TRƯƠNG VĨNH KÝ -HÀN-UYỄN-LỤC -I- THƯ, TRÁT (Sáu tháng Biện Lý Quốc Sự ở Huế)-(Six mois de vie politique avec Paul Bert à Huế)-Nguyên chữ Pháp lược dịch-
N° I
Chợ Quán, le 27 mars 1886
Tướng Công Đại Nhân các hạ,
Đọc bức thư của Đại Nhân rồi, tôi càng thêm thấy Đại Nhân lấy thật tình mà đãi tôi, và tỏ dấu chiếu cố đến phận tôi. Tôi thừa dịp nầy mà trả lời bức thư trước của Đại Nhân. Đại Nhân cậy tôi hai việc: Việc thứ nhất là lập sổ biên tên mấy người dùng làm Thông Ngôn, thời tôi đã lập xong; còn việc thứ nhì là tính đem gia quyến tôi theo, thời tôi làm được mới có phân nửa mà thôi, vì hai thằng con tôi chuyến nầy không thể đi theo tôi được, bởi vì vợ của chúng nó, một đứa thời đẻ mới có 3, 4 ngày rày, còn một đứa thời gần ngày sanh thai. Ấy vậy có một mình tôi đi theo Đại Nhân được mà thôi. Tôi sẵn lòng đi với ít người bằng hữu đáng tin cậy, đi tạm một ít lâu, rồi tôi sẽ trở về lo làm phận sự Nhà Nho, cũng như ông Cincinatus ngày xưa lo về cầm cày vậy. Tôi tưởng có lẽ tôi với ông Pène Sièfert và mấy người bằng hữu của tôi có thể ruồng mở chông gai, đặng giải quyết cái vấn đề của nước Annam đương trông đợi đó.
Chiều mai tôi sẽ cho Đại Nhân lời dụ của tôi đã thảo ra trong tuần nầy, và tôi đã dịch ra đủ ba thứ chữ. Tôi sẽ trao não tờ mời nhóm Hội Cố Vấn Nghị Viên và mấy sổ thống kê khác nữa.
Gia quyến tôi đều trông mong chiều mai được nghinh tiếp quí quyến đủ mặt không sót một ai.
Cúi xin Đại Nhân chứng lòng thành kính cho tôi.
Ký tên
Trương Vĩnh Ký
N° IIHuê, le 10 mai 1886
Tướng Công Đại Nhân các hạ,
Chắc ông Pène, là bạn thiết của Đại Nhân đã trình đã trình cho Đại Nhân xem tờ phúc của tôi về cái hư hại trong Thành Huế vì cái vận hội xảy ra ngày 5 Juillet đó. Tôi tưởng bao nhiêu đó và một ít điều tôi sẽ đối diện mà bày tỏ thêm cho Đại Nhân rõ nữa, thì Đại Nhân sẽ để mà gỡ rối và để mà lo chấn chỉnh sự Bảo Hộ cho xứng đúng với cái trách nhiệm của Nhà Triết Học và cũng là Nhà Chánh Trị của Đại Nhân đó vậy.
Tôi cũng gắng công nhơn chỗ quyền thức của tôi mà làm cho Đại Nhân rõ được cái tình hình Quốc Sự thêm nữa. Tôi hết lòng khâm phục cái việc ông Pène tính dùng người bổn xứ mà binh vực trong xứ, nên tôi liền tâu cho Hoàng Thượng và trình với Cơ Mật làm theo liền. Phận tôi cũng như người dẫn lộ, nên tôi đã lo ruồng đường Đại Nhân, đi đến đâu tôi cũng tôn trọng cái danh giá của Đại Nhân đặng cho thiên hạ phục tùng.
Tôi vẫn biết trong mấy ngày rày bên Tòa Sứ cứ khuyên Triều Đình ‘’Nam’’ đừng có làm theo ý đã định đó; chắc là tòa Sứ có tính kế nào khác nữa, chớ chẳng không?
Vậy xin Đại Nhân hãy so sánh hai cái kế ấy rồi Đại Nhân liệu định lấy. Tôi tưởng mấy việc ngỏ mọn tôi giúp cho Đại Nhân đã hoàn thành rồi hết.
Tôi với ông Tạo đã xuống tàu mà về Sài Gòn rồi, nếu tôi không tính nấn ná mà từ biệt Đại Nhân là người có lòng chiếu cố tôi hồi ở Chợ Quán, việc ấy tôi không thể nào mà quên được. Gia quyến tôi trông đợi tôi, mà tôi đã quen thói bình tịnh, nên tôi cũng trông được ở ăn yên ổn nữa lắm.
