Chương 26 Hạng Trang múa kiếm
Lúc họ ra khỏi nhà họ Đào thì đã là nửa đêm. Trăng tròn treo cao, gió khuya hây hẩy. Từ khi đến Dương Châu, hình như đây là lần đầu tiên Lý Khác thấy ánh trăng dịu dàng tươi đẹp như vậy, nhưng khi đắm chìm trong nó, lại cảm thấy một sự chua xót ập đến nhanh chóng. Trăng Trường An, có phải cũng đẹp đẽ sáng ngời như vậy không? Người Trường An, có phải cũng ngước mắt nhìn trời, cười tươi như hoa thế này không?
Dương Chính Đạo từ từ thả lỏng dây cương trong tay, cúi người xuống, vòng hai tay quanh cổ ngựa. Lý Khác vỗ nhẹ lên cổ ngựa, lại gần gã hơn một chút hỏi: “Sao thế?”
“Không chỉ có một mình đệ nhớ Trường An. Dương Chính Đạo không nhìn y, chỉ nói bằng giọng nhẹ nhàng từ tốn, “Ta và Tuyết Lộ thành thân đã nhiều năm, đây là lần đầu tiên ta không cùng nàng đón sinh nhật. Ta không biết còn có thể ở bên nàng bao lâu nữa, nhưng chỉ cần còn lại một giờ một khắc, ta đều sẽ trân trọng”
“Huynh đang nói linh tinh gì thế? Sao huynh và Tuyết Lộ lại không thể lâu dài mãi mãi chứ?” Lý Khác giơ tay giật mạnh dây cương của gã lại, ép gã nhìn về phía mình. Con ngựa sợ hãi hí vang chồm vó trước lên, Dương Chính Đạo đành buông hai tay, ưỡn thẳng người, dùng sức dận chắc vào bàn đạp, mới không đến nỗi ngã từ trên lưng ngựa xuống. Giờ Lý Khác mới giật mình cảm thấy vừa rồi đã quá nóng nảy, mang tai ửng đỏ vì căng thẳng. Sao y lại quên rằng, đây không phải là ngựa mà bọn họ chăm sóc từ nhỏ cơ chứ?
Dương Chính Đạo vuốt ve bờm ngựa để vỗ về, dường như hoàn toàn không để tâm đến tình cảnh nguy hiểm vừa rồi: “Biết rõ là ta nói linh tinh, đệ còn kích động như thế làm gì? Lâu dài mãi mãi của ta và Tuyết Lộ gắn liền với đệ. Đệ từng nói là sẽ bảo vệ chu toàn tất cả chúng ta mà.”
“Chẳng ra sao cả!” Lý Khác bực mình thốt ra bốn chữ này, rồi vung roi ngựa, chạy như bay về phía trước.
Hai người vừa đến cuối ngõ Thanh An thì thấy một bóng người đi loạng choạng về phía họ, chưa được mấy bước, đã ngã dúi dụi xuống đất, miệng chỉ lặp đi lặp lại ba chữ: “Cứu tôi với, cứu tôi với...”
Lý Khác thấy vậy, vội vàng nhảy xuống ngựa. Lúc này y mới nhìn rõ dưới thân người đó có một vũng máu đỏ, ánh trăng chiếu rọi lộ ra đôi môi trắng bệch.
“Ông là Nghiêm Giáp?” Lý Khác đỡ vai ông ta, gấp gáp hỏi, “Là kẻ nào làm?”
Nghiêm Giáp cố hết sức hé mắt ra, mở miệng nhả chữ nhỏ như muỗi kêu: “Áo đỏ... ma áo đỏ. Là Triệu vương... Triệu vương giết tôi...”
Sau khi nói xong chữ cuối cùng, Nghiêm Giáp yếu ớt nhắm mắt lại.
Lại là Triệu vương.
Lý Khác nghiến răng, siết chặt bàn tay thành nắm đấm, đặt Nghiêm Giáp nằm thẳng trên mặt đất. Y cưỡi ngựa quay lại, thấy Dương Chính Đạo đang chậm chạp đi tới, liền vội vàng kéo tay áo gã: “Mau... mau cứu người.”
Lúc này Nghiêm Giáp đang nằm bất động, vết thương trên ngực vẫn đang ứa máu. Dương Chính Đạo bắt mạch ở tay và cổ ông ta, khẽ thở phào: “Vẫn cứu được.”
“Như này mà vẫn cứu được? Cứu thế nào?”
“May mà ta luôn mang theo bên mình.” Dương Chính Đạo lấy ra một nắm châm nhỏ từ trong túi gấm treo trên lưng ngựa, “Cởi áo ông ta giúp ta, sau đó đi ra đằng sau ta, đừng chắn mất ánh trăng”
Lý Khác vừa đáp lời vừa cẩn thận cởi hết áo trong áo ngoài của Nghiêm Giáp ra, Dương Chính Đạo nhanh chóng châm liền ba mũi vào ngực và cổ ông ta. Nghiêm Giáp chợt cựa quậy, ho khẽ mấy tiếng. Lý Khác mừng rỡ nói: “Biểu huynh, may mà có huynh. Giờ phải làm thế nào?”
“Tạm thời không thể tùy tiện di chuyển. Ta sẽ ở lại trông, đệ mau về dịch quán gọi xe ngựa, gọi thêm cả mấy đại phu tới đây. Ta chỉ có thể ổn định thương thế của ông ta, chứ không chữa trị được.”
“Được. Huynh đợi nhé, ta đi ngay đây”
Nhát dao đó đâm rất sâu, nhưng không trúng chỗ hiểm. Đến trưa ngày hôm sau, Nghiêm Giáp khôi phục thần trí, kể lại sơ lược những gì đã xảy ra. Đêm qua ông ta đến ngõ Thanh An theo lời mời của một người bạn cũ, nhưng đợi mãi đến giờ Tuất vẫn không thấy bóng dáng người bạn đó đâu, thế là ông định về nhà. Nhưng đúng lúc quay người, ông ta bỗng dưng bị một thiếu niên mặc áo đỏ vô duyên vô cớ đâm con dao trong tay vào ngực. Trước khi ông ngã xuống đất, thiếu niên đó đã lắc người biến mất cực nhanh.
“Xem ra, một ngày chưa bắt được Triệu A Cửu, Triệu vương sẽ không thu tay” Trịnh Đạc vỗ ngực, trong lòng vẫn còn sợ hãi, “Tối qua, hạ quan và Phùng trưởng sử đích thân dẫn người mai phục ở ngõ Vĩnh An và ngõ Bồng Lai. Không ngờ, Triệu vương lại tới ngõ Thanh An. May mà Nghiêm Giáp mạng lớn, gặp được điện hạ và Tuyên Bình hầu.”
“Đúng vậy! Quả là mạng lớn.” Lý Khác nói, “Tối qua trước khi đi chúng ta đã đổi ý, tới ngõ Thanh An tìm người bị hại đầu tiên là Đào tiên sinh để hỏi mấy câu. Chúng ta dùng thân phận phủ thứ sử của ông, ông không để bụng chứ?”
Khóe miệng Trịnh Đạc hơi giần giật, gắng gượng nặn ra một nụ cười: “Tất nhiên là không ạ. Điện hạ có hỏi được gì không?”
“Những gì Đào tiên sinh gặp phải không khác với lời đồn là bao.”
“Vậy thì tốt.” Trịnh Đạc buột miệng nói, nhưng ngay lập tức cảm thấy nói như vậy quá đa nghĩa, vội vàng bổ sung một câu, “Ý của hạ quan là, không phải nhân họa là tốt rồi”
“Tất nhiên không phải.” Lý Khác bước đến trước cửa sổ, chắp tay say sưa ngắm mấy cánh bướm sặc sỡ bay trên cây anh đào trong sân mất một lúc, quay lại nhìn thì thấy Trịnh Đạc và Phùng Vạn Tề vẫn cung kính đứng đó, liền nói với họ, “Các ông đi đi. Không cần lo chuyện của Triệu vương nữa, trong lòng ta đã hiểu rõ. Nghiêm Giáp sẽ ở lại dịch quán dưỡng thương”
Trịnh Đạc vâng vâng dạ dạ, vẻ mặt nhẹ nhõm vì vứt được củ khoai nóng trong tay.
Mấy người đó vừa đi chưa lâu, Vân Lĩnh và Quý Thành một trước một sau bước vào. Vân Lĩnh đang định nói thì Lý Khác lại lắc đầu, dặn dò mấy thị nữ tôi tớ trong phòng: “Chăm sóc Nghiêm chấp sự cho tốt, không được lơ là. Hai ngươi đi theo ta.”
Lúc ra ngoài cửa, Lý Khác cảnh giác nhìn xung quanh, sau khi xác định không có người ngoài, mới mở miệng bảo: “Nói đi.”
