Chương 33 Cao sơn lưu thủy
Cuối cùng thì mưa vẫn không rơi. Cuối xuân, ngày dài đêm ngắn. Tuy đã đến giờ Dậu hai khắc, nhưng trời vẫn còn sáng trưng.
Dương Chính Đạo từ điện Vũ Đức đi ra, đầu óc cứ mụ mị váng vất, ngay cả bước đi cũng hơi chông chênh. Gã chỉ cảm thấy đoạn đường này quá dài, đến mức gã cũng không xác định được, bao giờ mới có thể đi đến tận cùng.
Gã dựa vào bức tường đỏ nghỉ một lát. Những viên gạch mọc rêu xù lên trơn ướt, chạm vào có cảm giác đặc biệt khó chịu. Không biết đã đứng bao lâu, gã mới nghe thấy đằng sau có người gọi: “Dương công tử.”
Dương Chính Đạo ngoảnh đầu nhìn, thấy Liễu Phạm đang chạy về phía mình. Ánh mắt gã hơi rã rời, ngay cả bóng người trong tầm nhìn cũng đan xen chồng chéo lên nhau. Mãi đến khi Liễu Phạm tới trước mặt, gã mới định thần nói: “Chào Liễu ngự sử.”
Liễu Phạm dìu gã chậm rãi đi tiếp, hết sức quan tâm hỏi: “Công tử không sao chứ? Ngài từ đâu tới thế?”
“Bệ hạ ban yến, ta uống hơi quá chén. Không sao đâu, đứng hóng gió một lát là ổn thôi.” Dương Chính Đạo đặt tay lên tay Liễu Phạm, mỉm cười nói, “Bao năm qua... đa tạ ông”
Liễu Phạm thoáng giật mình, dường như nghe ra một cảm giác chẳng lành từ biểu cảm và giọng nói trịnh trọng của gã. Ông nhớ lần đầu tiên Tiêu Vũ đưa gã đến gặp mình, gã còn là một thiếu niên lầm lì ít nói, bụng đầy tâm sự. Nhưng càng về sau, gã càng trở nên chín chắn cẩn trọng, mang một vẻ tự tin và ung dung có thể khống chế mọi việc trong lòng bàn tay. Cho nên dần dà, Liễu Phạm cũng nảy sinh mấy phần kính phục Dương Chính Đạo, chứ không hẳn là vì nể mặt Tiêu Vũ nên mới làm việc cho gã.
Lúc đến Chu Tước môn, Liễu Phạm thấy sắc mặt gã quả thật đã khá hơn rất nhiều, bèn bỏ tay ra nói: “Chỉ cần công tử không sao là tốt rồi. Hạ quan đưa ngài về phủ nhé!”
Dương Chính Đạo nhìn ông ta gật đầu, chỉ nói ngắn gọn một chữ: “Được.”
Sau khi ra khỏi phủ Trưởng Tôn, Vương thị chạy một mạch như bay. Nhưng đôi chân cô run rẩy mãi không thôi, cứ chạy một đoạn là lại loạng choạng ngã xuống đất. Trái tim cô đập vô cùng dữ dội, cổ họng nóng ran như bị thiêu đốt. Lúc đến phường Vĩnh Gia, mặt cô đã trắng bệch. Cô vịn vào một con sư tử đá cẩm thạch trắng trước cửa phủ, thở hồng hộc, mồ hôi từ trên tóc chảy xuống như thác. Cô ngẩng đầu, khóe miệng hé một nụ cười, vội liêu xiêu chạy tới, gõ cửa bằng toàn bộ sức lực.
Người mở cửa là tiểu nô Chu Lục hôm nay đến phiên trực. Hắn quan sát từ trên xuống dưới cô gái trông vô cùng nhếch nhác ở trước mặt, hỏi: “Đây là dinh phủ của Ngô vương điện hạ, xin hỏi cô tìm ai?”
Vương thị sốt ruột, ngay cả nói năng cũng hơi lắp bắp: “Xin... xin tiểu ca thông... thông báo hộ thiếp thân. Thiếp thân cầu kiến... cầu kiến Ngô vương điện hạ.”
Chu Lục vốn định nói “Ngô vương điện hạ há là người cô nói muốn gặp là có thể gặp sao”, nhưng trông bộ dạng cùng quẫn bất lực của cô, không khỏi nổi lên ba phần thương xót, liền cởi chiếc khăn giắt ở thắt lưng đưa cho cô: “Ngô vương điện hạ vẫn đang xử lý công vụ ở Đại Lý tự, chưa biết bao giờ mới về”
Vương thị chưa nhận khăn, mặt càng lo lắng tợn, vội vàng hỏi tiếp: “Vậy còn vương phi? Vương phi có ở đây không?”
“Sài phu nhân vừa sinh một cặp song sinh, vương phi đưa thế tử và nhị công tử đến chúc mừng rồi.” Chu Lục bĩu môi, chỉ cảm thấy cô gái này thực là kỳ quái, nên cũng có phần cảnh giác, “Có chuyện gì thì cô nói với tôi, đợi đến tối điện hạ và vương phi về, tôi sẽ thuật lại đúng sự thật.”
Vương thị sốt ruột, cũng chẳng còn màng đến lễ phép, nắm chặt lấy tay Chu Lục: “Không đợi nổi đến tối đâu! Cầu xin tiểu ca đưa thiếp thân đi tìm điện hạ. Tuyên Bình hầu đang gặp nguy đến tính mạng” Thấy Chu Lục vẫn do dự không quyết, Vương thị quỳ xuống dập đầu, “Thiếp thân hầu hạ trong phủ Trưởng Tôn, nghe được chuyện vô cùng chính xác. Hơn nữa, Ngô vương điện hạ biết thiếp thân, nếu thiếp thân nói dối, ắt sẽ bị trời phạt!”
Giờ Chu Lục mới nhận ra có điều không ổn, vội vàng đỡ Vương thị dậy nói: “Cô đợi ở đây một lát, tôi sẽ chuẩn bị xe, đưa cô đi tìm điện hạ.”
Lúc này Lý Khác và Vân Lĩnh đang bị một đám người xem náo nhiệt chặn lại trước cửa tiệm đồ ngọc ở phường Tường Hòa. Mấy năm trước Tào Phương Thạc đã chuyển đến dinh thự ở ngoại ô kinh thành để dưỡng bệnh, Trương Nhị Bảo kế thừa y bát, trở thành chưởng quỹ của tiệm đồ ngọc này. Hắn làm việc cẩn thận, lại thật thà, tuy tuổi tác không lớn, nhưng cũng chăm chút cho thương hiệu trăm năm này đâu ra đấy.
Vân Lĩnh nghe lời bàn tán của người dân đang vây xem, ngoảnh đầu nói: “Điện hạ, hình như chưởng quỹ và vợ đang cãi nhau! Dù sao một chốc một lát chúng ta cũng không vòng qua được, chẳng bằng xuống xem thử xem”
Lý Khác vốn ghét nhất chen chúc trong đám đông, nhưng nghĩ đến năm xưa hai thầy trò Tào Phương Thạc và Trương Nhị Bảo dù sao cũng đã giúp mình rất nhiều, liền gật đầu nhảy xuống ngựa. Chỉ thấy Trương Nhị Bảo mặt đỏ phừng phừng, giận dữ quay đầu sang chỗ khác. Đứng cạnh hắn là người vợ họ Chu, mặt cũng đỏ không kém, trông như sắp khóc đến nơi. Gã nhân viên cạnh đó hết nhìn bên này lại ngó bên kia, thật sự không biết phải khuyên giải thế nào, chỉ biết ôm một bụng buồn bực.
Chu thị nhìn những người xung quanh, giậm chân nói: “Về cả đi! Về cả đi! Chưa thấy vợ chồng người ta cãi nhau bao giờ à? Bà Trần, chính bà đã đưa cả phường đến phải không? Bà lớn tuổi như này rồi, sao còn có sở thích oái oăm thế hả? Có phải nhân viên nhà tôi đòi nợ gắt quá, bà ôm hận trong lòng, muốn cho tất cả mọi người thấy trò cười của chúng tôi không?”
Bà Trần nọ trông cũng lanh lợi, nhưng vẫn bị Chu thị mỉa mai liên tục một trận không cần lấy hơi, ép cho không nói nên lời, đành hừ khẽ một tiếng, vẫy tay dẫn đám chị em già trong phường của mình bỏ đi. Những người còn lại nhìn bộ dạng dữ dằn của Trương phu nhân, chỉ sợ mình cũng bị cô ta chỉ thẳng mặt chửi, ầm ĩ lên thì bẽ mặt, nên cũng hậm hực rời đi.