Ông Pène có dọ ý tôi, muốn cho tôi làm việc gì khác nữa đó không biết. Vả tôi bị nhiều người dại dột hoặc hung ác họ ganh ghét nữa. Vậy tôi muốn về lập tức, bởi vì nếu tôi diên trì, thì e chẳng khỏi ông Pène dụ dỗ, khiến cho tôi làm việc bậy bạ. Ông Pène thật là đấng vô tư, cứ lo cho bằng hữu mà thôi. Ông có nhiều cái lý thuyết tân kỳ, trí ý của ông lẹ làng lắm, có nhiều chỗ người ta không biết đâu mà rờ, mà đến ông thì ông tính dể như chơi. Ông thấy xa, liệu dụng, mà lại tính mau nữa. Tại Huế ai nghe ông nói chuyện cũng đều té ngửa. Ban đầu họ đến viếng, là viếng tôi, mà bây giờ họ cũng viếng luôn đến ông nữa, dầu có việc gì, họ cũng đến hỏi ông.
Khi chiếc tàu ‘’Léon’’ đến đây, thời chúng tôi tìm tàng việc của chúng tôi đã xong rồi hết, nên tôi tưởng có lẽ chúng tôi sẽ đi Bắc Kỳ ở ít ngày được, vì ngoài ấy tôi có bằng bối nhiều. Nhưng mà thôi, để khi khác sẽ đi. Hôm trước tôi có gởi cho Đại Nhân một bức thơ riêng bằng chữ La-tinh. Tôi không thấy trả lời, nên tôi không biết Đại Nhân có tiếp được hay không? Tôi xin lỗi với Đại Nhân mà ở trong thành từ nay cho tới bữa tàu chạy, nếu có việc chi cần dùng đến tôi, thời tôi sẽ sẵn lòng mà giúp cho Đại Nhân luôn luôn, xin Đại Nhân chớ ngại. Tôi dám bảo kiết rằng: Dụng hình bằng hữu của người Nam cũng vững bền như dụng tình bằng hữu của người Pháp vậy.
Tuy vậy mà tôi muốn đến viếng Quí Quyến một lần đặng tỏ lòng ái kính, vì quí quyến đã có lòng đoái tưởng đến tôi. Còn về phần tôi đối với Đại Nhân thời tôi vẫn nguyền giữ một lòng thành tín luôn luôn.
Ký tên
Trương Vĩnh Ký
N° IIIHuê, le 10 mai 1886.
Kính Tiên Sanh,
Tôi đã có tỏ với Tiên Sanh rằng: Tôi lấy làm vui lòng và lấy làm cảm ơn Tiên Sanh với lịnh mụi phu đã quyết định như vậy. Nay Tiên Sanh muốn trở về Sài Gòn ít ngày, vậy tôi nhân dịp nầy mà xin Tiên Sanh tỏ lại giùm với Quí Quyến rằng: Tôi gởi lời thăm. Tôi đây cũng là người trong Quí Quyến, bởi vậy nên tôi vẫn biết tình thân ái ấy nó thường làm cho mình thêm sức mà đởm đương với đời. Tôi ước trông Tiên Sanh về nhà rồi, càng thêm sức nữa và trông Quí Quyến thuận tình giúp đỡ Tiên Sanh trong lúc này là lúc Tiên Sanh quyết định đại sự là giúp cho nước Đại Pháp và nước Đại Nam.
Bạn yêu dấu.
Ký Tên
Paul Bert.
N° IVHuê, le 17 juin 1886
Tướng Công Đại Nhân các hạ,
Đại Nhân lấy tình bằng hữu, lấy lòng khoan nhơn mà đãi tôi, đến việc mảy múng Đại Nhân cũng ân cần cố cập.
Ông Pène nói chuyện với tôi, ông thường khen Đại Nhân lắm. Mà theo trí tôi xét thời Đại Nhân còn cao hơn lời nói ông Pène đó nữa. Bởi vậy tuy là tôi đau rét nên phải tọa sàng đến ngày tàu chạy, song tôi cũng ráng làm cho tròn phận sự, dầu sống thác không cần. Bữa nay trong mình tôi đã khá rồi, tôi ở lại đây. Tôi sẽ lo khảo cứu nhân vật đặng chừng Hoàng Thượng hồi trào, chúng ta sẽ bắt đầu mà lo tổ chức sự canh cải, dùng người cho xứng với trách nhiệm mới được.
