THI, VĂN TẶNG THI Đồng Khánh hoàng tặng thi và Lời Tự-(Nguyên chữ Nho lược dịch)
BÀI TỰ
Trương Vĩnh Ký Nam Trung Ẩn Sĩ,
Đã phong cho Thị Giảng Hàn Lâm.
Giải thông các nước tự âm.
Ngự Diêm khuya sớm lao tâm chẳng nài.
Khen người thật có tài Bác Học,
Du Lịch cùng Đại Lục, Á, Âu.
May đâu thinh khí tương đầu!
Niềm công Ái Quốc, chước mầu kinh bang.
Trong sáu tháng luận bàn quốc sự,
Rối loạn nhờ khu xử được yên
Vội chi về chốn cố viên?
Mới mầng tri ngộ, lại phiền biệt ly!
Chín vật báu (*) trao tay chẳng tiếc,
Tiếc thay người minh triết bảo thân,
Ngày nào gặp được Cố Nhân?
Thỏa tình bằng hữu, quân thần mới an.
Chú thích:
(*) Tặng: 1.- Lương ngọc như ý; 2.- Ngọc Khánh có bốn chữ khắc: Hiếu, Đễ, Trung, Tín; 3.- Sừng Tây 1 cái; 4.- Tủ cẩn 1 cái; 5.- Vàng 19 lượng; 6.- Gấm 3 cây; 7.- Lụa 8 cây; 8.- Súng 2 cây; 9.- Chân dung 1 bức.
BÀI THI
Thương Hải sóng nghinh ngang
Đơn Kỳ iữa muốn tàng!
Lòng lo thêm ức uấc!
Vận nước rất gian nan!
Đã có thần sang hãi
Sao không kẻ đống lương?
Nguồn trông trời Lộc Giã.
May gặp khách Mai Cang.
Học thức trên Âu-Á.
Mưu Mô đủ phú cường.
Tao phùng đôi ý hiệp,
Báo đáp một lòng đang.
Cây Sỡ tuy dùng được,
Chim Nam khó nổi màng!
Nhớ lời trung tín đó,
Hôm sớm đợi tin sang.
ĐIẾU TỪTây Cống Nhựt Báo (Le courrier de Saigon) 7 Septembre 1898.
(Nguyên chữ Pháp lược dịch)
Hôm qua có xảy ra một đám tang rất long trọng là cuộc tống chung ông Pétrus Trương Vĩnh Ký nơi phần mộ tại Chợ Quán.
Trong Lục Châu đều có đủ mặt người Nam và Pháp đến đưa linh cữu ngài, rùm tai tiếng khốc, than người Danh Sĩ vội vã theo truyền Tạo Hóa khéo sớm rước đi xa, nghĩ càng thảm thiếc!!!
Từ bữa thứ sáu, cái thơ phòng của Trương Tiên Sanh đã cải ra là một cái nhà thờ nho nhỏ ngày đêm mùi hương rực rức, lạp chúc rỡ ràng.
Trong ba ngày rày tựu hội tại Sài Gòn các Thượng Quan Langsa và bổn quốc, một là bằng bối của Tiên Sanh, hai là môn đệ của Tiên Sanh thảy đều giọt lụy chứa chang, đứng nhìn nhau tuồng ngơ ngẩn.
Ngoài ra những người lạ chẳng luận đạo nào, cùng các Nhà Công, Thương, Hào, Phú Trung Hoa ở Chợ Lớn, Sài Gòn đều có gởi thư chia buồn và làm lễ điếu.
Những người Âu Tây làm lễ rất kính, còn người Annam cứ lạy ba lạy. Nhiều ông xin tang chủ đặng chịu tang phục trong một tháng để tỏ lòng sùng bái vĩ nhân.
Trong cái quan tài kín mít ráp lại bằng bốn tấm ván coi như gỏ, như lim chi chi mà người Đạo Đức Văn Chương đành ngủ nơi đó một giấc ngàn thu, đau lòng biết mấy!!!
Trước ngực Tiên Sanh chiếu sáng rỡ cái Mề Đay điều đó là chỉ rõ những công lao phò tá lưỡng bang chánh phủ.