Vân Lĩnh thắc mắc: “Điện hạ, ngài nghi ngờ trong dịch quán có gì đó kỳ quái sao?”
“Không phải nghi ngờ, mà là chắc chắn. Cho nên, sau này các ngươi hành sự cũng phải cẩn thận một chút.
Vân Lĩnh cầm kiếm lên, làm động tác rút kiếm, đanh mặt lại nói: “Ai dám láo với điện hạ, ti chức sẽ tự tay chặt đầu hắn làm bóng để đá!”
Quý Thành ớn lạnh, ngạc nhiên nói: “Trước đây hộ vệ trưởng đâu có nóng tính như thế này!”
“Còn không phải bị thần ma quỷ quái ở cái thành Dương Châu này làm cho phát cáu sao! Người thì cũng thôi, cùng lắm là liều một trận với hắn, nhưng đánh nhau với ma thì ta thật sự không có kinh nghiệm... Vân Lĩnh bất giác dâng trào nhiệt huyết. Nhưng nói được một nửa, lại sực tỉnh ngậm mồm, đứng dậy cúi người vái: “Ti chức vô lễ, xin điện hạ thứ tội!”
“Bỏ đi. Nói thẳng vào vấn đề nhé! Hôm nay thu hoạch được gì?”
“Vâng” Vân Lĩnh khép bớt cái miệng toang toác lại, nói nhỏ, “Ti chức cùng Quý Thành đến thôn Mi Vu, nhưng người trong thôn bảo là mấy hôm nay không thấy bóng dáng Kim Hồng. Còn về Triệu A Cửu... vì lần trước quan phủ từng đến khám xét, nên bọn họ biết chỗ ở của Triệu A Cửu, nhưng không ai quen hắn. Có điều, lúc lục soát nhà của hắn, bọn Ti chức phát hiện đồ đạc hắn dùng không giống mọi người. Chắc hắn là... người tàn tật.”
Quý Thành bước lên một bước, rỉ tai Lý Khác mấy câu bằng giọng gần như không thể nghe thấy. Đang nói thì thấy một bóng đen vụt qua đỉnh đầu bọn họ, Quý Thành hoảng sợ lập tức ngậm miệng, vô thức rút thanh bội đao ở thắt lưng ra. Đến khi nghe thấy trên hòn non bộ vẳng lại mấy tiếng cò trắng kêu, hắn mới thở phào nhẹ nhõm.
Lý Khác thấy vậy, không khỏi mỉm cười: “Ta kêu các ngươi cẩn thận, chứ có bảo các ngươi thần hồn nát thần tính như vậy đâu. Hãy nhớ, ta là truất trắc sứ mà bệ hạ đích thân chọn, có thể tùy nghi hành sự, cho dù bãi chức thứ sử Dương Châu, cũng không cần dâng tấu lên triều đình. Các ngươi sợ cái gì?”
“Vâng! Điện hạ nói phải!” Vân Lĩnh ưỡn thắng người nói, “Vậy tiếp theo đây, bọn ti chức phải làm gì ạ?”
“Tiếp theo à..” Lý Khác nhặt một cành liễu rơi trong bụi cỏ, cầm trong tay nghịch một hồi, rồi bẻ mạnh thành hai đoạn, “Các ngươi lập tức tới nhà họ Diêu có hai cây liễu mọc chĩa ra ngoài tường ở đầu ngõ Thanh An, tìm một thiếu niên tên là Diêu Quang Tổ đến gặp ta. Góc tường tận cùng phía Nam của hậu viện dịch quán có một cái hốc nhỏ bị bụi cây che khuất, các ngươi đưa nó đến đấy. Nhớ kỹ, không được để bất cứ ai phát hiện ra!”
“Điện hạ yên tâm, Ti chức nhất định sẽ làm tốt.” Vân Lĩnh trả lời vô cùng sảng khoái, “Còn gì nữa không ạ?”
Lý Khác suy nghĩ rồi nói: “Bảo nhà bếp làm thêm mấy món ngọt, nhưng cũng không được ngọt quá.”
Sau khi Vân Lĩnh và Quý Thành rời đi, Lý Khác một mình bước trên con đường đá quanh co dẫn đến thư trai. Cuối con đường đá có một lối nhỏ làm từ tre xanh dẫn đến đình đá giữa hồ. Đình đá quanh năm mát mẻ, vào mùa hè vẫn càng cảm nhận được sự tuyệt vời của nó. Năm xưa, thợ xây ngôi đình này đã khẩn khoản xin thứ sử Dương Châu bấy giờ là Hoàng Phủ Dược đề tên, để bớt phiền, Hoàng Phủ Dược đặt luôn cho nó cái tên “Thanh Đình” [*]
Lý Khác ngồi trên chiếc đồn đá trong Thanh Đình, dựa người vào cột, hai tay ôm gối, ngẩn ngơ ngắm những con cá nhỏ đang quẫy đuôi bơi trong hồ nước trong veo.
Tại sao Kim Hồng, người duy nhất trong thôn Mi Vu biết Triệu A Cửu, lại đột nhiên biến mất? Rốt cuộc Kim Hồng có báo với quan phủ việc Triệu A Cửu bị tàn tật không? Nếu quan phủ biết, tại sao không viết một đặc điểm rõ ràng như vậy lên cáo thị truy nã? Nếu quan phủ không biết, thì rất có thể Kim Hồng chính là kẻ đồng mưu với Triệu A Cửu.
[*]
Nghĩa là đình mát.
Một thủ từ Tưởng Thổ Căn quen lủi thủi một mình, quanh năm sống ở miếu Đồng Tử; một ông lái thuyền Lâm Đại Mộc hiền lành chân chất, không oán không thù với người khác; một chấp sự Nghiêm Giáp tính tình hào sảng, nhiều năm làm việc ở dịch quán Dương Châu. Bọn họ có thân phận khác nhau, tuổi tác khác nhau, gia cảnh khác nhau, lại không quen biết nhau, tại sao lại bị hại theo cùng một cách?
Điều quan trọng nhất là, tại sao hung thủ phải giả danh Triệu vương để giết người?
Triệu vương, Dương Cảo, nhà họ Dương...
Những ý nghĩ hoang đường trong đầu Lý Khác đan xen vào nhau nhanh như chớp. Cuối cùng, chúng bện thành một tấm lưới lớn khít không lọt gió, thít chặt não y đến đau buốt.
Lý Khác cứ thế lặng lẽ ngồi ngây ra trong Thanh Đình suốt một canh giờ, mãi đến khi Vân Lĩnh chạy tới báo, đã đưa Diêu Quang Tổ đến nhà ngang của hậu viện, y mới đứng dậy, phủi mấy chiếc lá rơi trên người mình: “Nói với Dương công tử chưa? Gọi huynh ấy cùng qua đó đi!”
Vân Lĩnh hơi bối rối nói: “Vừa nãy ti chức tình cờ gặp Đỗ Húc. Hắn bảo là, từ sáng nay Dương công tử đã thấy không được khỏe cho lắm, giờ vẫn nghỉ trong phòng. Vậy có phải...”
“Sao không nói sớm? Ta phải đi xem huynh ấy thế nào. Lý Khác rảo chân được mấy bước rồi nhanh chóng dừng lại, “Thôi, trước mắt chuyện của Diêu Quang Tổ vẫn quan trọng hơn. Ngươi đừng theo ta, đi thăm huynh ấy hộ ta, hỏi Đỗ Húc xem có cần mời đại phu đến khám không? Những năm qua huynh ấy luôn cậy sức khỏe tốt, lại biết chút y thuật, chẳng bao giờ để tâm đến lời nói của ta.
“Vâng, Ti chức đi ngay đây.” Vân Lĩnh cười nói, “Cơ mà, Dương công tử nổi tiếng là không thích khám đại phu. Trên đời này người khuyên được Dương công tử, ngoài An Lăng huyện chúa thì cũng chỉ có ngài mà thôi.”
Cái con người này thật là phiền phức. Lý Khác mắng thầm trong bụng một câu, rồi chạy về phía nhà ngang.
Trong nhà ngang lúc này, ngoài Diêu Quang Tổ, còn có hai anh em Quý Ân, Quý Thành. Diêu Quang Tổ gục đầu rất thấp, ánh mắt hơi xao động bất định, hai chân run cầm cập vì căng thẳng.
“Hai ngươi ra ngoài trông, không cho bất kỳ ai lại gần.” Lý Khác đẩy cửa bước vào, ngồi xuống ghế đầu tiên bên trái, “Diêu Quang Tổ, chúng ta từng gặp nhau rồi, cháu đừng sợ”
Diêu Quang Tổ nghe thấy giọng y hết sức ôn hòa thân thiện, liền đánh bạo tiến lên vài bước, nhưng trước sau vẫn không dám ngồi xuống. Rất lâu sau, cậu mới chạm tay vào hình hoa mẫu đơn trên đệm gấm, hơi ngẩng đầu lên nói: “Ngài chính là Ngô vương điện hạ?”