Tôi sẽ bỏ dẹp bọn sàm nịnh hết thảy, tôi sẽ lựa người thật có tài kinh tế mà hầu cận giúp cho Hoàng Thượng và sung vào Cơ Mật Viện.
Người có tài không thiếu gì, cứ chọn trong đám Nho Học, là chỗ tôi thường trông cậy, để lo dìu dắt xã hội, mà cái cơ sở Tông Giáo nay đã điêu tàn; nếu sanh tồn được ấy là nhờ mấy cái chủ nghĩa luân lý mà thôi, mà dầu Tông Giáo nào cũng gồm chung mấy chủ nghĩa ấy, chớ chẳng có chi lạ. Trong đạo trị nước, nếu biết nghĩ như thế, thời tức nhiên phận sự hoàn toàn, chẳng có chi khó; nếu các Tông Giáo không làm chi náo động công chúng, thời nhà nước cứ giữ địa vị trung lập mà điều đình. Tôi nói đây là có ý muốn cho Đại Nhân biết rằng hễ luận đến quyền lợi của Quốc Gia thời tôi không kể đến cái đức tin riêng của tôi. Trong bộ Sử Ký tôi viết thời tôi cũng đã có tỏ cái ý ấy rồi. Rồi đây tôi sẽ ráng mà diễu giải cho các Nhà Nho Học họ hiểu rằng: ‘’Nếu không có Pháp Quốc thời Annam không làm nên việc gì được, mà chống cự với Pháp Quốc cũng không nổi, bởi vậy phải tay nắm tay, đừng có chút ngoại ý, đã sẵn có người hảo tâm như Đại Nhân thời cứ đương lấy đó mà cậy nhờ’’.
Tôi đã khởi đầu viết một quyển sách tựa đề: ‘’Tân Thi Đại’’. Quyển sách ấy bắt đầu nói từ khi Đại Nhân mới đáo nhận, rồi lần lần diễn giải các cuộc chỉnh đốn của Đại Nhân, mỗi cuộc tôi đều chỉ cho nước Annam làm gương mà noi theo. Xin Đại Nhân làm ơn biên cho tôi biết coi công trình của Đại Nhân ngoài Bắc Kỳ ra thế nào? Đặng tôi viết cho đúng và cho đủ. Lại tôi đã lãnh chủ nhậm tờ Công Báo, vậy xin Đại Nhân dạy gởi cho tôi những nhựt báo như ‘’l'Avenir du Tonkin’’ v.v...
Ngửa vưng lòng ái kính,
Ký Tên
Trương Vĩnh Ký
Nói thêm. Hoàng Thượng đã di giá hồi sớm mai nầy. Ông Toute với ông Halais đến trễ vài giờ đồng hồ, vậy tối nay hai ông sẽ thừa dịp trăng tỏ mà đi với ông Pène đặng theo hộ giá Hoàng Thượng.
N° VHanoi, le 29 juin 1886.
Kính Tiên Sanh,
Ý kiến của Tiên Sanh đã tỏ trong bức thơ trước thiệt là cao thượng lắm, nhưng mà tôi vẫn biết Tiên Sanh, nên tôi chẳng lấy làm chi lạ. Tôi biết Tiên Sanh ngồi trên cao mà nghị luận Tông Giáo, là vấn đề xưa nay thường phân rẽ, thường gây ác cảm cho người tầm thường lắm. Tông Giáo nào cũng phải vậy, ấy là một nhà trường lớn chuyên dạy luân lý. Nếu có chỗ không hay, thời tại người thay mặt cho Thần, Thánh, Phật, Trời, chớ chẳng phải tại Đạo; vậy mình có trách thời trách Thầy Tu, chớ không ai dám trách Đạo.
Tuy vậy, mà thôi, để dẹp triết học lại đó, đặng lo quốc sự, để tính coi phải làm thế nào mà giải quyết vấn đề Tông Giáo trong nước Annam đương buổi nầy. Tôi lấy làm vui lòng mà hay Tiên Sinh cũng đồng một ý kiến với tôi trong việc ấy. Tuy vậy mà xin để cho tôi bày tỏ tư tưởng của tôi ra đây cho rõ ràng.