Theo phong tục nhà Nam, khi nào có ai lìa cõi thọ, thời các nhà ‘’Nho’’ đều làm thơ hoặc phú đặng tỏ cái hành trạng của người trong lúc sanh tiền.
Môn đệ của Trương Tiên Sanh đều là người tài danh cả, như: Ông Trương Minh Ký, ông Diệp Văn Cương và ông Nguyễn Trọng Quãn đồng đặt một bài Văn mà Tế Thấy.
Các người Âu Châu đã lâu năm cư ngụ tại Nam bang và các ông thân bằng cố hữu của Trương Tiên Sanh ơi! Các ông hãy đọc bài văn tế đó của chúng ta lựa rút đăng sau nầy, hầu để làm kỷ niệm.
Bài văn tế như vầy:
Nhớ Thầy Xưa
Nên đứng Thông Minh,
Thiệt tràng Văn Phú;
Sang dường ấy, trọng dường ấy,
Ngó công danh trong mắt như không!
Kiêu chẳng hề, lẩn chẳng hề,
Xem tánh hạnh trong đời ít có;
Việc chữ nghĩa nhọc lòng biên đặt,
Lắm thuở công phu;
Dạy học hành ra sức vun trồng,
Nhiều lời khuyên dỗ,
Ôi!
Tưởng còn lâu hưởng lộc trời,
Hay đã sớm lìa cõi thụ,
Bướm Trang Sanh một giấc, mình cỡi chốn vĩ cơ;
Hạt Đinh Lịch trăm năm, hồn nương nơi vân vụ,
Người tuy mất mà danh chẳng mất, tiếng hãy còn đây;
Coi sách Thầy mà học ý Thầy, hình như Thầy đó.
Hỡi ôi! Tiếc thay! Hỡi ôi! Thương thay!
Môn Sanh: Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, Nguyễn Trọng Quản đẳng đồng bái.
4 Septembre 1898.
NAM KỲ NHỰT BÁO
Kính điếu Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký Tiên Sanh
Vương hội ghe phen thảm gió mây,
Vì Nam thay mặt rõ ngôi thầy.
Mười phương chữ nghĩa tái danh trọng.
Muôn kẻ con em đức trạch đầy.
Thời thế để nao khi tấn thối,
Đạo tâm xin vẹn với cao dày.
Sau mươi hai tuổi chưa rằng thụ,
Một bức xuân sạng vẻ chẳng tày.
Gia Định, Trúc Am
Đặng Thúc Liêng
Bái
TRƯƠNG SĨ TẢI
TIÊN DU
Hỡi ôi!
Nước sông Hà lẻo lẻo,
Xưa nay trông thấy có bao nhiêu?
Đá non Thái trày trày,
Phút chốc tan tành không mấy lát.
Nhớ tôn hiền xưa:
Đấng bực thông minh, nên người hoát đạt.
Nợ tang bồng vương vấn.
Chung vui giữa cuộc lâu dài,
Nền đạo nghĩa vun trồng,
Nào phụ những ngày lê hoác,
Dốc chí mở mang giáo hóa,
Đêm sách đèn đợi sáng thức khuya;
No lòng gói ghém văn chương,
Ngày cơm nước quên xơi biếng khát,
Sắp cuốn nầy, chua cuốn khác, phí lương tiền phó tử.
Nào Annam lễ tiết, nào Huấn nữ cách ngôn,
Nào Địa dư danh hiệu; dạy người dường chẳng mỏi,
Nhằm nay làm ít kẻ ra công.
Tiếng nước nọ, chữ nước kia, rộng kiến thức lập thành;
Nào Tự vị giải âm, nào Học quí thôn khảo.
Nào Văn tự nguyên lưu; trí nhớ rất lạ thường,
Sách xưa học mấy người đặng bác;
Mựa phải se sua đất Bắc,
Nam Kỳ đã rõ mặt sông non;
Lựa là rạng tỏ phương Đông,
Tây vực cũng khen người đài các,
Trên sang cả, lễ nghi gìn giữ,
Cùng người chẳng nết kêu ngoa.
Dưới nhỏ nghen, nhân nghĩa, vỗ về,
Với trẻ quên mình tuổi tác.