Lý Khác cúi người, kéo tay cậu, để cậu ngồi xuống bên cạnh mình: “Phải. Cháu biết ta là người như thế nào sao?”
“Biết ạ. Năm ngoái lúc dạy học, thầy từng nhắc đến ngài, nói rằng ngài văn võ song toàn, lại có tấm lòng nhân ái, là một hiền vương chân chính ạ!”
“Nói quá lên thôi. Lý Khác đưa quả cam ở cạnh tay cho cậu, tiếp tục nói với giọng nhẹ nhàng, “Chắc Đào tiên sinh đã đến nhà nhận sai xin lỗi cháu, hơn nữa còn mời cháu tiếp tục tới thư viện Kiến Hiền học rồi chứ hả?”
Diêu Quang Tổ kinh ngạc ra mặt, ánh mắt sáng lên: “Sao điện hạ biết?”
Lý Khác quan sát kỹ thiếu niên này, thấy tóc cậu hơi khô vàng, một nửa buộc bằng dây vải gai, một nửa buông ngang vai, đôi mắt đan phượng tuy không quá sáng, nhưng đầy thanh tú, chỉ là chiếc áo bào màu xanh xám cậu mặc trên người rõ ràng quá rộng. Nhìn cậu một lúc, Lý Khác mới lấy từ trong tay áo ra một sợi gân bò và một chiếc lò xo lần trước nhặt về từ ngõ Thanh An, đặt lên chiếc bàn con bên cạnh, nghiêm nghị nói: “Tất nhiên là biết! Ta còn biết, cháu chính là con ma áo đỏ đã dọa Đào tiên sinh ngất xỉu vào đêm hôm đó, đúng không?”
Diêu Quang Tổ vốn đã ngồi không vững, vừa nghe thấy lời này, tức thì hai chân mềm nhũn, ngã quỵ xuống đất. Cậu sợ hãi rơi nước mắt, nhưng lại không dám giơ tay lau, đành thút tha thút thít nói: “Điện hạ... cháu... học trò không”
“Vừa nãy ta chỉ nắm chắc tám phần, còn bây giờ đã chắc đến mười phần rồi. Mấy hôm trước, ta từng đi chợ mua vài món đồ cho trẻ con, còn nói chuyện với cháu. Lúc đó, ta thấy cháu đang nghịch một con dao bấm, nom rất thú vị, bèn mua một con. Cháu còn nhớ chứ?”
Môi Diêu Quang Tổ hơi run lên: “Vâng. Thêm cả lần đó thì học trò đã gặp điện hạ ba lần.”
“Nhớ thì tốt.” Lý Khác thấy trên trán cậu đã rịn ra rất nhiều mồ hôi, biết cậu đang sợ hãi cực điểm, bèn nói, “Loại dao bấm này không có lưỡi, vì vậy không hại người được. Mặt khác, bên trong nó có chứa một sợi gân bò và mấy chiếc lò xo, khi dao chạm phải vật gì đó, nó sẽ co lại, một lúc sau sẽ bật ra. Cháu dùng một thứ không thể làm hại người đi tấn công Đào Phủ Sâm, rõ ràng không phải là muốn tính mạng ông ta, mà chỉ muốn hù dọa...”
Diêu Quang Tổ quỳ thẳng người dưới đất, nghe đến đây, bất giác há miệng, định nói gì đó. Nhưng Lý Khác lại không cho cậu cơ hội mà vẫn tiếp tục nói: “Lý do tất nhiên là tại Đào Phủ Sâm từng đánh mắng sỉ nhục cháu, còn đuổi cháu khỏi thư viện do cháu ‘ăn trộm’ tiền của ông ta. Vì bản thân, cũng vì người ông buồn bã phẫn nộ mà chết của mình, cháu đã nghĩ ra cách đó. Nhưng mà, lương tâm của cháu chưa mất, khi biết tin Đào Phủ Sâm suýt nữa bỏ mạng vì mình, cháu đã cực kỳ lo lắng, rất muốn đi thăm ông ta. Đó chính là nguyên nhân tại sao ta lại gặp cháu ở trong ngõ Thanh An hôm đó!”
Đã nói rõ ràng như vậy rồi, nhưng Diêu Quang Tổ vẫn phản bác theo bản năng: “Học trò... chỉ muốn đi thăm Đào tiên sinh, muốn... xin ông ấy cho học trò trở lại thư viện. Sao có thể làm một chuyện như vậy được chứ?”
“Thế thì cháu nghe cho rõ đây!” Giọng Lý Khác rõ ràng đã có phần bực bội, “Từ tư thế cháu chạy ra khỏi ngõ Thanh An lúc đó, có thể thấy cháu có nền tảng võ công. Sở dĩ Đào Phủ Sâm và phu điểm canh sinh ra ảo giác có người lơ lửng trong không trung, là vì cháu dùng móng sắt móc vào ngói xanh trên tường bao, sau đó có thể tùy ý di chuyển theo sợi dây buộc vào móng sắt. Còn sợi dây đó thì gần như không thể nhìn thấy trong đêm tối. Diêu Quang Tổ, cháu nhìn lòng bàn tay mình đi, bên trên có phải còn lưu lại vết hằn của dây thừng không?”
Diêu Quang Tổ vô thức xòe lòng bàn tay ra, bên trên quả nhiên có hai vết xanh, sờ vào vẫn thấy ngâm ngẩm đau. Thế là cậu chỉ biết siết chặt hai tay, cắn mạnh môi dưới.
“Thật ra, cháu thừa nhận hay không vốn dĩ không quan trọng. Quan trọng ở chỗ, bản vương nhận định là cháu, thế là được rồi. Lý Khác nói nhiều thấy hơi khát, bèn rót một chén nước uống cạn, “Phu điểm canh nói, cháu vừa thấy ánh đèn liền bay đi mất. Quả thực cháu sợ ánh sáng, nhưng không phải vì cháu là ma, mà vì cháu sợ bọn họ nhìn rõ tướng mạo, biết cháu là ai. Cho nên trong lúc cấp bách, cháu thu móng sắt, vượt qua tường bao, tạm thời trốn trong phủ viên ngoại ở sát vách một lúc. Trong lúc không để ý, con dao bấm của cháu đã rơi xuống. Vì cự ly quá cao, nó đã vỡ nát khi chạm đất. Mà thứ ta nhặt được ở đó vào tối hôm nọ, chính là sợi gân bò và chiếc lò xo trong con dao bấm. Ta nghi ngờ cháu, có lẽ vì cháu chạm mặt ta khiến ta nghi ngờ, thực là cơ duyên xảo hợp. Đúng là ông trời tự có an bài, trong ngẫu nhiên cũng chứa cả tất nhiên.
Nước mắt của Diêu Quang Tổ còn chưa khô, trong mắt lại đã hiện lên nỗi nghi hoặc khác: “Điện hạ không xử lý học trò sao? Thầy tới nhà học trò là do ngài.”
“Không sai. Là ta bảo ông ta tới. Có điều, tuy ta có tấm lòng cảm thông, nhưng xưa nay không lạm dụng nó. Ta có thể tha cho cháu, nhưng mà, cháu phải làm giúp ta một việc. Cháu đồng ý không?”
Cuối cùng vẻ mặt của Diêu Quang Tổ cũng hơi giãn ra, cậu nói không cần suy nghĩ: “Đồng ý. Học trò sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì vì điện hạ.”
Lý Khác hơi ngồi thẳng người lên, giơ tay đỡ hờ cậu một cái, nói giọng thờ ơ: “Là việc thuộc sở trường của cháu. Có điều, giờ ta không rảnh để nói với cháu. Cháu đợi ở đây đã, lát nữa Quý hộ vệ sẽ qua nói cho cháu biết”
Không đợi Diêu Quang Tổ trả lời, Lý Khác đã rảo bước đi ra khỏi cửa nhà ngang. Xuyên qua một vạt thông phía sau hòn non bộ là đến lầu Ỷ Vân, gặp đúng lúc Vân Lĩnh cùng Lưu đại phu tối qua trị thương cho Nghiêm Giáp ra khỏi phòng. Lý Khác vội tới đón, hỏi: “Rốt cuộc huynh ấy mắc phải bệnh gì?”
Lưu đại phu vuốt chòm râu dài, suy nghĩ rồi nói: “Điện hạ yên tâm, chắc quân hầu không sao đâu”
“Chắc?” Lý Khác nhướng mày bất mãn nói, “Ngươi nói lấy lệ thôi phải không?”