Thuở xưa Pháp Quốc tưởng mình là nước có trách nhận bảo hộ cho các Môn Đệ của ‘’Thiên Chúa Giáo’’, bởi vì Pháp Quốc tin chắc rằng Đạo ‘’Thiên Chúa’’ là cao thượng hơn các Đạo khác của dân ngoại quốc, nên mới dùng các thế lực mà giúp cho Đạo ‘’Thiên Chúa’’ bành trướng ra. Phận con gái đầu lòng của ‘’Thiên Chúa Giáo’’ thời tức nhiên phải giúp với mẹ mà thâu phục hoàn cầu! Dưng cả thính danh, cả và khí giới cho ‘’Thiên Chúa Giáo’’ và cho các Thầy Tu dùng; bởi vậy cho nên việc gì của Pháp Quốc làm đều cho là Đức Chúa Trời làm hết thảy.
Dân Pháp Quốc cách mạng lập hiến từ năm 1780 thời đã bỏ cái lý thuyết ấy rồi. Pháp Quốc không được tưởng mình có quyền truyền đạo nữa. Pháp Quốc không công nhận đạo nào là đạo của quốc gia. Pháp Quốc còn giúp tiền cho ‘’Thiên Chúa Giáo’’ mà thôi, mà giúp đó cũng như giúp cho Đạo ‘’Tin Lành’’, Đạo ‘’Á Rập’’, Đạo ‘’Hồi Hồi’’ đó vậy.
Ấy vậy ở ngoại quốc thời nước Pháp cũng không lo giúp mà truyền Đạo Thiên Chúa bao giờ. Pháp Quốc có cái chủ nghĩa cao thượng hơn nữa, Pháp Quốc lo giữ gìn bảo hộ cho mỗi người được thong thả tri mà tín ngưỡng đạo nào tùy ý. Dầu trong nước của mình hay là trong nước nào mà Pháp Quốc có chút ít quyền thế, thời Pháp Quốc không chịu để cho một người nào vì lòng tín ngưỡng Tông Giáo mà bị ai hà hiếp bức sách. Nếu có vậy, thời Pháp Quốc tự nhiên phải ngăn cản, phải kêu nài, mà kêu nài là kêu nài cho mọi người được hưởng sự đẳng công bình mà thôi, chớ không phải biểu tự vị ai.
Chủ nghĩa cận thì của chúng ta là vậy đó. Luật pháp của Pháp đều lấy chủ nghĩa ấy mà làm gốc. Tôi vẫn biết người ta ít chịu do chủ nghĩa đó mà thi hành, nhứt là trong xứ của Tiên Sanh đây, từ trước đến bây giờ môn đệ của Thiên Chúa Giáo họ tưởng rằng cái địa vị cao riêng và được quyền đặc biệt, còn người không phải trong đạo ấy họ lại sợ giực lần lần hết quyền của Triều Đình đi.
Mấy điều ấy đã đổi rồi, đổi thiệt, đổi hết. Pháp Quốc lập ‘’Cộng Hòa Dân Chủ’’ thời đã lấy những chủ nghĩa cách mạng hồi năm 1789 mà thi hành. Chánh phủ tôi đương thay mặt tại đây và phần riêng tôi cũng vậy, chúng ta quyết tình nói theo chủ nghĩa ấy. Tôi cứ kêu nài với Triều Đình Annam đặng cho môn đệ Thiên Chúa Giáo họ biết rằng, nếu họ muốn được hưởng quyền ấy, thời trước hết họ phải tuân theo lề luật trong xứ, phải phục tùng các quan lại thi hành lề luật ấy. Nếu họ muốn lập lề luật riêng, nếu họ không chịu nộp thuế cho quan, nếu họ muốn lập riêng nhiều nước nhỏ trong nước lớn nấy, thời tôi không thể binh vực cho họ nữa được. Tôi sẵn lòng làm theo luật pháp, chớ tôi không chịu tư vị ai. Tôi sẽ dùng hết nghị lực của tôi mà bảo hộ cho họ khỏi bị giết như việc đã xảy ra ở Bình Định và Thanh Hóa, là việc làm mang tiếng cho Vua, và cũng mang tiếng cho Pháp Quốc nữa, Tiên Sanh hãy tỏ ý ấy cho nhà ‘’Nho’’ họ biết. Hãy chỉ rõ cho họ hiểu rằng hiện thì lấy cớ Tông Giáo mà sanh giặc là đều phi lý, lại hữu tội. Tôi chẳng hề để cho họ làm như vậy bao giờ. Tiên Sanh ngày nọ đó, nói như vầy:
‘’Pháp Quốc không khi nào chịu bỏ xứ nầy mà về đâu; đừng có trông mong như vậy mà lầm lạc; chẳng nói chi tới danh dự, quyền lợi của chúng ta ở xứ nầy đã nhiều rồi, nên dầu mà bên Phương Tây có nổi giặc, chúng ta cũng không lui bước được, có lẽ chúng ta phải rút bớt binh lính bỏ chút đỉnh phần đất của chúng ta đã chiếm cứ, mà chừng thái bình rồi, thời chúng ta sẽ chinh phục lại còn dữ dội hơn nữa.