Chu thị thấy mọi người đã tản đi gần hết, mới cầm chuỗi ngọc đeo tay được chạm khắc tinh xảo nói: “Vừa nãy anh sợ mất mặt, giờ thì nói được rồi! Mấy ngày nay anh cả đêm không ở nhà, nhốt mình ở đây hí hoáy với cái thứ này, còn không cho tôi biết. Anh nói đi, anh chuẩn bị tặng nó cho cô gái nào? Anh và cô ta rốt cuộc đã đến bước nào rồi?”
Trương Nhị Bảo ôm trán, nói với vẻ khá là bất lực: “Văn nương, anh đã nói với em cả chục lần rồi. Từ khi thành thân với em, ngay cả đứa con gái năm tuổi của thím Hà nhà bên cạnh anh cũng không dám nhìn, lấy đâu ra cô gái khác?”
Chu Văn nương vẫn không chịu bỏ qua. Lần này, cô ta lại đổi sang giọng dịu dàng: “Em biết tính khí mình không tốt, nhưng em thật lòng muốn sống êm ấm với anh. Anh còn trẻ, nếu thật sự phải lòng cô gái nhà nào, chỉ cần xuất thân thanh bạch, em nhất định sẽ đối xử với cô ta như chị em ruột. Anh cứ nói đi! Nói đi, có được không?”
“Đó là quà sinh nhật cho Tào lão chưởng quỹ sư phụ hắn!” Lý Khác thấy Trương Nhị Bảo cúi đầu tiu nghỉu, thực sự không nhịn nổi, liền mở miệng nói.
Trương Nhị Bảo trông thấy y, vội kéo tay Chu Văn nương quỳ xuống. Chu Văn nương bị hắn kéo đến đau cả tay, đang định nổi cáu thì lại nghe thấy hắn nói: “Tiểu nhân Trương Nhị Bảo tham kiến Ngô vương điện hạ” Nói rồi, hắn lại ngượng ngùng gãi đầu, “Để điện hạ xem trò cười rồi.”
“Miễn lễ.” Lý Khác không đợi nổi Chu Văn nương thu lại vẻ mặt ngạc nhiên kinh hoảng, chỉ ngay vào chuỗi ngọc trong tay cô ta, “Chuỗi ngọc này ngay cả một người đàn ông bình thường đeo còn chê rộng. Hơn nữa, kiểu dáng trông cũ kỹ thế này, có cô nương trẻ tuổi nào lại thích nó cơ chứ?”
Chu Văn nương ngớ ra. Cô ta chỉ lo cãi vã, thật sự không chú ý đến những điểm này. Lúc cô ta đeo nó lên cổ tay mình, quả nhiên phát hiện nó rộng hơn mấy tấc, liền cúi đầu không nói. Một lúc sau, cô ta vẫn không tin, thì thầm: “Vậy tại sao ngài biết cái này để tặng cho nghĩa phụ. Ngộ nhỡ Trương Nhị Bảo thật sự tìm đàn ông.”
Vân Lĩnh ở bên cạnh bị ý nghĩ kỳ quặc của cô ta chọc cười, không kìm nổi bật ra thành tiếng, nhưng lại bị sặc nước miếng, ho mãi không thôi.
Lý Khác cầm lấy chuỗi ngọc, chỉ vào một viên ở giữa: “Trên đây có khắc một con cá nhỏ nhắm mắt, đây là kỹ thuật đầu tiên Trương Nhị Bảo học được từ chỗ Tào lão chưởng quỹ, tất nhiên là để ông ấy biết, hắn không quên nguồn cội.
Trương Nhị Bảo cảm kích gật đầu lia lịa, sau đó lại hơi thắc mắc: “Nhưng tại sao ngài biết đây là quà sinh nhật tiểu nhân tặng cho nghĩa phụ?”
Lý Khác trả lại chuỗi ngọc cho Trương Nhị Bảo, lấy một chiếc quạt xếp trong tay áo ra, vừa quạt vừa nói: “Tào Phương Thạc từng vào Đại Lý tự, tất nhiên là ta nhớ ngày sinh của ông ấy.”
“Đa tạ điện hạ.” Trương Nhị Bảo mừng rơn, lại vái Lý Khác một cái nữa.
Chu Văn nương biết mình thực sự đã trách nhầm Trương Nhị Bảo, nhưng không đời nào chịu nhận sai. Cô không đổi sắc mặt, vẫn nói với giọng chất vấn: “Thế tại sao anh không nói sớm? Phí mất bao nhiêu nước bọt của em, mệt ơi là mệt!”
Trương Nhị Bảo ấm ức lẩm bẩm: “Nhưng em có cho anh cơ hội giải thích bao giờ đâu!”
“Không có cơ hội là anh sẽ không tìm cơ hội để giải thích à! Anh vốn không quan tâm đến em!”
“Sao anh lại không quan tâm em cơ chứ? Ông trời biết người mà anh quan tâm nhất trên đời này chính là em”
“Anh không nói thì làm sao em biết tâm ý của anh được? Từ rày, mỗi ngày anh phải nói với em mười lần. Nếu không em sẽ mặc kệ anh đấy”
“Rồi rồi rồi! Em nói gì cũng hay cả. Được chưa?”
Lý Khác nghe cuộc nói chuyện của đôi vợ chồng trẻ, chỉ cảm thấy dở khóc dở cười, bèn mặc kệ họ, lên ngựa chạy nước kiệu bỏ đi. Chưa được bao lâu thì thấy xe ngựa của vương phủ từ phía đối diện chạy tới, không đợi Chu Lục dừng hẳn xe, Vương thị đã cuống cuồng nhảy từ trong xe xuống, tức thì ngã lăn ra đất. Cô nhịn đau bò dậy, đi cà nhắc về phía trước, ngẩng đầu nói: “Dân nữ Vương thị tham kiến Ngô vương điện hạ”
Lý Khác ghìm cương, nhìn cô chằm chằm hỏi: “Cô là Vương Huy Nhi, con dâu nhà họ Thôi ở phường Tường Hòa à?”
“Vâng. Nhưng dân nữ và Thôi Thượng Văn đã ly hôn lâu rồi. Vốn định xin nhà mẹ đẻ cho ở lại, nhưng cha mẹ chê dân nữ làm mất mặt, đuổi dân nữ ra ngoài. Nào ngờ dân nữ đã có thai, đành phải nén đau sinh con ra. May mà có nhũ mẫu Lâm nương luôn ở bên cạnh..” Vương thị chợt cảm thấy mình đã quá nhiều lời, liền nói, “Dân nữ tận tai nghe thấy quản gia Hồ An Thái của phủ Trưởng Tôn nói rằng, Trưởng Tôn thái úy tin lời Tống quốc công, có thể sẽ giết Tuyên Bình hầu trên tiệc. Điện hạ, ngài nhất định phải cứu ngài ấy, chỉ có ngài mới cứu được ngài ấy.
Lý Khác thấy tim đau nhói, vội hỏi: “Có thật không?”
“Dân nữ không dám đem tính mạng của Tuyên Bình hầu ra lừa dối điện hạ.”
Lý Khác không nhiều lời với cô ta nữa, chỉ ra sức vung roi. Ký Viễn lồng lên, lao đi như tên bắn, dường như nó cũng biết, nếu không chạy thục mạng, thì thứ mất đi sẽ là tình nghĩa khắc cốt ghi tâm cả đời. Tình nghĩa đó là một thói quen đáng sợ đến mức hiển nhiên. Giống như hằng ngày, sáng dậy quen uống một cốc nước trắng, trưa quen nghỉ ngơi hai khắc, tối quen ngẩn ngơ ngắm trời sao một lúc.
Y cứ thế chạy như bay, song tâm trạng lại chẳng mảy may xao động, bình tĩnh đến nỗi không có cả sức để biểu đạt chút bi thương và lo lắng nào. Lúc đến cửa phủ, y chỉ cảm thấy sức cùng lực kiệt, mệt mỏi như thể tim cũng ngừng đập. Cửa chỉ khép hờ, y đẩy cửa vào, nhưng vào thời khắc bước qua bậc cửa, y lại dừng chân. Nỗi sợ hãi đột nhiên ập đến từ bốn phía khiến y gần như đánh mất linh hồn.
“Điện hạ đến rồi sao lại không vào?” Tiểu nô Cổ Tử Kỳ trực cửa bước ra đón, cung kính hành lễ.
Lúc này Lý Khác mới hoàn hồn, vội vàng nắm vai Cổ Tử Kỳ hỏi: “Huynh ấy đã về chưa?”
Cổ Tử Kỳ dường như hoảng sợ trước vẻ mặt khủng khiếp của y, lời nói cũng có phần run rẩy: “Quân hầu về từ nửa canh giờ trước rồi ạ. Tiểu nhân còn tưởng ngài biết nên mới đến.”