“Tiểu dân không dám” Lưu đại phu cuống quýt thanh minh: “Sắc mặt của quân hầu không tốt lắm, môi cũng không có sắc máu, lại hơi có triệu chứng thổ huyết, nhưng mạch tượng của ngài ấy không có gì bất ổn, thần trí cũng rất minh mẫn. Có lẽ... có lẽ chỉ là nhiễm phong hàn hơi nặng một chút thôi ạ.”
“Như thế mà ngươi còn dám nói là không sao à?” Lý Khác giận dữ nói, “Về tháo tấm biển Huyền Hồ đường của ngươi xuống đi!”
Lưu đại phu nhăn nhó, còn muốn nói thêm mấy câu, nhưng bị Vân Lĩnh kéo đi. Đến khi đi xa, Vân Lĩnh mới lên tiếng an ủi: “Đại phu chớ lo. Ta sẽ bảo mấy huynh đệ dưới quyền theo ông về tháo biển, đảm bảo sẽ giúp ông tháo xuống hoàn hảo không thiếu thứ gì, lại còn có thể bán cho thợ mộc với giá tốt.”
Lưu đại phu nuốt nước bọt ừng ực, mới nhịn được nỗi xúc động muốn ngửa mặt lên trời khóc lớn. Hắn cảm thấy mình rất oan, một nỗi oan khó mà biện bạch nên lời.
“Đệ thật sự trách oan hắn rồi, ta không sao.” Dương Chính Đạo ngồi trước án thư, quay lưng về phía Lý Khác, nhìn một bình sứ nhỏ có vẽ mai đỏ tuyết trắng trên bàn, lấy tay chống đầu, nói thản nhiên như không, “Có lẽ vì gần đây thường gặp ác mộng, máu ở tim hơi bất ổn. Nghỉ ngơi nhiều hơn một chút là được.”
“Ta không tin. Nếu không phải mắc bệnh không chống đỡ được, huynh sẽ không chủ động đi gọi đại phu. Huynh nói thật cho ta biết, rốt cuộc có chuyện gì?”
Dương Chính Đạo nghe được vẻ nóng ruột trong lời nói của y, cảm thấy trong lòng ấm áp, nhưng ngoài miệng chỉ nói: “Đệ đang mong ta mắc bệnh nan y gì đó à! Yên tâm đi, sức khỏe ta thế nào ta biết rõ. Vân Lĩnh bảo là đệ gọi Diêu Quang Tổ tới? Đệ thật sự chắc chắn nó chỉ ra tay với một mình Đào Phủ Sâm chứ?”
Lý Khác thấy gã đánh trống lảng, cũng đành xuống nước theo: “Đúng. Vì Đào Phủ Sâm chỉ bị dọa ngất, còn Lâm Đại Mộc thì mất mạng, Nghiêm Giáp cũng suýt nữa xuống suối vàng. Cho nên, khả năng lớn nhất chính là, sau khi bịa ra lời đồn rằng Đào Phủ Sâm bị hồn ma Triệu vương tấn công, hung thủ thật sự tiếp tục giết người dưới danh nghĩa Triệu vương”
Dương Chính Đạo ho khẽ mấy tiếng, hỏi: “Vậy thì trong lòng đệ đã biết rõ rồi sao? Kẻ đó là ai?”
“Biết rõ. Nhưng mà, đến giờ ta vẫn chưa nghĩ ra hắn làm vậy với mục đích gì? Lý Khác ngồi xuống bên cạnh gã, nhìn sắc mặt ngày càng tái nhợt của gã, nhíu chặt đôi mày, “Biểu huynh, chăm sóc bản thân cho tốt. Nhất thiết không được xảy ra chuyện gì, được không?”
“Ta biết rồi. Đệ về trước đi, để ta nằm thêm một lát. Lúc đệ cần, ta nhất định sẽ tới giúp đệ với tinh thần sung mãn”
Buổi tối, Lý Khác gọi chấp sự Hồ Thanh đến trước mặt. Hồ Thanh nhỏ hơn Nghiêm Giáp vài tuổi, có vẻ cũng lanh lợi hơn đôi chút. Ông ta vái sâu sát đất, kính cẩn hỏi: “Điện hạ có gì dặn bảo ạ?”
Lý Khác liếc sang bên cạnh, không nhìn ông ta: “Cũng không có việc gì quá quan trọng. Chỉ là ta muốn hỏi, ông và Nghiêm Giáp quan hệ như thế nào?”
“Bẩm điện hạ, ti chức và Nghiêm Giáp cùng đến dịch quán Dương Châu làm việc, còn là đồng hương, nên trước giờ xưng huynh gọi đệ, tình cảm hết sức tốt đẹp”
Lý Khác gật đầu: “Tuy Nghiêm Giáp tạm thời không nguy đến tính mạng, nhưng cơ thể vẫn vô cùng yếu ớt. Bản vương muốn để ông canh giữ trước phòng ông ta mấy hôm, ông thấy thế nào?”
“Điện hạ đã sai bảo, tất nhiên ti chức sẽ tuân theo, một khắc cũng không lười biếng”
“Tốt. Vậy giờ ông đi đi.”
Hồ Thanh thi lễ lần nữa, rồi chậm rãi lui xuống. Cửa chính nhiều năm bị gió thổi mưa quật, bản lề đã hơi hoen gỉ, lúc đóng cửa sẽ phát ra tiếng “kẽo kẹt” chói tai. Lý Khác nghe tiếng bước chân đằng sau đi xa dần, mới quay đầu lại, buông hai tay nãy giờ siết chặt. Sương mù trong đầu ngày càng dày đặc, nhưng chỉ một lát, lại có một cơn gió lớn ập đến, làm thần trí y tỉnh táo hẳn.
Có lẽ, sắp đợi được đến ngày vén mây thấy trời rồi.
Đêm ấy, Lý Khác ngủ không yên giấc. Chẳng biết tại sao, bên tai y cứ văng vằng mấy câu mà Giang Hạ vương nói với y ở ngoài điện Vũ Đức hôm đó: Con bị tình cảm trói buộc, nên mọi sự sát phạt quyết đoán đều dựa vào tình cảm. Con cố chấp, bao che khuyết điểm, cảm tính... đây đều là tính cách tối kỵ của bậc đế vương, bệ hạ cũng có tính tình tương tự, nhưng phải ra sức áp chế.
Tại sao lại nhớ đến những điều này? Có phải mình thực sự từng làm hỏng việc vì tình? Hay là... mình bị tình cảm che mờ mắt mà bỏ qua thứ gì đó rõ ràng dễ thấy?
Đủ các loại ý nghĩ ngang dọc đan xen tranh nhau chuyển động trong đầu Lý Khác, đến khi bị một tràng tiếng gõ cửa dồn dập cắt ngang, y mới hoàn toàn tỉnh táo. Y hít sâu một hơi, rồi lại từ từ thở ra. Mồ hôi trên trán xuôi theo má chảy thẳng xuống cổ, y chẳng buồn lau mà xuống giường ngay, lấy đại một chiếc áo choàng trên giá rồi ra khỏi phòng.
Hồ Thanh bên ngoài cửa cả người ướt đẫm nước mưa, trên má phải có một vết xước dài. Ông ta thở hổn hển: “Điện hạ, vừa nãy... vừa nãy Ti chức nhìn thấy hồn ma áo đỏ... Triệu vương. Khuôn mặt đó dính đầy máu... thật sự hung dữ đáng sợ! Ti chức suýt nữa thì chết trong tay Triệu vương”
“Ông vào phòng đã rồi từ từ nói.” Sau một thoáng kinh ngạc, Lý Khác lập tức khôi phục lại vẻ bình tĩnh, “Vết thương trên mặt ông là thế nào?”
Hồ Thanh nói với giọng run rẩy: “Nửa canh giờ trước, Ti chức đi tiểu về, nhìn thấy trong phòng Nghiêm Giáp tối đen như mực, liền mò mẫm đi vào thắp nến, mới thắp được một ngọn đã bị người ta siết cổ từ phía sau. Cảm giác lạnh giá đó, chỉ bàn tay người chết mới có. Lúc đó Triệu vương lơ lửng trên không, Ti chức định vươn tay tóm lấy, nhưng lại bị rạch một nhát dao lên mặt.”
“Sau đó thì sao?”
Hồ Thanh lấy tay bịt vết thương lại rồi nói tiếp: “Ti chức vừa chạy vừa lớn tiếng kêu cứu, mãi đến khi chạy tới gần Thanh Đình, mới nhìn thấy hai vị Quý hộ vệ. Nhưng lúc đó hồn ma Triệu vương đang ở gần, chính mắt Ti chức nhìn thấy bóng của... bóng? Không! Không đúng! Hồn ma sao lại có bóng chứ? Là người! Điện hạ, có người muốn giết ti chức!”
Lý Khác nhìn biểu cảm càng sợ hãi hơn sau khi sực hiểu của ông ta, khẽ nở một nụ cười khó thấy: “Ông có đắc tội với ai không?”