Người ấy, tài đức ấy,
Nhựt trình nghe bệnh ước xảy qua;
Dè đâu, thình lình đâu,
Dây thép đánh lòng dường tan nát.
Ôi!
Sao Bắc đẩu lờ mờ;
Cõi nam thiên mang mác.
Văn bửu viện thấp cao chất thảm.
Sách xưa còn bút tích rõ ràng;
Nhơn giang thôn cây cỏ giăng sầu,
Mây tối giục nhân tình bát ngát.
Tưởng dầu tưởng, một phương trời chia kiếm cổ.
Nương cánh thần, về với thánh,
Biết bao vui vẻ linh hồn;
Thương là thương, ba tấc đất lấp văn chương.
Khi gió thảm, lúc mưa sâu,
Ước đặng nhẹ nhàng phần xác.
Đâu dám trách đấng chí tôn rằng hẹp,
Sanh cũng ngoài sáu chục,
Cớ gì phần Bành Tổ quá lâu?
Nhưng mà than người quân tử chẳng nao,
Biết cũng phải một lần,
Việc chi cửa Vêrô vội khóa?
Vọi vọi người tuy mất đó,
Sách dọn đã rả tay,
Sờ sờ dạo cũng còn đây,
Gương soi dường thấy mặt.
Khôn cùng lời thương tiếc,
Văn vài câu sống sít vẻ vang;
Xin chứng lễ ngay tin,
Lòng một tâm trước sau ghi tạc,
Hởi ôi thương thay!
Hỡi ôi tiếc thay!
Vản sanh: Nguyễn Khắc Huề
Khóc điếu.
VĂN KHỐC QUAN ĐỐC
Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký
Hỡi ôi!
Bắc đẩu lờ mờ,
Thái sơn tan tác,
Mây lấy mịt mù cõi thụ,
Đảnh hổ lặng lẽ vắng hơi rồng;
Trăng soi quạnh quẻ đêm thu,
Huê biểu nghêu ngao nghe tiếng hạc,
Sông Tương lao xao sóng đợn,
Mất gươm linh khó nỗi mò sâu;
Núi Nam lố xố dây leo,
Xiêu cột cả biết đâu che mát.
Nhớ linh xưa:
Nết đất văn chương,
Tánh trời minh đạt,
Có vẻ người quân tử, nực danh thơm quế phúc lang phương;
Nên đứng bực trượng phu, dời tiết rạng kim truy ngọc trác.
Lời riu ríu ở cùng chòm xóm,
Chẳng cậy mình sang trọng mà liêu căng!
Lòng thinh thinh giúp những con em,
Chẳng thấy kẻ khó hèn mà khi bạc.
Bền chi dạy người chẳng mỏi,
Ơn tác thành nhiều lớp nhiều công!
Để lòng coi sách không quên,
Nghề văn học một ngày một bác.
Mấy pho sách văn chương sắp đặt,
Phòng mở mang cho kẻ hậu sanh;
Bao nhiêu người quyền qui ra vào,
Thảy kính mến là người tiên giác,
Vưng sứ tiết thuở trông chừng tày địa,
Hết sức tài bồi quấc mạch.
Giao hòa xong Cần hải sóng em;
Phụng loan âm khi tới phủ Thừa Thiên.
Ra tay trù toán miếu đường,
Công tích để Bình san đá tạc.
Biết đủ tiếng tứ phương tự thoại,
Thông dịch đều đông địa tây bang,
Thiệt nên người bác sĩ danh nho,
Chiêm ngưỡn khắp Nam Kỳ Bắc Hải.
Ôi!
Lánh mình dương hưởng cuộc vinh hoa,
Giúp nước những từ khi khái thác,
Tử sanh đô thị mạng,
Cửa phù sanh bóng ác chạy vo vo,
Vinh tụy các hữu kỳ,
Đường nghịch lử vỏ cu qua thoát thoát.
Đêm đêm ngóng vào nơi bửu viện,
Bàn ngồi khều leo lét đèn chong;
Chiều chiều trông về chốn văn phòng,
Sách đê lật lao xao gió khoác.
Cảm động cỏ huê sầu hẻo hắc,
Ngậm ngùi trông tượng vẽ bóng in;
Mến yêu già trẻ khóc dầm dề,
Đau đớn tới lòng người nước khác.