Trong nháy mắt, dường như có vô số viên đá đè xuống trái tim y, ngoài nỗi đau cứ quặn lên liên tục từng cơn, y chẳng cảm thấy được chút bình yên nào. Y buông tay, chạy một mạch đến Mục Thanh trai ở hậu viện, thấy Dương Chính Đạo nhàn nhã ngồi một mình trước bàn cờ, tay cầm quân đen, đang do dự không biết nên đặt xuống chỗ nào.
“Biểu huynh” Lý Khác chậm rãi bước đến sau lưng gã, thấp giọng gọi.
Dương Chính Đạo ngoảnh đầu, ra hiệu cho y cứ im lặng đã. Một lúc sau, gã mới đặt quân đen xuống, mỉm cười thỏa mãn: “Lần trước đệ nói là hết cách cứu vãn, nhìn thế cờ hiện giờ, cũng không phải là không có chút sinh cơ nào, đúng không?”
Lúc này Lý Khác đâu còn tâm trạng để xem cờ, vội ngồi quỳ bên cạnh gã, quan sát từ trên xuống dưới một lượt. Tuy thấy sắc mặt gã không khác mọi khi, nhưng y vẫn lo lắng hỏi: “Không sao chứ?”
“Đệ đã nhìn thấy tận mắt rồi, sao còn hỏi câu này?”
“Ta không tin bản thân, huynh nói cho ta biết, được không?”
Dương Chính Đạo chỉ nhìn chằm chằm vào bàn cờ, không muốn có bất kỳ sự tiếp xúc ánh mắt nào với Lý Khác. Gã khẽ ho mấy tiếng, mang tai hơi đỏ, rất lâu sau mới nói: “Không sao.”
Lý Khác nghĩ bộ dạng vừa nãy của Vương Huy Nhi không giống giả vờ, nên vẫn chưa giãn mày sầu: “Bọn chúng bảo huynh vào cung mà không làm khó huynh thật sao?”
“Đệ biết rồi à?” Dương Chính Đạo nói với giọng ôn hòa, “Tiêu Nhuệ hiểu nhầm ta sâu sắc, tất nhiên không ít lần chỉ trích lỗi lầm của ta trước mặt bọn chúng. Vì vậy, bọn chúng quả thật đã làm khó ta. Có điều, ta cũng làm khó lại bọn chúng. Nói chung là không để mình chịu thiệt”
Lý Khác nghe đến đây mới thở phào một hơi, chỉ cảm thấy vạn vật trên thế gian dường như đều đã lấy lại sức sống, ngay cả tiếng ve kêu thỉnh thoảng từ trên cây hòe bên ngoài vẳng tới cũng trở thành nhạc tiên ru người ta vào giấc ngủ. Y mỉm cười, lau mồ hôi trên trán: “Đa tạ huynh đã không sao.
Dương Chính Đạo cũng cười: “Lời cảm ơn của đệ thật là kỳ quái”
Hai người cứ thế tán gẫu hơn một canh giờ. Đến khi nhìn thấy vẻ mệt mỏi hiện rõ trên mặt gã, Lý Khác mới nói lời cáo biệt, quay người rời đi.
Đỗ Húc thắp đèn lồng, đi phía trước Lý Khác, vừa đi vừa nói: “Điện hạ bước chậm thôi, cẩn thận bậc thềm. Lần trước công tử đi chùa Đại Hưng Thiện dâng hương, vì bước quá gấp nên ngã uỵch một cái đấy.”
“Huynh ấy thường đi chùa Đại Hưng Thiện lắm sao?”
“Trước đây thì không thường xuyên. Nhưng mấy năm nay, cứ cách một khoảng thời gian công tử lại đi một lần. Dâng hương xong, còn tìm cao tăng đắc đạo để trau dồi.”
Lý Khác chỉ “à” một tiếng, nhưng đột nhiên một ý nghĩ kỳ lạ lóe lên trong đầu y rồi biến mất ngay lập tức. Y muốn định thần nghĩ kỹ, nhưng nghĩ thế nào cũng không ra, đành nói: “Ngươi về đi. Chứng phong hàn của huynh ấy còn chưa khỏi, nhớ chăm sóc cẩn thận.
Mấy ngày tiếp theo, Lý Khác bị vướng vào đủ các loại chính sự, không dư dả thời gian để tiếp tục suy xét về cái ý nghĩ khiến người ta kinh hồn bạt vía, nhưng làm thế nào cũng không nắm bắt được khi ấy. Trái lại, trong giấc mơ, những ký ức bị y niêm phong và nỗi sợ hãi trong tiềm thức đó mới từ từ đan xen xâu chuỗi lại với nhau.
Các thái y quay mặt nhìn nhau, không hẹn mà cùng lắc đầu, Vương Thọ Đức đứng ra, mặt lộ vẻ khó xử: “Vũ Văn công dường như có dấu hiệu trúng độc, nhưng thần thật sự không tra ra được đó là loại độc gì”
Vũ Văn Thiền Sư căm hận nói: “Ta đã bỏ độc vào trong trà của lão. Loại độc này sẽ không phát tác ngay tại chỗ, nhưng khi phát tác thì ruột gan đứt đoạn, hơn nữa sẽ không tìm ra được nguyên nhân. Năm năm nay mỗi lần gặp mặt, ta đều cho lão uống loại độc này”
Hồi ở Dương Châu, lần đầu tiên y thấy Dương Chính Đạo đổ bệnh, Lưu đại phu chẩn mạch cho gã nói rằng: “Quân hầu hơi có triệu chứng thổ huyết, nhưng mạch tượng của ngài ấy không có gì bất ổn, thần trí cũng rất minh mẫn. Có lẽ chỉ là nhiễm phong hàn hơi nặng thôi ạ.
Vương Huy Nhi vừa lo lắng vừa sợ hãi, hai mắt đỏ hoe: “Hôm nay bọn họ muốn giết Tuyên Bình hầu trên tiệc. Ngài nhất định phải cứu ngài ấy, chỉ có ngài mới cứu được ngài ấy”
Đêm tối vô biên, ánh trăng lạnh lẽo. Tiếng hô giết xuyên phá tầng mây, đám người đông nghìn nghịt áp sát y từ bốn phương tám hướng. Y tay không tấc sắt, toàn thân lại mềm nhũn vô lực, đành phải liều mạng cắm đầu chạy. Chạy đến khe núi, y bỗng vấp phải một hòn đá nhô lên ngã nhào, đành phải nghiến răng bò dậy, cánh tay bị gai góc đâm ngang rạch chảy máu đầm đìa. Y đau đớn ngã xuống đất lần nữa, ngước mắt lên thì thấy có một thanh trường kiếm sắc bén đang đâm nhanh về phía ngực mình. Đúng lúc đó, bỗng có một bóng người từ trên trời hạ xuống, chắn trước mặt y.
“Chạy mau!” Lý Khác kinh hãi kêu lên, ngồi bật dậy, chỉ cảm thấy sau gáy căng lên đau ghê gớm, cảnh tượng hư hư thực thực trong mơ quấy nhiễu khiến y mệt mỏi rã rời.
Kỳ Úc biết chắc chắn y đã gặp một cơn ác mộng cực kỳ đáng sợ, vội xuống giường thắp hai ngọn nến, giúp y lau mồ у hôi vẫn không ngừng chảy ròng ròng. Lý Khác nắm lấy tay nàng, vẻ mặt từ hoảng hốt dần trở nên tỉnh táo: “Kỳ nhi, nàng còn nhớ cảnh Vũ Văn Sĩ Cập phát độc trong đình Thu Hà năm xưa không?”
“Sao lại đột nhiên hỏi chuyện này?” Tuy nói vậy, nhưng Kỳ Úc vẫn cố gắng nhớ lại cảnh tượng năm xưa, “Lúc thiếp trông thấy, sắc mặt Vũ Văn Sĩ Cập xanh đen, môi trắng bệch, trông cực kỳ đau đớn. Trước khi chết, ông ta nôn ra một búng máu lớn, miệng liên tục gọi hai chữ “Thiền Sư”
“Sắc mặt xanh đen, môi trắng bệch, nôn ra máu..” Lý Khác không ngừng nhẩm đi nhẩm lại mấy chữ này. Đột nhiên y cảm thấy đau thấu tim gan. Y nhắm chặt hai mắt, đấm mạnh một cú vào trán mình. Một lúc sau y mới hỏi: “Thanh Đại thế nào rồi? Vẫn điên điên khùng khùng sao?”
“Chiều nay đại phu vừa đến khám, nói đã khá hơn một chút rồi, nhưng vẫn chưa nhận ra được ai.” Kỳ Úc thấy ánh mắt y ngày càng hoang mang hoảng hốt, vội ôm chặt lấy cánh tay y, lo lắng nói, “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Chúng ta cùng nghĩ cách giải quyết, được không?”
Lý Khác vùi đầu vào trong lòng nàng, nức nở không ngừng như một đứa trẻ bị thương. Một lát sau, y lại buông tay, đứng dậy xuống giường, tiện tay lấy chiếc áo gấm màu đen trên giá mặc vào, quay lại nói: “Ta phải đi tìm hắn hỏi cho rõ! Nàng yên tâm. Nhất định sẽ không sao đâu.”