Gió đêm luồn vào phòng qua cửa sổ khép hờ, quần áo Hồ Thanh ướt sườn sượt, dính bết cả vào người, khiến ông ta vô cùng khó chịu. Ông ta nghĩ một lúc lâu, rồi vẫn lắc đầu nói: “Xưa nay Ti chức đối xử tốt với mọi người, quả thật chưa từng có kẻ thù nào.”
“Có lẽ người kẻ đó muốn giết không phải là ông, mà là Nghiêm Giáp. Đêm hôm nọ hắn đã hạ thủ, nhưng ông ta lại được ta và Tuyên Bình hầu cứu, giờ hắn lại ra tay lần nữa. Ta thật sự hơi tò mò, rốt cuộc giữa Nghiêm Giáp và kẻ đó có thù sâu hận lớn gì?”
Hồ Thanh đực mặt ra, vẫn lắc đầu mù tịt.
Trong lúc hai người trầm mặc, Quý Thành đã chạy vào phòng nói: “Điện hạ, bọn Ti chức bắt được tên giả thần giả quỷ đó rồi. Giờ hắn bị nhốt trong một gian nhà nhỏ ở hậu viện, ngài có muốn đích thân chất vấn không? Hay là phải báo với Trịnh thứ sử một tiếng?”
“Đợi đến ngày mai, ngươi chạy qua phủ thứ sử một chuyến, phải nói rõ đầu đuôi ngọn ngành của sự việc trước mặt Trịnh thứ sử”
Quý Thành lanh lẹ dạ một tiếng, quay người rảo bước rời đi.
Hồ Thanh ngây người nói: “Điện hạ, vậy ti chức phải làm gì?”
Lý Khác chỉ cảm thấy một cơn buồn ngủ ập đến, cố nhịn không ngáp, dụi mắt nói: “Ông về thay quần áo, rồi ngủ một giấc, sau đó, yên tâm đi làm việc.”
Chân trời vừa ửng lên một vệt trắng bạc, Trịnh Đạc đã cùng Phùng Vạn Tề đứng bàn việc trong hậu đường của phủ thứ sử. Trên mặt Trịnh Đạc lộ ra vẻ lo lắng không che giấu nổi, chần chừ một lúc lâu, ông ta mới ngồi xuống, nén giọng hỏi: “Giờ phải làm thế nào? Chẳng lẽ thật sự là hắn sao?”
Phùng Vạn Tề biết nói nhiều cũng vô ích, đành ở bên cạnh an ủi: “Ngài yên tâm đi! Nhất định hắn vẫn ở trong hầm, không chạy nổi đâu. Hơn nữa, không có lệnh của ngài, làm sao hắn dám chứ?”
“Thế tại sao người đi tìm đến giờ vẫn chưa về?” Trịnh Đạc dường như nghe không lọt tai lời này, vẫn cứ nói tiếp, “Ân sư bảo chúng ta trì hoãn thêm mấy ngày, bây giờ xem ra không kéo dài được nữa rồi.
“Kế hoạch ngài nghĩ ra đã vô cùng kín đáo rồi. Nếu thượng thư có biết, thể nào cũng sẽ chỉ khen ngài làm việc đắc lực thôi.” Phùng Vạn Tề nói với giọng nửa thật lòng, nửa nịnh nọt.
Tuy nhiên, rõ ràng những lời này không có ích gì đối với Trịnh Đạc. Ông ta nắm chặt một chiếc chén sứ trong tay, như thể muốn bóp vụn nó: “Sự việc khẩn cấp, sao có thể kín đáo được? Hơn nữa, ông không nghe người ân sư phái đến nói sao? Năm xưa Mã tướng từng gục ngã trong tay Ngô vương và Tuyên Bình hầu, hạng người như ta và ông, sao có thể là đối thủ của bọn họ?”
“Vậy thì sao chứ?” Phùng Vạn Tề phản bác, “Việc mà thượng thư bảo ngài làm chỉ là tranh thủ thời gian. Giờ ngài đã làm được, không phải là xong rồi sao? Hai người bọn họ có thể ở lại Dương Châu thêm một ngày là ngài đã hoàn thành nhiệm vụ, ở thêm hai ngày thì đó chính là bản lĩnh của ngài.”
“Thật sao? Nhưng một khi bọn họ nhìn ra kế hoạch này, không chỉ chức vị thứ sử Dương Châu của ta, mà sợ là ngay cả tính mạng cũng sẽ không còn. Có điều, lúc ta nhận lời ân sư đi làm chuyện này, thực ra đã biết kết cục cuối cùng rồi.”
“Cũng chưa chắc đâu.” Lần này Phùng Vạn Tề trả lời hết sức chắc chắn, “Vua triều nào bề tôi triều nấy. Tiền đồ xán lạn của ngài, có lẽ vẫn còn ở phía sau kia!”
Tiền đồ xán lạn.
Trịnh Đạc đọc từng chữ một trong lòng. Tiền đồ xán lạn đâu có quan trọng bằng tính mạng của bản thân và gia đình? Điều ông quan tâm, chỉ là ơn tri ngộ mà thôi. May mà ông một thân một mình, xưa nay không vướng bận vợ con, nên sống chết đối với ông cũng chẳng phải chuyện gì quá quan trọng.
Đúng lúc Trịnh Đạc đang cúi đầu mải miết suy nghĩ thì một người ăn vận theo kiểu tiểu nô bước vào. Phùng Vạn Tề sốt ruột hỏi: “Sao rồi? Người vẫn ổn chứ?”
Tiểu nô gật đầu: “Trưởng sử yên tâm, tất cả đều ổn”
“Vậy thì tốt. Ngươi lui xuống đi, vào trong hầm rượu tiếp tục trông ngặt hắn!”
Phùng Vạn Tề khẽ thở phào một hơi, đảo mắt lại thấy vẻ mặt Trịnh Đạc vẫn căng thẳng. Ông ta đang định nói gì đó, nhưng lại nghe thấy Trịnh Đạc lẩm bẩm: “Tất cả đều ổn? Vậy chẳng phải càng kỳ lạ sao? Kẻ mà Ngô vương bắt được rất cuộc là ai nhỉ?”
“Giờ điều này đã không còn quan trọng” Phùng Vạn Tề hắng giọng: “Hồ Thanh đã nói rằng Ngô vương bảo ngài sang cùng thẩm vấn, dù thế nào ngài cũng không thoái thác được. Đến lúc đó, ngài không được để lộ bất cứ sơ hở nào!”
Trịnh Đạc trầm mặc không nói, rất lâu sau, mới thở dài thườn thượt.
Bọn họ cứ ngồi đối diện nhau như vậy, mỗi người ôm một tâm sự. Mãi đến giữa trưa, mới thấy Quý Thành đến theo dự kiến. Quý Thành chỉ kể sơ qua sự việc một lượt, sau khi tỏ vẻ kinh ngạc và vỡ lẽ hết sức đúng mực, Trịnh Đạc liền cùng Quý Thành rời đi.
Phùng Vạn Tề nhìn vạt nắng chiếu lên nền nhà, lông mày ngày càng nhíu chặt. Sau một lúc lâu, ông ta mới đứng dậy đi ra ngoài cửa. Do bước quá gấp, ông ta suýt nữa thì vấp vào bậc cửa sắt cao.
Vừa ra khỏi cửa viện, mấy sai dịch đang trực đồng loạt bước về phía ông ta. Một sai dịch mặt chữ điền, thân hình cao gầy trong số họ cúi người vái: “Trưởng sử, Tuyên Bình hầu đến”
Phùng Vạn Tề hơi hoảng sợ, buột miệng nói: “Y tới gì?” Ngay sau đó, ông ta cảm thấy ngữ khí của mình quá gượng gạo, lập tức đổi giọng, “Mời Tuyên Bình hầu ngồi đợi ở chính đường một lát, ta sẽ qua gặp ngay đây.”
Mấy sai dịch đó quay mặt nhìn nhau, đều không nói gì. Cuối cùng, vẫn là người mặt chữ điền nãy vừa mở miệng đó nói: “Tuyên Bình hầu, ngài ấy... ngài ấy đi thẳng tới cái hầm ở sau vườn hoa, còn giết... giết..”
Phùng Vạn Tề chỉ cảm thấy trong đầu nổ “đùng” một tiếng. Trịnh Đạc vừa đi dịch quán, Dương Chính Đạo đã đến phủ thứ sử giết người. Trời ơi! Đúng là lo lắng cái gì thì cái đó tới! Phùng Vạn Tề lớn tiếng kêu gào trong lòng, rít một câu qua kẽ răng: “Sao các ngươi lại để y đi?”
Người mặt chữ điền kinh ngạc nói: “Trưởng sử, ngài nói gì vậy? Người ta là Tuyên Bình hầu đấy! Hơn nữa, ngài ấy còn cầm ấn tín của Ngô vương điện hạ, có cho bọn Ti chức cả trăm lá gan cũng không dám nói một chữ ‘không’ với ngài ấy.”