Đã vậy mà dầu có vận hội gì khiến cho nước Pháp phải bỏ xứ nầy mà đi nữa, các ông tưởng nước Việt Nam được độc lập tự chủ như hồi đời Gia Long và Minh Mạng vậy sao? Sai xa lắm! Dân Anh-kiết-lợi, dân Tây Ban Nha nhứt là dân Đức Quốc sẽ đến đây liền, chừng ấy nước Việt Nam so sánh mới biết thay đổi như vậy, lợi hay là hại? Các ông sẽ thấy tánh cường bạo của quân lính nước Đức là thế nào!’’
Phải, dầu thế nào cũng vậy, hễ Pháp Quốc mà bỏ nước Việt Nam thời sẽ có một nước khác bên Phương Tây vào đây mà chiếm cứ. Tại sao vậy? Bởi vì trong lịch sử của các dân tộc có nhiều việc xảy ra mình không thể chống chỏi ngăn ngừa được, vậy nếu mình có lòng ái quốc, thời phải biết lợi dụng mấy vận hội ấy.
Cách 400 năm, trước Đức Chúa Trời giáng sanh, lúc ấy tổ tiên ta còn hái cây rừng trong xứ Gaule mà ăn, lúc ấy Khổng Phu Tử còn đương làm bộ ‘’Thứ Kinh’’, có một dạo chiến thuyền bên Trung Hoa qua chiếm cứ bờ cõi xứ nầy, đem dạy đoàn dân quê kịch, nào là học thức văn minh nào là kỹ nghệ, mỹ thuật, nào là khoa học, nào là cang thường, luân lý, nhơn, nghĩa, lễ, trí, thời tự nhiên đoàn dân ấy cảm nhiễm văn hóa Trung Hoa, rồi để cho Trung Hoa chiếm trị một thi kỳ rất lâu. Rồi bây giờ đây vận hội lại xây đổi đi, mấy đại quốc bên phương Đông ban đầu tấn hóa sớm, mà rồi sau lại ngưng bước; cuộc văn minh Ấn Độ, Xiêm La, Việt Nam, Trung Quốc, cứ ở một bực y như hai ngàn năm trước. Còn chúng ta, thời chúng ta lại tấn bộ; hồi trước chúng ta chậm trễ hơn mấy nước bên phương Đông, bây giờ chúng ta lại đi trước mấy nước bên phương Đông, bây giờ chúng ta lại đi trước mấy nước ấy xa rồi, nhứt là về khoa học kỹ nghệ, thôi chúng ta hơn nhiều lắm. Còn như vầy nữa, mấy nước ấy lại sụt lùi và đã mấy thế kỷ trồi, họ cứ dòm ngó mà kính trọng những cơ sở làm cho họ được danh dự thuở xưa đó mà thôi.
Theo lẽ tự nhiên của trời đất, thời bây giờ tới phiên chúng ta. Chúng ta đền đây, chúng ta đem tàu, bè, khí cụ đến, hoặc hòa, hoặc chiến, và chúng ta tính bỉnh càng mà diều đắc (dìu dắt). Chúng ta phải dìu dắt bao lâu? Điều ấy tôi không hiểu được. Nhưng mà tôi để làng tin tưởng dân tộc Á Đông, đã chỉ đường cho chúng ta; mấy chủng tộc ấy gần gũi ta, rồi đây sẽ vẫy vùng mà tỉnh giấc. Chẳng ai dám biết trước coi những chủng tộc Âu Châu và chủng tộc Á Châu hiệp lực với nhau, ở gần gũi nhau, tranh cạnh với nhau, rồi nảy ra một cuộc văn minh tấn hóa đẹp đẽ thế nào?