Y an ủi Kỳ Úc, nhưng giống đang an ủi mình hơn. Y nghĩ rằng, lần này cũng sẽ hóa nguy thành an giống như rất nhiều lần trước đây. Vì vậy, y gắng điều chỉnh lại tinh thần nhanh nhất có thể, lúc nói câu này, khóe miệng thậm chí còn mang theo một nụ cười.
Kỳ Úc giật mình trước vẻ mặt không ngừng thay đổi của Lý Khác, vội đứng dậy kéo tay y nói: “Rốt cuộc có chuyện gì?”
Lý Khác giơ tay ôm nàng, nói với giọng khẳng định hơn: “Không sao thật mà.”
Nói xong, y liền ra khỏi phòng, đến chuồng ngựa dắt Ký Viễn ra, chạy một mạch về phía Nam.
Giờ Sửu đã điểm, đường lớn ngõ nhỏ im ắng không một tiếng động. Tiếng vó ngựa giẫm lên đường lát đá xanh cực kỳ đinh tai khó nghe. Chùa Đại Hưng Thiện đã đóng cửa từ lâu. Các nhà sư đều đã ngủ say, chỉ có mấy tiểu sa di canh đêm trước bệ Phật vẫn đang thành kính tụng kinh cầu chúc cho người đời bình an.
Biện Không khoảng mười tuổi nghe thấy tiếng đập cửa bên ngoài, bất giác rùng mình, lần tràng hạt nhanh thêm. Nhưng tiếng đập cửa đó không mảy may yếu đi, cậu hơi sợ huých cùi chỏ vào sư huynh Biện Sâm bên cạnh. Biện Sâm liếc xéo cậu, bực mình nói: “Còn không mau ra mở cửa.
Giờ Biện Không mới ý thức được, đây là có người tới, chứ không phải là thứ kỳ quái gì đó đêm khuya đến thăm. Thế là cậu đành đứng dậy, lúc cúc chạy ra mở cửa. Lý Khác cũng không nhìn cậu, mà xông thẳng vào trong. Biện Không hơi lo lắng, biết mình không đuổi kịp y, chỉ còn cách gân cổ kêu: “Thí chủ không thể ngang ngược vô lý như thế! Quấy nhiễu Phật Tổ, tiểu tăng và thí chủ đều sẽ bị trừng phạt.
Lúc này Biện Sâm đã từ trong điện bước ra, đến trước mặt Lý Khác, chắp hai tay nói: “Chào Ngô vương điện hạ. Ngài tới đây giờ này...
“Tìm người!” Lý Khác chỉ ném lại một câu như vậy, rồi xăm xăm đi thẳng đến trước một căn thiền phòng ở đầu mút phía Nam hòn non bộ ở hậu viện, đẩy mạnh cửa ra.
Lúc này Biện Hoa vẫn đang chong đèn đọc sách trước bàn, hắn chưa kịp phản ứng đã cảm thấy một thanh chủy thủ lạnh lẽo kề lên cổ mình. Hắn ngoảnh đầu, vừa khéo chạm phải ánh mắt bi phẫn của Lý Khác: “Xảy ra chuyện gì à?"
“Ngươi biết rồi còn hỏi!” Lý Khác nổi giận trước thái độ thản nhiên như thể chuyện không liên quan đến mình của hắn, “Rốt cuộc ngươi đã làm gì với biểu huynh của ta?”
Biện Hoa cúi đầu, mực trên ngòi bút rỏ lên vạt áo hắn, giọng điệu tuy vẫn ung dung, nhưng rõ ràng mang theo mấy phần chột dạ: “Y muốn ta làm cái gì thì ta làm cái nấy.”
Biện Hoa tưởng rằng trong cơn thịnh nộ, Lý Khác rất có thể sẽ giết mình để trút giận. Nhưng lúc hắn ngẩng đầu nhìn, lại thấy Lý Khác đã vứt thanh chủy thủ nạm hồng bảo thạch đó xuống, rã rời ngã ra đất, lẩm bẩm tự hỏi: “Tại sao?”
“Vì ngươi! Dương Chính Đạo làm chuyện gì cũng đều là vì ngươi. Không lâu sau khi bà ngoại qua đời, y đến tìm ta, hỏi loại thuốc độc mà năm xưa ta đã dùng để giết Vũ Văn Sĩ Cập. Y nói, không thể để đại phu tra ra bất cứ dấu hiệu trúng độc nào. Vì vậy, ta đành phải cải tiến công thức để có thể bảo đảm chắc chắn mạch tượng của y không có gì bất thường. Nhưng đau đớn mà y phải chịu cũng sẽ nhiều hơn gấp mấy lần. Y biết, một khi cha ngươi quy tiên, những kẻ đó nhất định sẽ lấy mạng y trước, còn ngươi thì tất nhiên sẽ báo thù cho y. Điều bọn chúng đợi chính là ngươi tự chui đầu vào rọ, phạm đại tội mưu phản!”
“Cho nên, huynh ấy vội vã giết bản thân trước bọn chúng. Vả lại, huynh ấy không thể chết bằng bất cứ phương thức bất thường nào, chỉ còn cách chết vì bệnh trầm kha. Như vậy, ta sẽ không nghi ngờ bất cứ ai. Lý Khác chỉ cảm thấy máu toàn thân đều đông đặc lại, tay chân tê dại, không cựa quậy nổi.
“Phải! Y biết ngày này sớm muộn sẽ đến. Nhưng y còn vợ con, y không nỡ rời xa bọn họ. Cho nên không đến lúc vạn bất đắc dĩ, y cũng sẽ không đòi ta gia tăng liều lượng, đẩy nhanh cái chết của mình.”
Lý Khác khẽ thở dốc, nói một cách khó nhọc: “Nói cho ta cách cứu y”
Biện Hoa thực sự cảm thấy không nỡ. Nhưng mà, nước đổ khó thu, dù chư thần chư Phật tề tụ, cũng chỉ có thể nói bốn chữ giống như hắn: “Vô phương cứu chữa.”
“Vô phương cứu chữa, vô phương cứu chữa...” Lý Khác ngây dại lẩm nhầm bốn chữ này, tay nắm chặt chéo áo của mình, “Nói! Nói cho ta tất cả những gì ngươi biết!”
Sáng tinh mơ tĩnh lặng, đằng Đông mặt trời mọc. Ánh nắng mang theo sức sống tràn trề của một ngày mới, ấm áp chiếu xuống vạn vật thế gian. Tháng Năm là mùa hoa thược dược nở rộ nhất. Đâu đâu cũng thấy những khóm hoa màu hồng diễm lệ. Lý Khác đứng lặng dưới hiên, nhìn trăm hoa khoe sắc, trước mặt hiện lên những năm tháng rực rỡ đã qua. Những quá khứ tươi đẹp đó, lúc này lại trở thành hồi ức đau thương gặm nhấm tim phổi y từng chút một.
Y đứng lặng lẽ ở đó, nghe tiếng đàn cầm trong phòng vẳng ra. Cái lạnh tê tái, cơn đau cắt da cắt thịt đó từ từ len lỏi giữa từng sợi dây đàn, muốn nói lại thôi, muốn dừng chẳng được. Tiếng đàn đến đoạn đìu hiu, làm nhiễu tâm trạng, loạn tiết tấu, không sao khống chế nổi. Y càng lúc càng thấy xót xa trong lòng, ngẩng đầu chăm chú nhìn mây trôi bồng bềnh, chẳng dè lại bị bụi trên mái hiên bay vào mắt.
Nốt nhạc cuối cùng vừa dứt, dây đàn đứt.
Lý Khác cuống cuồng đẩy cửa bước vào. Dây đàn dài rơi thòng xuống đất. Y nhìn mười ngón tay bị cấn đến đỏ ửng của Dương Chính Đạo, chậm rãi nói: “Bài Thử ly, đúng không?”
“Ta không muốn gảy khúc này lắm, đệ lại có thể nhận ra sao? Đúng là không dễ dàng” Dương Chính Đạo mày thưa mắt sáng, mỉm cười nói, “Nếp kia trĩu ngọn, mạ này tốt tươi. Bước đi chầm chậm, trong dạ bồi hồi. Hiểu ta thì bảo, lòng ta u hoài. Không hiểu thì hỏi, tìm chi vậy người. Trời xanh thăm thằm, nỗi này ai xui?” [*]
“Biểu huynh, bây giờ, ta có đủ tư cách để làm tri kỷ của huynh không?”
“Sao cần phải đến bây giờ? Từ thời khắc đệ thổ lộ bí mật với ta, ta đã cho rằng đệ là tri kỷ của ta rồi.”