“Khốn kiếp!” Phùng Vạn Tề tức giận bẻ một cành liễu ở bên cạnh, lại giẫm mạnh mấy cái.
Đám sai dịch nhìn theo bóng Phùng Vạn Tề hớt hải bỏ đi, lại nhìn nhau lần nữa, không biết tiếng “khốn kiếp” của ông ta chửi ai. Không thể là chính ông ta, càng không phải là Tuyên Bình hầu, vậy thì chỉ có thể là bọn họ. Nhưng bọn họ cũng đâu có làm gì sai! Chuyện này thật là kỳ lạ. Nhưng điều kỳ lạ hơn là, tại sao Tuyên Bình hầu lại tìm được tên trọng phạm bị toàn thành truy nã đó ở trong phủ? Bọn họ không dám nghĩ tiếp. Có một số chuyện, không biết còn tốt hơn biết rất nhiều, nhất là với những người thấp cổ bé họng như bọn họ.
Phùng Vạn Tề hớt hải chạy đến hầm, nhìn thấy một người đang nằm thẳng cẳng trên mặt đất, vết thương trí mạng nơi cổ vẫn đang không ngừng chảy máu. Hai mắt hắn trợn to, mặt vẫn mang vẻ dữ tợn và kinh hãi đã ngưng kết lại ngay trong khoảnh khắc trước khi chết. Ở góc tường còn có một người đang co quắp, không ngừng run rẩy.
Dương Chính Đạo thu lại thanh đoản đao cầm trong tay, nhìn bộ dạng chần chừ không tiến tới của Phùng Vạn Tề, mỉm cười: “Ta từng tới phủ thứ sử của các ông mấy lần, thế mà không biết ở đây lại cất nhiều rượu ngon như thế. Rượu ngon thật đấy! Trưởng sử, ông ngửi xem, mùi máu tanh nồng nặc như vậy mà cũng bị át mất rồi.”
Hai đầu gối của Phùng Vạn Tề mềm nhũn, bất giác khuỵu xuống đất: “Hạ quan không biết...
“Không biết cái gì? Không biết tại sao nơi này lại giấu người? Hay là không biết tại sao ta bỏ qua hung thủ không giết, mà lại muốn giết hắn?”
Âm thanh vang vọng trong hầm rượu trống trải. Phùng Vạn Tề không dám ngẩng đầu, hai tay chống lên mặt đất, chỉ thấy một cảm giác nóng ẩm từ lòng bàn tay truyền lên. Ông ta biết đó là gì, thế là một nỗi sợ hãi ghê gớm hơn lại ập đến, đè nén làm ông ta gần như nghẹt thở. Không biết đã qua bao lâu, mới nghe thấy người ở góc tường khóc lóc van xin: “Trưởng sử, cứu tôi với, cứu tôi với... tôi thật sự không muốn chết.”
Dương Chính Đạo bước tới, lạnh lùng nói: “Triệu A Cửu, đến giờ mà ngươi vẫn hy vọng hắn có thể cứu ngươi sao?”
“Tôi... ngài.” Tuy Triệu A Cửu không biết thân phận của người trước mặt, nhưng trực giác mách bảo hắn, nếu ôm được chân người này thì có lẽ vẫn còn một tia hy vọng sống. Thế là hắn vội vàng lết gối, dập đầu năm sáu cái với Dương Chính Đạo, nhất thời lại không biết nên xưng hô thế nào mới phải, đành nói một cách hàm hồ: “Xin quý nhân tha mạng! Tiểu nhân chỉ tham tiền của chứ không hề muốn hại mạng người!”
Nếu đây không phải là một khuôn mặt tua tủa đầy râu, Dương Chính Đạo đã thực sự tưởng rằng kẻ trước mặt mình chỉ là một đứa trẻ hơn mười tuổi. Gã đang định mở miệng nói, bỗng cảm thấy lồng ngực đau nhói, người bất giác hơi ngả về phía sau. Quý Thành thấy vậy, nhanh tay lẹ mắt đỡ gã, nói nhỏ bên tai gã: “Quân hầu, ngài vẫn ổn chứ?”
“Không ổn lắm.” Dương Chính Đạo nắm chặt lấy tay Quý Thành, mượn sức của hắn mới gắng gượng đứng thẳng được, lạnh lùng nói, “Phùng Vạn Tề, các ngươi có thể tìm được một người lùn bẩm sinh, lại biết võ công, còn lớn gan tham của như vậy, cũng thật là không dễ. Rốt cuộc các ngươi có mục đích bí mật gì?”
“Hạ quan cũng chỉ phụng mệnh thứ sử mà hành sự thôi. Mục đích... mục đích là..” Giữ mạng mới là quan trọng! Lúc này đầu óc Phùng Vạn Tề vô cùng tỉnh táo, ông ta chỉ vào kẻ nằm trên mặt đất đã tắt thở từ lâu đó nói, “Ngô vương và ngài vừa tới Dương Châu chưa được bao lâu, Trưởng Tôn thượng thư liền phái tên này đến truyền tin cho thứ sử, bảo rằng nhất định phải tìm mọi cách để giữ các ngài ở lại Dương Châu. Vì..”
“Đừng nói nữa!” Trong cơn giật mình và lo lắng, Dương Chính Đạo thấy vị tanh ngọt nơi cổ họng càng thêm nồng. Đáng lẽ gã phải nhận ra từ sớm! Không chỉ gã, Lý Khác cũng đâu phải hoàn toàn không nghĩ tới, nhưng bọn họ vẫn cứ ngoan ngoãn rơi vào trong cái bẫy này. Hạng Trang múa kiểm, ý nhắm Bái công [*] . Hóa ra, bọn họ mới là những kẻ ngu xuẩn nhất trên đời! Gã phải đi nói với y ngay lập tức! Gã chắc chắn, ngay cả lúc này, Lý Khác vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ.
[*]
Hạng Vũ bày tiệc ở Hồng Môn, mời Bái công Lưu Bang đến dự, mục đích là giết Lưu Bang. Nhưng sau khi nghe Lưu Bang giải thích giãi bày, Hạng Vũ muốn từ bỏ ý định đó. Mưu sĩ Phạm Tăng nhiều lần ra hiệu nhưng Hạng Vũ cứ lờ đi. Phạm Tăng đành phải triệu Hạng Trang đến múa kiếm, tiếng là góp vui nhưng thực chất là tìm cơ hội giết chết Lưu Bang.
Đúng vào khoảnh khắc Dương Chính Đạo xoay người, Phùng Vạn Tề đột nhiên đứng dậy lao đến trước mặt gã, rồi lại quỳ gối xuống đất, xuất phát từ bản năng cầu sinh, ông ta mở miệng hỏi thẳng: “Quân hầu có thể giữ mạng cho hạ quan không?”
“Còn có phép nước, ta nói gì cũng vô dụng!”
Phùng Vạn Tề vẫn chưa tuyệt vọng: “Vậy tại sao quân hầu phải giết hắn?”
“Để thay Ngô vương thanh lý môn hộ. Loại tiểu nhân vong ơn bội nghĩa, bán chủ cầu vinh này, không xứng chết trong tay Ngô vương!”
Vũ Lương.
Dương Chính Đạo nghiến răng nghiến lợi thầm gọi cái tên này.
Lúc này, trong dịch quán Dương Châu, Trịnh Đạc đang đối mặt với một cuộc chất vấn đột ngột, ông ta kịp thời ổn định tinh thần, bình tĩnh hỏi ngược lại: “Điện hạ không cảm thấy tội danh này quá lớn sao?”
“Đúng vậy! Một tội danh rất lớn. Giọng Lý Khác đĩnh đạc ngân vang, “Nếu không nắm chắc mười phần, ta thực cũng không dám tin, đường đường là thứ sử châu lớn, mệnh quan triều đình, lại làm ra một chuyện hết sức hoang đường là thuê kẻ ác giết người!”
Ánh mắt Trịnh Đạc nhìn thẳng vào nơi nào đó, trong lòng chỉ có một ý nghĩ: Không được nhận, tuyệt đối không được nhận. Thế là ông ta liền nói với giọng còn bình tĩnh hơn: “Hạ quan không biết.”
“Được. Hôm nay nắng đang đẹp, rất thích hợp để kể chuyện. Buổi tối ngày hai mươi lăm tháng Hai, ta và Tuyên Bình hầu lo xong tang lễ của Tiêu hoàng hậu, muốn lên đường về kinh. Nhưng ngươi lại nói có việc quan trọng muốn thỉnh giáo chúng ta, vừa hay tối hôm đó mưa to, nên chúng ta ở lại một đêm. Nhưng mấy ngày tiếp theo, ngươi lại triệu tập huyện lệnh của các địa hạt dưới quyền lần lượt đến dịch quán Dương Châu thăm hỏi, những chuyện họ nói đều liên quan đến nỗi khổ của trăm họ, ta không thể không nghe. Nhưng mà, nói mãi rồi cũng có ngày hết, thế là ngươi đành phải tìm cách khác.”