Trong trăm tuổi ở đời bào ảnh,
Luống tiếc trong miền nam địa, cớ sao mất kẻ tư văn;
Ngoài sáu mươi về chốn ngọc lâu,
Riêng than trên cõi thiên đàng, để thiếu chi người bút trác,
Tôi nay:
Học hành theo bổn thiện chi sơ,
Quen thuộc ở hà phu chi mạc.
Thản mảng đáp tình chưa đặng toại,
Mắc việc quan ngàn dặm phui pha,
Bơ thờ nghe bịnh tưởng đà an,
Thấy dây thép chín chiều sản lạc.
Tạm thảo bày lòng hèn mọn,
Khôn cùng đoạn thảm sông non;
Kính dưng khốc kẻ cao xa,
Xin chừng chút tình cỏ rác.
Hởi ôi thương thay!
Hà Đăng Đáng
Thầy dạy chữ Nho tại Trường Bến Tre.
ĐIẾU QUAN ĐỐC TRƯƠNG SĨ TẢI BIỆT TRẦN
Cảm đức bấy lâu nghĩ cuộc đời,
Đặt bày dạy dỗ khắp nơi nơi,
Bền lòng gắn gổ ưa mùi đạo,
Rèn chí âu lo hưởng tánh trời,
Tiếng đạt tưởng nhờ người nhắc nhở,
Sông thù mong được trẻ đua bơi.
Dè đâu Bắc đẩu đêm lờ lạc,
Ngàn thuở trông sao thấy đặng người.
Bến Tre ki lục
Nguyễn Dư Hoài
Bái điếu
KHỐC TRƯƠNG SĨ TẢI TIÊN SANH
Trời Nam mù mịt áng vừng mây,
Bỗng chúc xa che khuất bóng thầy.
Ngòi viết tiên sanh nghiên ráo cạn,
Giọt châu tử đệ mắt trông đầy.
Trau gồi đạo thánh lòng siêng sẳn,
Giúp đỡ nhà vua chí cả dày.
Sống thác cũng còn danh tiếng để,
Làm người như vậy ít ai tày.
Phan Hoằn Đạo
Bái
CỬU LONG GIANG NHỰT BÁO (LE MÉKONG)
Báo văn rất dài không lục, đại ý tỏ dấu yêu thương người đạo đức, văn chương như Trương Tiên Sanh là ít có.
BÀI VĂN ĐIẾU TỪ CỦA M. PICANON THỐNG ĐỐC NAM KỲ
(Discours prononcé par M. le Lieutenant Gouverneur de la Cochinchine sur la tombe de m. Trương Vĩnh Ký)
(Nguyên văn chữ pháp lược dịch)
Vì Quan Toàn Quyền, vì Thuộc Địa, và lại vì tôi, nên tôi đứng giữa đây đặng tỏ ít lời từ giã một đấng vĩ nhân, là ông Giáo Sư kiến thức, ông quan trung tín của xứ Nam Kỳ đã mất rồi.
Đã hèn (từ) lâu Trương Tiên Sanh hết lòng giúp đỡ Pháp Quốc và Thuộc Địa. Vậy nên Pháp Quốc và Thuộc Địa hằng ghi tạc ơn nghĩa của Tiên Sanh. Tôi xin tỏ cùng Bửu Quyến của Tiên Sanh cái tấm lòng thành thật của tôi, và tôi xin tỏ ý chắc những người giúp việc cho chính phủ thảy đều đau đớn, yêu mến Tiên Sanh như tôi vậy.
Từ rày sấp về sau Trương Tiên Sanh đã bỏ trống cái ngôi dạy dỗ tiếng Á Đông đi rồi! Ngày sau ai mà đáng lãnh cái chức trách ấy nữa?
Chắc khi Tiên Sanh cũng đem theo vào mồ nhiều sự tình tự yêu mến của các người đã tầng quen thuộc với Tiên Sanh, mà đã biết Tiên Sanh là nhà đạo đức, văn chương.
Trương Tiên Sanh ôi! Từ đây vĩnh biệt, hết trông gặp mặt nhau rồi!!!