước vào, từ tóc đến vạt áo trước đã dính đầy nước mưa. Nhưng mà, một công tử hào hoa phong nhã như gã, dù có nhếch nhác hơn nữa, cũng mang một phong thái khiến người khác không rời mắt nổi.
Lý Khác không khỏi trách móc: “Sao lúc nào ra ngoài huynh cũng không thích mang ô thế? Mới sáng sớm mà huynh đã đi đâu vậy?”
“Không thích thì không thích thôi, đâu ra lắm lý do như vậy?” Dương Chính Đạo nhận lấy chiếc khăn y đưa cho, lau nước mưa trên trán, phản bác: “Ở thư viện Kiến Hiền ta đã nghe ngóng được một số chuyện, quả đúng như đệ và ta dự đoán. Ngoài ra, ta còn đến hậu viện của miếu Đồng Tử xem thử, phát hiện ra mấy việc thú vị. Cơ mà, điều thú vị hơn là, bọn họ lại không hề nói mấy việc đó cho chúng ta.”
Lý Khác rót một chén trà nóng đưa cho Dương Chính Đạo, hoài nghi nói: “Thú vị đến thế sao?”
“Đúng vậy. Vì ta nhìn thấy đất dưới gốc cây dương liễu ở hậu viện không được chặt, rõ ràng mới được người ta đào lên không lâu” Dương Chính Đạo chậm rãi xoa bông sen trắng trên thân chén, “Vốn dĩ cũng chẳng thú vị lắm. Nhưng lúc về ta lại nghe thấy lời đồn về Lâm Đại Mộc đang được lan truyền nhanh chóng trong phường. Thế là... đệ nghĩ kỹ xem, rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra?”
Lý Khác từ từ siết tay thành nắm đấm: “Rất đơn giản, kẻ đó đào được đoản đao và chủy thủ mà hồi còn sống Triệu vương sử dụng ở hậu viện của miếu Đồng Tử, giết ông lái thuyền Lâm Đại Mộc, khiến tất cả mọi người đều cho rằng linh hồn Triệu vương tới báo thù. Giả như tìm được kẻ đó thì chuyện này có thể sẽ xong ngay. Đúng rồi, huynh chắc chắn bọn họ cố ý giấu manh mối quan trọng này không để cho chúng ta biết, chứ không phải là bọn họ mắt kèm nhèm không phát hiện ra chứ?”
“Không chắc. Nhưng mà, ta thà tin bọn họ cố ý giấu giếm, còn hơn là tin bọn họ nhìn mà không thấy những manh mối rõ ràng như thế. Vì vậy, ta vẫn phải đi một chuyến.
“Ta đi với huynh.” Lý Khác đứng dậy, tiến lên hai bước, lại ngoảnh đầu nói với Đỗ Húc nãy giờ đứng hầu ở một bên, “Ngươi đi báo với Trịnh thứ sử một tiếng, tối nay ta và công tử nhà ngươi sẽ đi bắt ma ở ngõ Vĩnh An và ngõ Bồng Lai, bảo ông ta phái người nấp ở chỗ tối bảo vệ bọn ta.
Đỗ Húc ngớ người, tỏ vẻ “hai ngài cần gì người khác bảo vệ” đầy kinh ngạc. Dương Chính Đạo đằng hắng một tiếng nhắc nhở: “Bảo ông ta gọi nhiều người một chút, tốt nhất là gọi cả nha phủ đến. Ta thì cũng thôi, nhưng nếu Ngô vương xảy ra chuyện gì, có tin là bệ hạ sẽ đày cả nhà ông ta đến Lĩnh Nam cuốc đất không?”
“Vâng vâng vâng, tiểu nhân đi ngay đây.” Đỗ Húc nói xong, liền chạy vụt đi mất hút.
Lý Khác nhìn bụi bặm bốc lên, lắc đầu dở khóc dở cười: “Bệ hạ đâu phải là người không màng đến lý lẽ như vậy?”
“Không tin đệ cứ thử mà xem.” Dương Chính Đạo trả lại chiếc khăn tay vừa nãy cho Lý Khác, nhìn bộ trang phục thân vương vô cùng oai nghiêm của y, “Mau thay bộ quần áo phô trương này đi. Mưa khó khăn lắm mới ngớt đấy”
Ngựa hai người cưỡi là do dịch quán Dương Châu nuôi dưỡng, tuy sức bền và sức lao không so được với Lưu Phong và Xích Phong, nhưng may mà vẫn hiểu tính người, bảo bọn chúng không được kêu, trên đường liền im phăng phắc, ngay cả tiếng vó ngựa giẫm lên phiến đá xanh cũng trầm trầm nặng nề.