Khóe miệng Trịnh Đạc khẽ giật một cái, rõ ràng đã chột dạ đến cực điểm, nhưng ông ta vẫn ngoan cố cãi lại: “Câu chuyện của điện hạ không hay chút nào.”
“Đừng vội, tất cả mới chỉ bắt đầu thôi.” Lý Khác liếc ông ta một cái, ôn tồn nói: “Sáng ngày mùng chín tháng Ba, ngươi và huyện lệnh huyện An Nghi vừa bàn chuyện xong, liền mời chúng ta uống rượu ăn cơm. Ta vốn không thích uống rượu, nên tìm cớ rời đi trước. Ở cửa phủ, ta chạm mặt Nghiêm Giáp. Ông ta nói phong cảnh ở Đông Hương Dương Châu là đẹp nhất, thế là ta liền cưỡi ngựa thong thả đi đến Đông Hương. Ở đó có một con sông dẫn đến ngoại ô phía Tây. Ông lái thuyền nhiệt tình mời ta lên thuyền, đưa ta đến bờ sông gần miếu Đồng Tử nhất, mà ông lái thuyền này tên là Lâm Đại Mộc. Trịnh Đạc, tất cả mọi chuyện đều do ngươi sắp xếp, phải không?”
Ánh nắng rơi trên chiếc bàn trước mặt Trịnh Đạc, soi rõ rành rành từng hạt bụi li ti trên đó. Lúc nghe đến câu cuối cùng, ông ta mới thật sự hiểu, cái gọi là tâm cơ, cái gọi là thủ đoạn, có lẽ trong mắt Lý Khác, chỉ là một trò cười có thể dễ dàng nhìn ra trong lúc chuyện trò. Trịnh Đạc thất vọng gục đầu xuống. Nhưng trong khoảnh khắc đó, ông ta lại lập tức thay đổi ý nghĩ. Không! Đâu dễ dàng như vậy. Nếu Lý Khác thật sự nhìn thấu từ lâu, thì tại sao phải đợi đến hôm nay mới vạch trần? Vốn dĩ y chẳng có chứng cứ nào cả.
Nghĩ đến đây, đôi mày Trịnh Đạc cuối cùng cũng từ từ giãn ra, giọng nói cũng tự tin hẳn: “Hạ quan không hiểu ý của ngài.”
Lý Khác không muốn dây dưa tranh cãi việc ông ta có thẳng thắn thừa nhận hay không, y chỉ muốn nói ra đầu đuôi ngọn nguồn những điều y biết trong lòng: “Không phải ta đang nói nhử ngươi. Không cần phải như thế! Quả thực người làm rất tốt, tốt đến mức ta không hề để ý tới những điểm đáng ngờ rành rành ra đó. Thủ từ Tưởng Thổ Căn biết thân phận của ta, nếu không thì lúc đó ông ta đã không nghiễm nhiên cho rằng ta biết Triệu vương là ai như thế. Ông ta kể truyền thuyết về Triệu vương rất sinh động đặc sắc, không thể không khơi gợi niềm hứng thú của ta. Cho nên hôm sau, lúc ngươi báo tin miếu Đồng Tử bị cháy, theo bản năng ta muốn đi cùng ngươi một chuyến. Ngươi còn nhớ lời mình nói lúc đó không? Ngươi chắc chắn rằng ta nhất định biết Triệu vương có thể giữ cho thành Dương Châu mưa thuận gió hòa, tức là đã khẳng định ta từng tới miếu Đồng Tử. Việc mà ngay cả Tuyên Bình hầu cũng không biết, tại sao ngươi lại cho rằng ta phải biết, mà còn chắc chắn như vậy?”
Trịnh Đạc đưa tay xoa đi xoa lại chiếc bàn, lặng im không nói, giống như mình thật sự chỉ đang nghe một câu chuyện ly kỳ thú vị. Lý Khác dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Chuyện của Đào Phủ Sâm là chi tiết bất ngờ, nhưng ngươi lại lợi dụng nó một cách thông minh, biến nó thành cốt lõi. Ngươi sai người loan tin khắp nơi rằng Đào Phủ Sâm bị linh hồn Triệu vương phục kích, để chứng thực lời đồn này, ngươi sai nghệ nhân tạp kỹ Triệu A Cửu có thân hình thấp bé như trẻ con giết Lâm Đại Mộc ở địa điểm cũ của hành cung Giang Đô, còn suýt nữa giết chết Nghiêm Giáp. Đây là vụ án ngươi cố ý tạo ra, tất nhiên là ngươi định diệt khẩu những đương sự này. Người đường đường xuất thân tiến sĩ, đọc đủ loại thơ văn, cớ sao lại độc ác nhẫn tâm như vậy?”
Lý Khác vẫn muốn nói tiếp, nhưng lại nghe thấy tiếng gõ cửa khe khẽ của Vân Lĩnh vẳng tới: “Điện hạ, có người ở Trường An đến tìm ngài”
“Ngươi bảo y nghỉ ở chính đường trước đã, lát nữa ta sẽ qua.” Lý Khác cũng không hỏi xem là ai, chỉ thuận miệng trả lời một câu. Lúc này, điều y muốn làm nhất chỉ là nói nốt những lời trong lòng: “Trịnh Đạc, ngươi cho rằng ta không có chứng cứ thật sao? Thanh đoản đao mà các ngươi định dùng để chứng thực hung thủ là linh hồn Triệu vương đó đã phơi bày tâm cơ của các ngươi. Các ngươi không biết Quý Tử là tên tục không ai hay của Triệu vương, mà chỉ biết nó được đào lên từ hậu viện của miếu Đồng Tử. Lúc ta tới miếu Đồng Tử lần đầu tiên sau vụ hỏa hoạn, thấy lòng bàn tay của Kim Hồng có vết máu. Cho nên, kẻ đào đồ vật lên và hẹn Tưởng Thổ Căn đến chính điện rồi phóng hỏa thiêu miếu chính là Kim Hồng. Giờ Kim Hồng đang ở đâu? Không phải đã làm vong hồn dưới đao rồi chứ?”
Trịnh Đạc nghe đến đây, cuối cùng chán nản nói nhỏ: “Hắn vẫn ở trong phủ thứ sử. Tối hôm đó, ngài nói với tôi, ngài muốn đi bắt ma trong ngõ Bồng Lai và ngõ Vĩnh An cùng Tuyên Bình hầu, chắc là thăm dò bọn tôi nhỉ?”
“Không sai, vì lúc đó ta đã nghi ngờ các ngươi. Mà Nghiêm Giáp quả nhiên bị thương nặng trong sự ‘bảo vệ nghiêm ngặt của các ngươi. Các ngươi không chờ đợi được, nóng lòng chứng minh, cũng nóng lòng diệt khẩu. Sau đó, ta sai người giả mạo hung thủ, ra tay tấn công Hồ Thanh trong lúc ông ta canh trực. Ngoại trừ Hồ Thanh, chỉ có Vân Lĩnh và anh em Quý Thành, Quý Ân biết chuyện này. Ta cố ý dặn dò Quý Thành đến phủ thứ sử tìm ngươi trước mặt Hồ Thanh. Còn Hồ Thanh lại đi báo tin cho ngươi trước khi Quý Thành đến. Tuy ngươi đã sớm khống chế Triệu A Cửu, cũng biết không có mệnh lệnh của ngươi thì hắn sẽ chẳng tùy tiện ra tay giết người, nhưng để không xảy ra sai sót nào, chắc là ngươi vẫn sẽ phái người đi xác định xem Triệu A Cửu còn ở trong phủ không. Mà Tuyên Bình hầu và Quý Thành đến sau sẽ bám theo người của ngươi để tìm Triệu A Cửu. Giờ này, chắc bọn họ đã thành công rồi”
Sau lưng Trịnh Đạc nhễ nhại mồ hôi, áo trong dính hết cả vào người, khiến ông ta vô cùng khó chịu. Ông ta kìm nén rất lâu, mới gắng gượng nặn ra một câu: “Tự nguyện mắc câu, hạ quan không còn gì để nói!”
“Không còn gì để nói, tức là thừa nhận tất cả.” Vẻ băng giá trong mắt Lý Khác còn chưa tan, lại bị một nỗi hận sâu sắc khác bao phủ, “Tại sao các ngươi bắt buộc phải giữ ta ở lại Dương Châu?”
“Không phải giữ ở lại Dương Châu, mà là không để cho đệ về kinh.” Dương Chính Đạo gần như là bay vào. Gã không nhìn Trịnh Đạc lấy một cái, chỉ chạy thẳng đến trước mặt Lý Khác, nắm chặt cổ tay y, thở hồn hển nói: “Đi mau! Còn không đi thì không kịp mất.”