“Vậy mà huynh lại đối xử với tri kỷ của mình như thế sao?” Lý Khác đập mạnh tay lên chiếc đàn bằng gỗ ngô đồng. Dây đàn sắc nhọn lập tức tạo ra mấy vết hằn sâu trên ngón tay y.
[*]
Nhà Chu dời đô về Đông, có quan đại phu đi ngang qua thành quách cung điện xưa, thấy đã mọc đầy những lúa, trong lòng cảm khái khôn nguôi, nên có bài thơ này.
Dương Chính Đạo úp tay lên dây đàn, trong mắt có chút thất vọng, khẽ nói: “Ta tưởng rằng, người khác không thể ly gián nổi mối quan hệ của chúng ta.”
Ánh nắng chiếu vào qua cửa sổ đang mở. Giờ Lý Khác mới để ý thấy, mặt gã tái nhợt, mắt thâm đen, gân xanh trên trán lờ mờ hiện lên, rõ ràng đã đau đến cùng cực. Lý Khác cả kinh, vội nắm lấy cánh tay gã: “Huynh tìm Vũ Văn Thiền Sư đòi thuốc độc, thật sự không muốn sống nữa sao? Tuyết Lộ thấy huynh như này, sẽ đau lòng biết mấy!”
“Cho nên... ta không thể để nàng nhìn thấy. Giọng của Dương Chính Đạo vừa nhẹ vừa chậm, hơi thở cũng không được thông suốt cho lắm, “Ta hổ thẹn với nàng. Kiếp sau dù kết cỏ ngậm vành cũng không bù đắp nổi cho nàng. Ta không nên để lòng nàng có ta... cũng không nên mất kiểm soát mà đi yêu nàng”
Lý Khác chỉ cảm thấy cổ họng nghẹn lại, thổn thức nói: “Hai người vốn dĩ có thể an tâm sống qua ngày, làm một đôi phu phụ thần tiên người người ngưỡng mộ ngợi ca.”
“Nhưng người đàn bà đó từng nói, nếu không thể giúp đệ thì chúng ta đều sẽ chết. Trừ phi ta sẵn sàng... hy sinh tính mạng vì đệ. Bà ta là người đáng sợ nhất trên đời, lời nguyền rủa của bà ta có thể ứng nghiệm.” Dương Chính Đạo cười thê lương, “Hồi ta còn nhỏ, có tiểu khả hãn của bộ lạc nọ đến chầu, nửa cố ý nửa vô tình sờ tay bà ta. Bà ta nói, không quá ba ngày, ắt sẽ có chó dữ trừng trị người đó thay bà ta. Còn nữa, Hiệt Lợi khả hãn có nàng thiếp yêu mang thai. Bà ta nói rằng, cô ta là yêu tà, đứa con sinh ra ắt cũng là tai họa của thảo nguyên. Về sau, tiểu khả hãn đó bị chó cắn đứt cả bàn tay, mà vào hôm người thiếp yêu đó sinh con, kho lương bốc cháy, thiêu rụi số lương thực dự trữ nửa năm. Trong cơn thịnh nộ, Hiệt Lợi khả hãn đã hạ lệnh giết nàng thiếp yêu của mình, vứt đứa con gái vừa mới chào đời vào giữa bầy sói, mặc cho nó tự sinh tự diệt.”
Từ nhỏ Dương Chính Đạo đã được nghe Lục thao và Tôn Tử binh pháp, chứng kiến các bộ lạc trên thảo nguyên tranh giành quyền lực, chịu sự đốc thúc dạy dỗ gần như biến thái của người đàn bà đó mà trưởng thành. Gã kiên trì, trầm ổn, thông minh. Nhưng gã sẽ không bao giờ biết được, con chó dữ cắn người đó vốn được thuộc hạ của bà ta nuôi dưỡng, còn ngọn lửa lớn đó cũng do hộ vệ nhận chỉ thị ngầm của bà ta đốt. Gã không không nghĩ ra mà là bị nỗi hãi giam cầm tư tưởng.
“Huynh coi ta là tri kỷ, nhưng đến bây giờ mới chịu nói ra những lời từ đáy lòng sao?” Lý Khác nhất thời rối loạn tâm thần, trong đầu hiện lên biểu cảm phức tạp không thể diễn tả của gã mỗi lần khuyên mình tranh ngôi trước kia. Vậy mà đến lúc này y mới nhìn ra nỗi lo lắng cho vận mệnh sống chết của đôi bên đó.
“Ta mà nói thì đệ sẽ dốc toàn lực đi tranh đoạt sao?” Dương Chính Đạo ngoảnh đầu đi, lấy khăn lau vết máu trên khóe miệng, chỉ cảm thấy trong lòng chua xót, “Ta không trách đệ, mà là hâm mộ đệ. Dù đệ và tiên đế từng cãi nhau thành ra như thế, nhưng ông ấy luôn quan tâm đến đệ, đệ cũng luôn quan tâm đến ông ấy. Tình cha con sâu nặng như vậy, đời này ta không có duyên trải nghiệm. Nhưng mà, ta hiểu đệ. Việc đệ không muốn làm, ta vĩnh viễn sẽ không cưỡng cầu”
“Huynh..” Lý Khác thấy toàn thân gã run rẩy không ngừng, liền cởi áo khoác khoác lên người gã, đứng dậy nói, “Ta sẽ lập tức vào cung tìm Vương Thọ Đức qua đây”
“Không được đi.” Dương Chính Đạo nắm lấy cổ tay y, một tấm lụa từ trong tay áo gã rơi ra. Đầu mày cuối mắt gã vẫn ẩn chứa nụ cười ôn hòa điềm đạm, “Chỉ còn một canh giờ thôi. Ta còn có điều muốn nói với đệ”
“Huynh bảo gì cơ?”
“Ta chỉ còn một canh giờ để... để nói chuyện với đệ. Đệ mà đi, e là đến kiếp sau mới có thể gặp lại ta.
Lý Khác đột ngột quay đầu lại, không biết tại sao một bụng đau thương lại biến thành nỗi hận. Y cắn môi dưới, đứt hơi khản tiếng: “Nếu hôm nay ta không đến thì sao? Huynh định cứ thể lặng lẽ chết một mình, để ta sống trong hồ đồ cả đời sao?”
Dương Chính Đạo nhất thời không nói nên lời. Đột nhiên nhìn thấy tấm lụa dưới đất, gã định đưa tay ra nhặt. Lúc này Lý Khác cũng chú ý tới nó, liền cầm lên trước gã một bước: “Là đạo chiếu chỉ cha ta giao cho huynh đó à?”
Dương Chính Đạo gật đầu rồi lại lắc đầu: “Việc đã đến nước này, còn làm gì được nữa?”
Lý Khác không đếm xỉa đến gã, cứ mở ra xem, thấy bên trên viết rằng:
Những lời lần trước, ngươi nên khắc ghi trong lòng. Ngô vương được cha mẹ dạy dỗ từ nhỏ, nên mới xứng là rường cột nước nhà. Nhưng vạn vật nơi đây đã sớm định danh phận, không hợp để tranh giành. Ngươi phải bảo nó giữ lễ pháp, tôn trọng quân vương kế vị, còn phải ngầm theo dõi lời nói hành vi, chớ để nó không tự lượng sức, giữ ý nghĩ ngông cuồng với ngai vàng. Sau này thái tử thống trị Hoa Hạ, người nên gắng vững một lòng với thái tử, mọi việc noi theo, chớ có giấu giếm, sớm lập công lao, mới không phụ lòng mong mỏi của trẫm.
Lý Khác đọc xong, liền nắm chặt chiếu thư trong lòng bàn tay, gần như là rặn ra mấy chữ qua kẽ răng: “Tại sao huynh không đưa cho bọn chúng xem? Tại sao huynh không làm theo?”
“Ta sợ đệ đau buồn!” Dương Chính Đạo lấy tay chống đầu, khép hờ mắt, ánh mắt hơi lờ đờ, “Ý của tiên đế là muốn ta thừa nhận, những năm qua ta ở bên cạnh đệ là để quan sát đệ, giám thị đệ theo ý chỉ của ông ấy. Ông ấy muốn ta đồng lòng với đương kim thiên tử, làm bề tôi trung thành với y. Nhưng ta cũng có chấp niệm nực cười của mình. Vì vậy, ta không thể làm như thế.”
“Huynh sắp mất cả mạng rồi, còn để ý ta có đau buồn hay không ư?” Lý Khác buông tay, mắt đã nhòe đi, “Cha ta đang bảo vệ huynh, cũng đang bảo vệ ta! Huynh cho rằng ta sẽ ngu xuẩn đến mức hiểu lầm ông ấy, hay là hiểu lầm huynh? Huynh đã bịt mất đường sống duy nhất của mình, làm sao xứng với tâm sức của ông ấy được?”