Dầu mình muốn, hay là không gì, cuộc vận động ấy cứ lừng lẫy thêm mãi. Ấn Độ đã tùng quyền Anh-kiết-lợi, Miến Điện cũng vậy. Xiêm La thời đương tìm Thầy mà học tập. Nhựt Bổn thời đương sửa soạn cải cách lấy mình. Trung Hoa thời phải chịu để cho học thuật Âu-Tây tràn vào; mấy xứ ở mấy cù lao lớn kia thời phải chịu cho nước Hoa-Lang dìu dắt. Tôi vẫn biết chắc việc ấy không lẽ bền vững đời đời được, song phải chịu như vậy. Nước Việt Nam không thể nào tránh khỏi cuộc tuần hành ấy.
May cho Việt Nam gặp được một dân tộc ôn nhu, quảng đại, biết ái truất kẻ thua mình. Pháp Quốc chẳng hề tàn bạo, chẳng hề hủy phá bao giờ. Lúc ban đầu mới đến chiếm trị phải hung bạo chút đỉnh nên các ông phiền trách cũng phải đó chút; nhưng mà việc đã qua rồi bây giờ tôi đến đây đặng mà trừ cái tệ hung bạo ấy, rồi đổi cách thức cai trị, làm cho thích hợp với tài trí nước tôi.
Người Annam thật có lòng ái quốc, vậy thời hết thảy phải giúp tôi đặng làm cho hoàn toàn cái trách nhậm của tôi. nếu cứ kháng cự hoài, thời đã vô ích, mà lại còn làm cho nước điêu tàn và làm cho sanh đều hung bạo nữa, ấy là các điều hễ kháng cự thời sanh ra như vậy đó.
Tôi vẫn yêu cái chí khí của mấy người kháng cự ấy; nhưng mà kháng cự thời quấy lắm, vì đã vô công, mà lại còn làm hại thêm cho quê hương Việt Nam.
Còn như trong nước trở nên thái bình, thời các ông cũng biết Pháp Quốc chỉ muốn có một điều mà thôi, là dìu dắt mà làm cho Việt Nam thạnh vượng. Các ông cũng biết chúng ta không muốn, mà dầu có muốn đi nữa, cũng không có thể chiếm trọn quyền cai trị như vận hội buộc chúng ta phải làm trong Nam Kỳ đó vậy được. Bực nho học là hạng rất cứng cõi, bởi vì hạng người ấy rộng rãi, trong dân giả ai có tài thời vào hạng ấy được hết thảy, bởi vậy quyền cai trị tự nhiên phải giao cho họ, và quan trường cũng nhờ họ giúp giùm. Bức thơ nầy là dài, nên tôi tóm tắt lại như vầy: Xin Tiên Sanh nói giùm lại với bằng bối trong cửa ‘’Khổng’’, với bực cao kiến trong Việt Nam biết rằng về sự thi hành mấy tờ giao ước họ chẳng nên sợ mất thể thống của họ, chẳng nên sợ mất tự do tín ngưỡng, chẳng nên sợ hãi quyền lợi của họ. Họ đừng có rảo khấp trong trốn thôn quê và xúi dụ dân làm điều nào nhà vong mạng. Họ phải giúp sức với tôi mà lo làm cho xứ sở họ thạnh vượng. Dầu luận về phương diện nào, họ cũng có thể đắc chí về công trình của họ và đắc chí về sở hành của họ nữa.
Nguyện nhứt tâm thành kính,
Ký tên
Paul Bert
N° VIHanoi, le 30 juin 1886.
Kính Tiên Sanh,
Tôi xin Tiên Sanh làm ơn ráng lo giùm dạy dỗ ông Hoàng Ngự Đệ. Dầu thế nào cũng phải dạy người học chữ Pháp.
À! Nếu Tiên Sanh lâu làm sao cho Hoàng Thượng chịu học chữ Pháp nữa, thời quí biết chừng nào! Tôi tiếc hôm trước tôi không tâu việc ấy với Hoàng Thượng.
Ký tên
Paul Bert
N° VIIHuê, le juillet 1886
Tướng Công Đại Nhân các hạ,
Trong bức thơ ngày 29 juin Đại Nhân có tỏ ý tứ cao thượng về vấn đề Tông Giáo và về vận mạng nước Việt Nam. Đọc bức thơ ấy tôi càng thêm thấy trí rộng tài cao của Đại Nhân nữa. Thật Đại Nhân là Nhà Chánh Trị mà cũng là Nhà Triết Học và Bác Học nữa.