Lý Khác thấy sắc mặt gã tái nhợt khó coi khác thường, vội đỡ gã ngồi xuống, rót nước đưa cho gã: “Đừng nôn nóng. Nghỉ một chút đã, sức khỏe của huynh mới là quan trọng”
Dương Chính Đạo chỉ uống một ngụm, lấy được chút hơi, lại nhanh chóng đứng dậy, ánh mắt nhìn Lý Khác mang vẻ thê lương và bất lực không thể nói nên lời: “Ta không quan trọng, đệ mau đi đi”
Trịnh Đạc nhìn bọn họ, khóe miệng bất giác thấp thoáng một nụ cười quái dị.
Hai người vừa bước ra khỏi bậc cửa thứ hai, thì thấy Vân Lĩnh dẫn một thanh niên khoảng hai mươi tuổi hớt hải chạy đến. Thanh niên vừa thấy họ, lập tức quỳ gối hành lễ: “Phó Sơn tham kiến Ngô vương điện hạ, tham kiến Tuyên Bình hầu”
“Phó Sơn? Ngươi là con trai của Phó tướng quân?” Lý Khác ra hiệu cho gã đứng dậy, vừa đi vừa hỏi.
“Vâng” Trên khuôn mặt đen sạm của Phó Sơn có một vết sẹo nông, giọng nói rền vang thường có ở người luyện võ, “Sau khi cha mất, Giang Hạ vương đã điều anh em Ti chức đến bên cạnh ông ấy. Giang Hạ vương đối với Ti chức ơn nặng như núi, Ti chức không biết lấy gì để báo đáp.”
Trong trận chiến Cao Câu Ly, đại quân triều đình tấn công dồn dập vào thành An Thị, bị quân giữ thành đánh cho không kịp trở tay. Trước khi hạ lệnh rút quân, Lý Thế Dân đã chém đầu phó tướng đắc lực nhất bên cạnh Giang Hạ vương là Phó Phục Ái, với tội danh kháng mệnh vua. Tuy hai người con trai của Phó tướng quân bấy giờ cũng ở trong quân không bị liên lụy, nhưng suy cho cùng bọn họ vẫn là hậu nhân của tướng có tội, Giang Hạ vương lại dám cho bọn họ giữ chức mang theo bên mình, một câu “ơn nặng như núi” này cũng không quá lời.
“Chú bảo ngươi đến có việc gì?”
Phó Sơn nhìn quanh bốn phía, nói với giọng chỉ mấy người bọn họ mới có thể nghe thấy: “Bệ hạ lâm bệnh nguy kịch ở cung Thúy Vi núi Chung Nam.”
Hóa ra, tất cả những lo lắng sợ hãi của gã đều là thật.
Dương Chính Đạo nắm chặt chéo áo, bên tai bất giác vang lên lời Lý Thế Dân nói với gã mấy tháng trước: Trẫm còn bao nhiêu ngày nữa, ngoài Vương Thọ Đức ra, cũng chỉ có cháu biết.
Gã không nói chuyện này cho bất cứ ai, kể cả Lý Khác. Một là không muốn làm Lý Khác lo lắng thái quá, hai là chính gã cũng không muốn đối mặt với việc này. Nhưng mệnh trời không phải cứ không muốn đối mặt là trốn thoát được, dù là thiên tử, cũng không được nương nhẹ mảy may. Gã lo lắng ngoảnh sang nhìn Lý Khác, thấy ánh mắt y tản mác, không biết đang nhìn vào góc nào. Thế là gã đành bước đến bên cạnh Lý Khác, khẽ kéo tay áo y. Lúc này Lý Khác mới hoàn hồn, giọng đã hơi khàn: “Vào rồi nói. Vân Lĩnh, ngươi canh cửa, không cho bất cứ ai lại gần”
Cùng lúc cửa được đóng lại, Phó Sơn quỳ xuống đất lần nữa: “Sáng sớm hôm kia, Giang Hạ vương sai Ti chức chạy đến Dương Châu nhanh nhất có thể để báo với ngài, bảo ngài bỏ hết tất cả mọi chuyện ở đây, lập tức về kinh. Bệ hạ muốn gặp ngài.”
Dương Chính Đạo thắc mắc: “Nhưng mà, tại sao lại là ngươi đi? Đã là ý chỉ của bệ hạ, phái tiểu thái giám đến không phải được rồi sao?”
“Quân hầu nói đúng” Phó Sơn lau mồ hôi trên trán, “Giang Hạ vương nói với Ti chức, một tháng trước, ông ấy đã chính tai nghe thấy bệ hạ bảo Vương công công phái người đi.”
Lý Khác lắc đầu, bỗng cảm thấy trong đầu là một mớ hỗn độn. Hồi lâu, y mới hít sâu một hơi: “Chúng ta không thấy ai cả.”
Phó Sơn gật đầu: “Vâng. Giang Hạ vương nói, nếu điện hạ biết, nhất định sẽ chạy không dừng vó ngựa trở về, tuyệt đối không dây dưa cả tháng. Vì vậy, ắt là có kẻ không muốn để điện hạ về kinh nhanh như vậy. Uẩn khúc bên trong, ông ấy sẽ từ từ điều tra. Nhưng so với chuyện đó, ngài quan trọng hơn.
Giọng của Lý Khác đã có chút nghẹn ngào: “Bệ hạ... thật sự ốm rất nặng sao?”
Phó Sơn sững lại một chút mới hạ quyết tâm, nói thẳng: “Giang Hạ vương nói với Ti chức là, ‘Có thể gặp mặt bệ hạ lần cuối hay không, phải xem duyên phận cha con giữa bệ hạ và Ngô vương sâu đến đâu?”
Dương Chính Đạo lấy kiếm Thanh Hồng trên giá xuống đưa cho Lý Khác: “Ở đây có ta, đệ cứ yên tâm mà đi”
“Được, ta đi ngay bây giờ. Thánh chỉ bệ hạ giao cho ta ở trong hộp gỗ đàn hương sau giá sách trong phòng ta ấy. Biểu huynh, chăm sóc bản thân cho tốt. Sau khi giải quyết xong công việc, lập tức quay về, ta đợi huynh ở Trường An Lý Khác nhận kiếm, nói nốt mấy câu này xong, liền vội vàng mở cửa rời đi.
“Phó Sơn, ngươi đứng lên đi.” Dương Chính Đạo ngồi xuống chiếc ghế gần mình nhất, đưa tay chống đầu, trong lòng vẫn đau đớn khó chịu. Rất lâu sau, gã mới lẩm bẩm: “Tại sao lại là Vương Trung? Chẳng phải ông ta rất quan tâm Lý Khác và Lý Âm sao?”
Phó Sơn khẽ thở dài: “Quân hầu, ngài đánh giá quá thấp những tăm tối trong lòng người rồi. Bệ hạ ốm nặng, vua mới rõ ràng sắp kế vị, Vương Trung chẳng có lý do gì mà không bày tỏ thiện chí với thái tử và Trưởng Tôn Vô Kỵ”
“Tại ta không tốt, tại ta không lo trước tính sau. Ta tưởng rằng chí ít bệ hạ cũng thọ được một năm nữa, nào ngờ... nào ngờ.” Dương Chính Đạo gối đầu lên cánh tay, giọng nói càng lúc càng nhỏ, “Thật sự có thể nói Trưởng Tôn Vô Kỵ đã dốc hết tâm tư vì địa vị của thái tử.”
“Trưởng Tôn Vô Kỵ” Lúc Phó Sơn nói ra bốn chữ này lần nữa, mắt dường như sắp tóe lửa, “Ti chức và lão có mối thù không đội trời chung”
Dương Chính Đạo thấy gã nghiến răng nghiến lợi nói ra câu này, không khỏi hơi tò mò: “Cái chết của Phó tướng quân có ẩn tình gì sao?”
Vành mắt Phó Sơn hơi đỏ: “Quân hầu biết đấy, quân triều đình từng bị vây khốn ở An Thị gần một tháng. Lúc đó, Giang Hạ vương từng kiến nghị bệ hạ dùng cách vây Ngụy cứu Triệu, phái một đội quân nhỏ vòng qua An Thị tấn công Bình Nhưỡng. Lúc bệ hạ còn đang do dự chưa quyết, Trưởng Tôn Vô Kỵ lại nói rằng, lần này là thiên tử thân chinh, nhất định không được có sai sót. Một khi Giang Hạ vương sầy tay, ắt sẽ đánh cỏ động rắn, đến lúc đó, không chỉ làm ô uế thanh danh của bệ hạ, mà còn kích động dân tình Cao Câu Ly, được ăn cả ngã về không, hậu quả khó