Đi chậm rãi hơn nửa canh giờ, mới thấy một ngôi nhà mới xây chưa lâu nằm ở ngõ Thanh An. Dương Chính Đạo nhẹ nhàng xuống ngựa, buộc ngựa vào một cây du cổ thụ ở đầu ngõ: “Ta đi gõ cửa.
Mở cửa là một người đàn bà tuổi trạc tứ tuần, quấn búi tóc lỏng lẻo. Bà ta ném ánh mắt không mấy thân thiện về phía họ: “Nếu muốn thuê trọ thì đi thẳng về phía Bắc có một quán trọ cũ kỹ tên là Huệ Lai, nhà chúng tôi không cho người ngoài ngủ lại.”
Dương Chính Đạo thấy bà ta định đóng cửa tiễn khách, vội đưa tay chặn cửa, lấy một tấm lệnh bài giắt ở thắt lưng ra: “Bọn ta là người của phủ thứ sử, phụng mệnh đến thăm hỏi Đào tiên sinh”
Người đàn bà bán tín bán nghi cầm lấy tấm lệnh bài nhìn lướt qua, lập tức biến sắc, vén áo vái chào, cười giả lả: “Dân phụ Đào Lâm thị bái kiến hai vị công tử. Mời hai vị”
Nhà họ Đào không quá rộng, vào cổng là thấy một cái giếng đá nằm trơ trọi trong sân. Trái phải là hai gian phòng nhỏ đối xứng, trên hành lang ở giữa có không ít dấu chân đen lẫn bùn đất. Đào Lâm thị đi trước, chốc chốc lại ngoảnh đầu, hơi lộ vẻ bối rối: “Hai vị cẩn thận, đừng để bẩn giày. Tôi vừa nhổ cỏ trong vườn rau ở hậu viện về, còn chưa kịp quét dọn.
“Đa tạ phu nhân nhắc nhở.” Dương Chính Đạo hơi kéo ống quần lên, “Sức khỏe của Đào tiên sinh hôm nay thế nào rồi?”
Đào Lâm thị nói: “Đã khá hơn nhiều rồi. Công tử đi gặp ông ấy sẽ biết.”
Lúc này Đào Phủ Sâm đang đứng trong thư phòng của nhà trong. Sắc mặt ông ta vàng bủng, lúc nói chuyện hai tay liên tục run lên khe khẽ, tuy ông ta đã gắng hết sức để đè nén tâm trạng hoảng loạn, nhưng những vui mừng và sợ hãi sau khi tai qua nạn khỏi vẫn tuôn ra từ trong mắt, không sao kìm được. Lý Khác ngồi trước án thư, giở đại một tập thơ thời Hán Ngụy Lục Triều ra xem.
“Trong núi có gì nhỉ, đỉnh non mây trắng trời. Chỉ riêng mình thích thú, không thể gửi cho người.” Lý Khác cất giọng sang sảng đọc bốn câu thơ này lên, rồi lập tức gấp tập thơ lại, mỉm cười nói, “Đào Hoằng Cảnh tuy ở ẩn trong núi, nhưng chưa hoàn toàn quên tình đời, Lương Vũ Đế gặp việc khó cũng thường đích thân đến bái phỏng, cho nên người đời sau mới gọi ông ta là ‘tể tướng trong núi. Có điều, luận về tài thơ, trong thời loạn Nam Bắc triều nhân tài đầy rẫy, ông ta thực sự không xuất chúng. Nhưng ông lại xếp bài thơ này của ông ta ở vị trí đầu tiên, xem ra, chắc hẳn ông là hậu duệ của ông ta nhỉ?”
Ánh mắt của Đào Phủ Sâm dán chặt xuống đất, nghe thấy mấy câu này, ông ta mới hơi ngẩng đầu lên: “Công tử nói không sai. Học trò xưa nay khâm phục nhân phẩm tính cách của tiền nhân, nên dù từng có cơ hội làm quan, học trò cũng muốn sống ở căn nhà chật hẹp này, lấy việc dạy học làm nghề hơn, chỉ mong sau này có thể bồi dưỡng được một người có tài quan tướng cho đất nước.”
“Chí hướng của tiên sinh cũng khá cao đấy.” Lý Khác đứng dậy, đặt lại quyển sách lên trên giá, bước chậm rãi đến trước mặt Đào Phủ Sâm, “Chỉ là, tiên sinh có biết, làm một người thầy dạy học chuẩn mực, điều gì còn quan trọng hơn cả bồi dưỡng nhân tài quan tướng không?”
Đào Phủ Sâm sửng sốt, không cầm lòng được nhìn Lý Khác, buột miệng nói: “Là gì?”
“Là đối xử bình đẳng!” Lý Khác điềm nhiên cười nhạt, “Thiên tư