“Phải. Ta có lỗi với ông ấy. Thế nên, ta phải đi xuống dưới ấy để giải thích với ông ấy. Chỉ cần đệ vẫn sống, ông ấy sẽ hiểu thôi.” Dương Chính Đạo đứng dậy, nhưng người lại lảo đảo không khống chế nổi, chẳng thể nào đứng vững.
Lý Khác vội vươn tay đỡ gã: “Không được cử động bừa bãi. Mau ngồi xuống”
“Ta muốn ra sân ngồi một lát. Đệ đi cùng ta đi.”
Trong sân trồng mấy gốc đào. Hoa đào đã rụng hết, trên cây chỉ còn lại cành lá rậm rạp. Dương Chính Đạo nhìn lá cây không ngừng đung đưa theo gió, nhớ đến năm xưa lúc Lý Khác vừa đưa gã vào vương phủ, trong khoảnh sân nào cũng thấy những cây đào đang chớm nở.
Gã hỏi: “Điện hạ thích hoa đào đến thế sao?”
Y nói: “Mẹ ta thích. Lâu dần, ta cũng quen rồi thích nó.”
Gã lại hỏi: “Thói quen quan trọng như vậy à?”
Y gật đầu: “Phải. Vô cùng quan trọng”
Lúc đó, gã là bạn học của Lý Khác, cùng y đọc sách luyện võ gần như cả ngày lẫn đêm. Người trong vương phủ tuy cung kính với gã có thừa, nhưng rốt cuộc vẫn không giống thái độ đối với Lý Khác. Cho đến một hôm, gã nghe thấy Lý Khác nói với mấy quản gia trong vương phủ: “Sau này ta có cái gì, Dương công tử cũng phải có cái đó! Nếu để ta nhìn thấy các ông khinh mạn y dù chỉ một chút, thì chớ trách ta không nể mặt!”
Lúc đó Lý Khác chưa lớn, bình thường cũng đều đối xử ôn hòa với người khác. Đó là lần đầu tiên gã thấy y tỏ ra trịnh trọng nghiêm khắc, oai không để nhờn như thế. Cũng chính lúc đó, gã đã nhận thấy trên người Lý Khác tiềm tàng một thứ uy nghi đủ để cai trị thiên hạ.
Dương Chính Đạo nhìn một chiếc lá từ trên cây rơi xuống trước mặt, sau một cơn đau thắt trong lồng ngực, gã đột nhiên cảm thấy bớt khó chịu hơn. Gã nghiêng đầu, vẫn mỉm cười: “Chăm sóc Tuyết Lộ và các con giúp ta. Đừng nói cho bọn họ biết sự thật, bọn họ sẽ không chịu nổi đâu... Còn đệ, dù trong bất cứ tình cảnh nào, cũng nhất định phải sống tốt.”
Lý Khác nắm chặt tay gã, giọng khàn đặc: “Nói cho ta biết, làm thế nào mới cứu được huynh? Dù bảo ta chết, dù bảo ta đi làm chuyện ngược trời trái mệnh, ta cũng sẵn lòng!”
“Nhưng ta thì không…” Dương Chính Đạo nhắm hai mắt, hơi nhíu mày lại, “Sống và chết đều là số mệnh của ta. Việc ta muốn làm, không ai có thể ngăn nổi. Việc ta không muốn làm, không ai có thể ép được.”
Cơn gió nhẹ thổi tới, bóng nắng từ chuyển trên người bọn họ. Lý Khác đỡ gã, trông về phương xa, nói như thể đang đối mặt với gã của hơn hai mươi năm trước: “Biểu huynh, chỉ mong ta chưa bao giờ quen biết huynh.”
Y không nhận được câu trả lời của Dương Chính Đạo, chỉ có tiếng gió vẫn không ngừng ù ù bên tai. Chuỗi tràng hạt bằng gỗ tử đàn lá nhỏ nắm trong tay đang rơi từng hạt xuống đất.
Năm đó trong đình Quy Vân, Lý Khác nhìn pháo hoa đầy trời tan biến, nhặt một đóa mai đỏ trên áo đặt vào tay gã: “Ta đã nói hết chuyện của mình cho huynh. Còn huynh? Ta chỉ biết huynh là anh họ của ta. Những cái khác, ta chưa biết gì cả!”
Gã cúi đầu nghịch đóa mai đỏ trong tay, một lúc lâu sau mới nói: “Ta không muốn nói với ngài”
Lý Khác cũng không thất vọng: “Vậy đợi lúc nào huynh muốn thì hãy nói với ta. Chúng ta về thôi! Nếu còn không về, e là tiệc tàn mất”
“Tàn rồi không phải rất tốt sao? Dù sao ta cũng không muốn gặp những người đó.”
“Cũng được. Ta cũng không muốn gặp. Vậy ta sẽ ở đây cùng huynh”
Gã gật đầu. Hai người nhìn nhau cười, tâm đầu ý hợp.
Lý Khác bỗng tỉnh táo trở lại, dường như bị người ta đâm mạnh một cái gai vào tim, nhưng lại không có bất kỳ cảm giác đau đớn nào, chỉ có muộn sầu và tịch liêu vô cùng vô tận.
Gió đột nhiên mạnh hơn hẳn, thổi một tờ giấy trên chiếc bàn trong phòng rơi xuống dưới chân y. Y cúi người nhặt nó lên. Bên trên chỉ viết bốn câu thơ:
Sớm từ biệt người thân, chiều lại về đoàn tụ. Chơi với con trước giường, ngắm vợ ngồi dệt lụa.
Tiêu Nhuệ vừa đi tuần Bồ Châu trở về thì nhận được tin. Gã nhìn chằm chằm vào mắt Tiểu La, gần như không thể tin nổi: “Chết bệnh? Sao có thể chứ? Là bệnh gì?”
Tiểu La hơi sợ hãi trước ánh mắt đáng sợ của gã, hai tay bất giác run lên, nhất thời không biết nên đặt vào đâu. Cô ta hít sâu một hơi: “Nô tì nghe người ta nói, thái y thự lệnh Vương thái y cùng vài vị thái y khác đều chứng thực, Tuyên Bình hầu mắc bệnh trầm kha mà qua đời. Còn rốt cuộc là bệnh gì thì bọn họ cũng không nói rõ được. Mà mấy quản gia trong phủ cũng đều bảo rằng, mấy hôm đó đúng là Tuyên Bình hầu ốm rất nặng. Chỉ là không ngờ lại nhanh như thế.”
Tiêu Nhuệ nằm vật ra giường. Trải qua mấy ngày bôn ba, gã cảm thấy mệt không chịu nổi. Nhưng mấy câu nói này của Tiểu La lại mang đến cho gã cảm giác nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, dường như trái tim bị dây mảnh siết chặt bấy lâu cuối cùng đã trở về vị trí cũ. Gã lại hỏi: “Bệ hạ nói thế nào?”
“Đột nhiên mất đi một bề tôi giỏi, bệ hạ cũng rất buồn” Tiểu La nói với giọng lãnh đạm, chỉ như đang kể lại một sự thật đã định, “Hôm qua bệ hạ vừa hạ chỉ, truy phong Tuyên Bình hầu làm Yên quốc công, gia tặng chức tư đồ. Bộ Lễ cũng đã định tên thụy là Chiêu.
“Đức sáng có công gọi là chiêu, dáng vẻ khiêm cung tuấn mỹ gọi là chiêu, thông hiểu mọi điều gọi là chiêu.” Mấy năm trước Tiêu Nhuệ đã đọc hết sách Thụy pháp giải, bây giờ tất nhiên có thể thuận miệng nói ra. Gã đang nghĩ đây đúng là một cái tên thụy rất hay, đột nhiên lại nhớ đến gì đó, vội hỏi: “Thế còn Ngô vương? Ngô vương thì sao?”
“Mấy ngày nay Ngô vương rất bận.” Tiểu La suy nghĩ rồi nói, “Bệ hạ sai Ngô vương cúng tế thay, Ngô vương cũng đến đó điếu tang. Có điều..”
Tiêu Nhuệ nghiêng đầu nhìn cô ta: “Sao lại không nói tiếp?”
Tiểu La nhích người lại gần gã hơn một chút: “Nô tì cũng chỉ nghe những người rảnh rỗi nói lung tung mà thôi. Họ bảo Ngô vương và Yên quốc công xưa nay qua lại thân thiết, nhưng lần này lại không thấy ngài ấy có bất cứ biểu cảm bi thương nào, như thể đây chỉ là một người quen sơ qua đời mà thôi.”
Tiêu Nhuệ đưa tay ra, để Tiểu La chầm chậm xoa bóp cho gã. Gã hơi lo ngại, cũng hơi bất an: “Sao có thể chứ? Hai người bọn họ thật sự có giao tình sinh tử mà!”