Tôi đã dịch bức thơ của Đại Nhân gởi cho Hàn Lâm Viện rồi. Tôi chắc bức thơ ấy sẽ được hoan nghinh và sẽ làm cho vừa lòng các Nhà Nho Học. Hễ Hàn Lâm Viện xem rồi, thời tôi đệ đến hành cung cho Hoàng Thượng ngự xem, và tôi cũng vưng (dâng) luôn bức thơ của Đại Nhân gởi cho tôi đó nữa, đặng cho Hoàng Thượng coi lấy đó mà thảo một tờ hiểu dụ.
Ông Hoàng Ngự Đệ theo hộ giá Hoàng Thượng. Trước khi khởi hành Hoàng Thượng có triệu tôi với ông Pène vào chầu. Hoàng Thượng có nói rằng nếu ngài có ngày giờ rảnh thời ngài sẽ học chữ Pháp. Đó cũng là một điều lành và cũng đủ biết ý ngài muốn dùng tiếng Pháp mà tiếp chuyện với người Pháp. Tôi sẵn lòng mà dạy ngài học đọc, học viết chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp. Ngài còn trẻ tuổi. Vậy tôi sẽ dùng phép riêng của tôi mà dạy, phép ấy là phép Roberson và Ollendoff nhập lại, rồi chế sửa cho thích hợp với trí của học trò Annam.
Ông Pène có thuật cho tôi nghe những chuyện họ bẩm gian dối với Đại Nhân về năm Ngoạn và Tuấn. Họ độ tôi tiến dẫn hai người cho ông Pène, tôi có nói rằng hai người ấy gốc ở Chợ Quán, cứ giữ lòng thành thật, chơn chất mà buôn bán. Thật quả hai người ấy đều hết lòng thành kính mà lại bải buôi nữa. Họ thấy hai người ấy được địa vị tự do, họ ghét, nên nói thêu dệt nhiều lời, cũng như ngày trước lúc đám cưới con tôi ở Sài Gòn, họ đồn huyễn rằng môn đệ ‘’Thiên Chúa Giáo’’ sẽ kéo nhau để mà làm khó cho tôi vậy. Ở đời có nhiều việc phi lý lắm, mà cũng may vì những kẻ bày điều, đặt chuyện mà đồn huyễn như vậy thường người ta thấy rõ trí ý của họ liền. Người ta bỏ qua, không ai thèm tin, rồi lời đồn ấy không có chi hết.
Kỳ trung tôi cũng mừng lắm, vì Đại Nhân đã có danh giá là một Nhà Tâm Lý Học, không đến nỗi dùng lầm một người hiểm nghèo, như độc dược (Pène Siéfert) với một tên phản thần (Trương Vĩnh Ký). Đại Nhân dùng hai tên nầy ấy là Đại Nhân muốn làm theo như lời tục của La-tinh nói: ‘’Contraria contrariis curantur’’ (Người nghịch là người làm nên cho mình).
Tôi nhơn diệp (dịp) nầy mà tỏ cho Đại Nhân hay rằng Đại Nhân đã gởi gấm tôi cho Quan Tổng Đốc Sài Gòn, mà ngày tôi ở Sài Gòn ra đi (7 Juin) ông Villand là quan quyền Hiệp Lý lại ban hành một đạo Nghị Định cho tôi nghỉ 3 tháng không có lương bổng. Tôi tỏ việc nầy với Đại Nhân là có ý muốn cho Đại Nhân thấy nhiều người ghen ghét tôi một cách xấu xa y như lời tôi đã nói với Đại Nhân hồi trước. Họ muốn làm hại tôi, mà họ biết cách làm hại lắm. May Đại Nhân tin yêu tôi cũng như tôi đã báo cái thù ấy được rồi.
Tôi có được tin nhà, Gia Quyến tôi đều bình yên. Vợ Trương Vĩnh Viết mới cưới được một năm, hôm ngày 16 Juin nó sanh được một đứa con trai.
Gia quyến tôi đồng hiệp với tôi mà cầu cho Đại Nhân được công thành danh toại và xin Đại Nhân trao lời lại với lịnh phu Nhân và quí quyến rằng: Chúng tôi kính chúc mạnh giỏi.
Ký tên
Trương Vĩnh Ký