Tiểu La nhíu mày lắc đầu, nói giọng nhẹ nhàng chậm rãi: “Nô tì cũng không biết. Có lẽ, vì Yên quốc công có thể giúp Ngô vương tranh đoạt thiên hạ, nên mối quan hệ của bọn họ mới tốt. Bây giờ Yên quốc công đã chết, Ngô vương mất hy vọng, đương nhiên cũng không cần quá đau lòng vì ngài ấy.”
“Không. Cô không hiểu Ngô vương, y không phải là người như vậy? Tiêu Nhuệ bỗng cảm thấy buồn bực ghê gớm, nhất thời thở không ra hơi. Gã ngồi thẳng người, hít sâu một hơi: “Y giao hảo với người khác, không bao giờ vì lợi ích...
Vừa dứt lời, ngay chính Tiêu Nhuệ cũng sợ giật nẩy mình. Hóa ra trong tiềm thức, gã vẫn tin cách làm người của Lý Khác đến thế. Vậy thì mấy năm trở lại đây, rốt cuộc gã vướng mắc oán hận điều gì? Gã nhìn Tiểu La, bỗng nhiên cảm thấy cả người đông lại thành lớp lớp băng tuyết. Đang giữa tháng Năm, gã lại không ngừng run cầm cập.
Tiểu La cuống quýt đưa cho gã chén trà: “Phò mã... ngài muốn đi viếng không? Nghe nói đại đa số triều thần đều đã đi rồi.”
“Đi! Sao có thể không đi cơ chứ?”
“Vậy nô tì đi chuẩn bị luôn.
“Đừng... hôm nay đã muộn rồi. Đợi mai hẵng đi.”
Trong Cảnh Hạnh trai của phủ Ngô vương, Kỳ Úc cầm bút nhúng vào thuốc màu xanh lá cây trước mặt, ngẩng đầu hỏi: “Cẩm Văn, ngươi nghĩ kỹ lại xem, từ cửa sổ nơi giam giữ các ngươi nhìn ra, cái cây đó rốt cuộc là liễu hay du?”
Cẩm Văn ấn mạnh vào trán, nghĩ ngợi rất lâu rồi mới khẳng định: “Là ba cây liễu ạ. Nô tì dám chắc.”
“Tốt lắm.” Kỳ Úc vừa nói vừa nhanh chóng thêm vài nét bút lên tờ giấy, tiếp tục dò hỏi, “Ngươi bảo là, mỗi ngày đều có người đưa màn thầu và nước lã cho các ngươi, thế thì người có nhớ dáng vẻ của kẻ đó không? Không nhất thiết phải là tướng mạo, những đặc điểm khác cũng được.”
Cẩm Văn nhắm mắt, mồ hôi dần thấm ướt áo ngoài. Dù sự việc đã qua lâu rồi, nhưng những ký ức đáng sợ đó vẫn luôn lởn vởn trong đầu cô ta. Muốn khơi lại chúng từng chút một, quả thật là làm khó cô ta. Kỳ Úc đặt bút xuống, liếc nhìn Vân Hương. Vân Hương lập tức bước lên, vỗ lưng cô ta, nhẹ nhàng an ủi bên tai cô ta mấy câu. Mặt Cẩm Văn đã giãn ra không ít, cô ta vội đứng dậy, nói với ánh mắt đầy áy náy: “Nô tì vô dụng. Lâu như vậy rồi, nô tì không nhớ ra được cái gì có ích.”
Tuy trong lòng đã vô cùng sốt ruột, nhưng ngoài miệng Kỳ Úc lại chỉ nói: “Không sao. Bất cứ lúc nào, nếu ngươi nhớ ra được gì thì nhất định phải nói cho ta ngay lập tức.
Cẩm Văn vừa dạ một tiếng thì nghe thấy Hà Bội gõ cửa bước vào, tuy thở hổn hển, nhưng lại mừng ra mặt: “Vương phi, Thanh Đại... Thanh Đại đã hết điên rồi. Nghe nói vương phi đang điều tra chuyện bọn họ bị bắt cóc, liền vội vàng đòi đến gặp người.”
Kỳ Úc nói “tốt, tốt, tốt” liên tục mấy tiếng, rồi vội bảo: “Mau đưa cô ta vào!”
Thanh Đại có dung mạo thanh tú, chỉ vì gặp phải kiếp nạn này, lại ốm nặng một trận, nên sắc mặt vô cùng vàng vọt tiều tụy. Cô ta loạng choạng bước vào, đang định cúi người hành lễ thì thấy Kỳ Úc đi đến trước mặt, đỡ hờ cô một cái: “Mau ngồi xuống! Nói toàn bộ những gì ngươi nhớ được cho ta.”
“Vâng” Giọng Thanh Đại trong trẻo, nói cũng nhanh hơn Cẩm Văn rất nhiều, “Nhưng mà nô tì cũng không nhớ được nhiều. Không biết có làm vương phi thất vọng.”
Kỳ Úc ra hiệu cho cô ta nói tiếp. Thanh Đại liền kể lại hết âm thanh mà dọc đường cô ở trên xe ngựa nghe được, tướng mạo của kẻ xấu mà cô thoáng nhìn thấy lúc bị kéo rơi khăn bịt mắt, cùng những cảnh vật khác ở ngoài cửa sổ ngoại trừ cây liễu. Mỗi lần nghe được một điểm mấu chốt, Kỳ Úc đều bảo Thanh Đại dừng lại, vẽ thêm vài nét lên tờ giấy.
“Đình Thu Hà nằm ở phường Phổ Ninh. Dựa vào những gì ngươi miêu tả, căn phòng tối đó chắc nằm trong phường Sùng Nhân hoặc phường Đức Hưng.” Kỳ Úc đặt bút lên cái gác bút, “Ngươi tả kỹ lại dáng vẻ của kẻ đó hơn một chút xem nào!”
“Đó chắc là một gã đàn ông khoảng ba mươi tuổi, để ria mép, có hốc mắt rất sâu, cằm bên trái hình như... có một chấm đỏ. Không biết đấy là vết thương hay nốt ruồi. Những cái khác, nô tì thật sự không nhớ nổi. Không đúng! Còn nữa, trên cổ tay áo hình như thêu một... một”
“Cái này nô tì cũng từng nhắc đến với phò mã rồi, đó là một con chim nhỏ màu trắng” Cẩm Văn nghe đến đây, lập tức tiếp lời.
“Đúng! Là một con chim nhỏ.”
Kỳ Úc tỏ vẻ khen ngợi, lại cầm bút lên, dừng lại một chút rồi vẽ vào tờ giấy dáng vẻ của gã đàn ông đó theo lời miêu tả của Thanh Đại. Vẽ xong, nàng gọi Vân Hương trải nó ra cho bọn họ xem. Hai người vừa nhìn, sắc mặt đồng thời thay đổi, đồng thanh nói: “Chính là hắn!”
“Rất tốt. Lần này các ngươi chịu khổ rồi. Nếu các ngươi bằng lòng thì từ nay về sau có thể ở lại vương phủ làm việc. Kỳ Úc cuộn bức tranh lại, ngẩng đầu nói.
Thanh Đại đỏ hoe vành mắt, rưng rưng lệ nói: “Mạng của nô tì hoàn toàn là nhờ Ngô vương và vương phi cứu. Sau này nô tì nhất định sẽ làm việc chăm chỉ, tuyệt đối không dám lười biếng!”
“Thanh Đại nói đúng! Nô tì cũng bằng lòng ở lại. Bọn nô tì đều theo công chúa từ nhỏ. Giờ công chúa mất rồi, bọn nô tì cũng không muốn về đó nữa.”
Kỳ Úc xua tay, bảo Hà Bội đưa bọn họ lui xuống. Tay phải nàng vẫn không ngừng xoa bức tranh vẽ cảnh bên ngoài căn phòng tối đó, tựa hồ luôn cảm thấy đã đi qua chỗ này rồi. Còn gã đàn ông bắt cóc Cẩm Văn, Thanh Đại, hình như cũng hơi quen mắt. Nhưng rốt cuộc đã gặp ở đâu rồi nhỉ? Nàng nhíu chặt đôi mày, chu sa trên bút nhỏ lên tay, giống như những giọt máu đỏ thẫm.
“Tam tẩu, nghỉ một chút đã rồi nghĩ tiếp! Vân Hương nói mấy hôm nay chị không ngủ không nghỉ, đi rất nhiều nơi, điều tra không ít người. Việc này vốn không dễ làm. Muốn vội cũng không được đâu.” Văn Nhân cầm lấy cây quạt từ tay Vân Hương, phe phẩy cho Kỳ Úc. Từ khi sinh hai cậu con trai sinh đôi cho Sài Triết Uy, cô biết ơn Kỳ Úc vô cùng, luôn cảm thấy những phương pháp nàng nói với cô năm xưa đã có tác dụng. Vì vậy sau khi hết ở cữ, cứ hai ba hôm cô lại chạy đến vương phủ một lần. Mấy ngày nay tâm trạng của Kỳ Úc không được tốt, nên cô cũng năng đến hơn.
“Sao lại không vội cơ chứ? Vì chúng ta cứ không vội vàng, quá tin vào lòng người, quá tin vào tình thân, nên mới đến nông nỗi này!” Kỳ Úc chỉ cảm thấy ngọn lửa đè nén trong lòng bỗng bùng cháy không khống chế nổi, liền hất hết những thứ trên bàn xuống đất.
Văn Nhân chưa bao giờ trông thấy nàng mất kiểm soát như thế này, chần chừ không dám tiến lên, đành phải nhìn cát trong đồng hồ đang rơi xuống từng hạt, tựa hồ mãi mãi không ngưng nghỉ. Hồi lâu, Kỳ Úc mới định thần lại, nhìn bộ dạng hoang mang bối rối của Văn Nhân, bèn nắm tay gõ lên trán mình một cái, bước đến bên cạnh cô, áy náy nói: “Xin lỗi, Văn Nhân, ta không cố ý. Biểu huynh ra đi, ta thật sự rối bời”
Văn Nhân vội nắm tay nàng nói: “Không sao đâu, tam tẩu không coi em như người ngoài nên mới như vậy. Em biết, tam tẩu và tam ca đều khó chịu trong lòng. Có điều, sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên, hai người cũng phải từ từ nghĩ thoáng ra mới được.”
Sinh lão bệnh tử.
Kỳ Úc cười gượng gạo. Giả như thật sự là sinh lão bệnh tử, nàng sẽ không đau lòng và day dứt như thế này sao? Nếu lúc đó nàng mặc kệ Miên Man, nếu nàng không nói tin tức mà Miên Man nghe ngóng được cho Dương Chính Đạo, thì có lẽ cục diện sẽ không rối rắm hỗn loạn như bây giờ. Nàng muốn bù đắp, muốn đền tội. Nhưng dẫu bù đắp và đền tội thế nào đi chăng nữa, những thứ bọn họ mất đi đều đã vĩnh viễn mất đi.
“Văn Nhân, cảm ơn em. Ta hiểu rồi. Mọi chuyện sẽ dần tốt lên thôi.”
Văn Nhân nghe giọng nàng ôn hòa, cho rằng tâm trạng nàng cũng đã dịu bớt, liền thở phào một hơi, cúi đầu nhìn bức tranh đó, không khỏi kính phục từ tận đáy lòng: “Tam tẩu quả là lợi hại. Nha hoàn đó nói mỗi thế mà tam tẩu lại vẽ được sống động như này”
Đang nói thì lại nghe thấy có tiếng bước chân từ phòng ngoài vẳng tới. Vân Hương đi ra xem, rồi đưa người vào trong: “Vương phi, Vương nương tử đến rồi.
Văn Nhân thấy có khách lạ đến thăm, cảm thấy không tiện ở lại, liền nhún mình nói lời tạm biệt Kỳ Úc rồi rời đi.
Kỳ Úc thấy Vương Huy Nhi mặc váy dài và áo cân vạt tay chẽn màu trắng, trên tóc cài một đóa hoa lụa trắng, thì biết ngay tâm tư của cô, trong lòng bất giác sụt sùi. Năm xưa, nàng chỉ coi tình cảm của cô như câu chuyện cười trong bữa cơm, chứ không biết cô lại nghiêm túc như vậy.
“Việc nhờ Vương nương tử điều tra lần trước có manh mối rồi phải không?”
Vương Huy Nhi vén áo vái: “Vâng. Dân nữ moi được từ miệng Hồ An Thái, người mà Tiểu La nhiều lần đến phủ Trưởng Tôn tìm chính là nhũ mẫu Tiêu nương ở cùng dân nữ. Nhà chồng của cô ta nằm ở đầu thôn Ngũ Liễu của phường Tường Hòa. Vương phi yên tâm, dân nữ nhất định sẽ theo dõi sát sao cô ta. Nếu vương phi cần, dân nữ nhất định sẽ nghĩ cách lừa cô ta”
“Tốt! Tốt quá.” Kỳ Úc không ngờ chỉ trong nửa ngày ngắn ngủi lại có thu hoạch lớn như vậy, vỗ tay nói: “Đúng rồi! Còn một việc nữa, cô sinh trưởng trong dân gian, lại đây xem có nhận ra chỗ này không?”
Vương Huy Nhi nhìn đi nhìn lại, vẫn lắc đầu, mắt đầy vẻ hổ thẹn: “Dân nữ thực sự không biết”
Tuy trong lòng hơi thất vọng, nhưng Kỳ Úc không để lộ ra ngoài, chỉ dặn dò Vương Huy Nhi mấy câu, bảo cô nhớ cần thận mọi việc, rồi gọi người tiễn cô ra ngoài.
Chập tối đầu hè, ve kêu râm ran không ngớt. Gió chầm chậm thổi hơi nóng trên mặt đất lên, làm lòng người càng thêm bức bối. Kỳ Úc nhìn đá trong chậu đồng đang tan ra từng chút một, ấn vào hổ khẩu, cố tĩnh tâm suy nghĩ kỹ vấn đề. Nhưng nàng càng nghĩ, càng cảm thấy đau đầu kinh khủng. Thế là nàng cuộn hai bức tranh lại với nhau, lấy dây buộc lại, rồi vội vã bước ra ngoài cửa.
Kỳ Úc vừa đi đến hành lang bên ngoài Thụy Phúc đường thì thấy Quý Ân từ bên trong bước ra, thi lễ: “Ti chức tham kiến vương phi. Hôm nay suốt cả buổi chiều điện hạ không ra ngoài.”
Kỳ Úc gật đầu: “Ngươi đi dặn đầu bếp, nấu chút mì và mấy món thanh đạm, nửa canh giờ sau đem qua đây.
Quý Ân vâng dạ: “Vương phi yên tâm. Ti chức biết rồi.”
Tất thảy đèn nến trong phòng trong đều được thắp lên, sáng đến mức hơi chói mắt. Lý Khác ngồi ngay ngắn trước bàn, cầm bút hạ từng nét xuống tờ giấy một cách cực kỳ chậm rãi. Mỗi chữ viết ra dường như đều khắc một vết sâu hoắm vào trái tim y, viết xong hơn nghìn chữ, y chỉ cảm thấy trái tim đã bị khoét thủng một lỗ sâu không thấy đáy. Bên trong trống huếch, nhưng không đặt nổi bất cứ tâm trạng nào, chỉ có nỗi cô độc và sợ hãi vô biên trong sự chán ngán đến tột cùng.
Hai chiếc lư bác sơn trong phòng đang đốt đàn hương thanh nhẹ, khói hương tỏa ra từng làn, dần dần át đi mùi nồng đậm của rượu mơ xanh. Lý Khác giật nút vò rượu, một hơi uống hết chỗ rượu còn lại bên trong, đột nhiên cảm thấy toàn thân sảng khoái hơn không ít. Chẳng trách Đào Uyên Minh nói rằng, bên trong bao ý đẹp, muốn nói lại quên lời. Hóa ra, dốc lòng uống một vò rượu, thật sự có thể quên đi mọi thứ tình cảm trên trần thế.
“Bắt đầu từ khi nào?” Kỳ Úc ngồi quỳ bên cạnh y, giơ tay sờ lên gò má nóng rực của y, “Trước kia, chàng không uống nổi một ngụm rượu. Không nổi mẩn đỏ thì cũng nôn thốc nôn tháo. Bây giờ uống nhiều thế này, mà vẫn có thể tỉnh táo như vậy.”
“Quen rồi nên không sao.” Lý Khác mỉm cười, nói nhẹ nhàng như gió thoảng mây thưa.
“Được. Chàng đã thích thì thiếp sẽ bồi tiếp chàng!” Nói rồi Kỳ Úc liền mở một vò rượu khác, rót đầy hai chén, tự uống một chén trước, rồi đưa chén kia cho Lý Khác.
Lý Khác uống cạn một hơi không cần suy nghĩ. Thấy Kỳ Úc vẫn định rót thêm, y vội ấn tay nàng: “Rượu này hại dạ dày, không được uống nữa.
Kỳ Úc thấy giọng y bình tĩnh, thản nhiên đến mức nàng gần như đã tin. Nhưng bàn tay nắm tay nàng rõ ràng đang không ngừng run rẩy. Thế là nàng nắm trả lại tay y càng chặt hơn: “Trước mặt thiếp, chàng vẫn muốn vất vả chịu đựng như vậy sao?”
Lý Khác hơi ngớ ra, nhìn ba viên ngọc mỡ dê trong suốt trên cổ tay dưới ánh nến chói mắt, khẽ nói: “Kỳ nhi, nàng biết không? Mãi đến bây giờ, ta mới thực sự hiểu được tâm trạng của cha năm xưa..