← Quay lại trang sách

Chương sáu (2)

Một lần trăng tròn đã đến rồi đi, và vầng trăng khuyết cao vòi vọi trên bầu rời, mà Âm Dương đạo trưởng vẫn còn sống. Hơn thế nữa, ông còn thấy sự sợ hãi của mình đang chết dần.

Ông lấy hộp sơn mài, chìa khóa đen, và những cái đĩa sứ, cuộn trong mảnh khăn lụa (bây giờ chỉ có hình ông, vì hình kia đã không còn gì ngoài một vết ố vàng), và vào một đêm khuya, ông chôn nó dưới rễ một cây cổ thụ mà xưa kia đã bị sét đánh đến hình dáng vẹo vọ thành hình thù kinh khiếp.

Ông khoan khoái thấy mình được sống. Vui sướng hơn bất cứ lúc nào. Đó là những ngày hạnh phúc đối với onmyoji.

Mặt trăng lại một lần nữa tròn vành vạnh trên bầu trời khi một công nương đến viếng ông để xin xem bói. Sương mù giăng dày đặc vào ngày hôm ấy, và nó cuộn xoáy tròn vào đến tận nhà vị onmyoji.

Nàng trả cho những lời tiên tri của ông bằng những đồng vàng cũ đến nỗi những hình khắc trên đó đã phai mờ, và thứ gạo tốt nhất. Rồi nàng rời khỏi nhà ông trong một cái xe kéo lộng lẫy.

Âm Dương Đạo Trưởng sai một tùy tùng lén rượt theo nàng và điều tra xem nàng là ai, và ở đâu.

Vài giờ sau, gã tùy tùng trả lời. Gã kể thiếu nữ sống trong một dinh thự cũ kỹ nhưng bề thế, chỉ vài ki hướng bắc Kyoto, và chỉ chỗ cho vị onmyoji.

Vài hôm trôi qua. Onmyoji không thể quên được khuôn mặt của thiếu nữ, cũng như dáng đi của nàng, vừa kính cẩn cũng vừa quyến rũ. Ông tưởng tượng được ôm nàng, chạm nàng, và sở hữu nàng.

Khi ông nhắm mắt lại nàng hiện ra trước mặt ông: tóc nàng, dài mượt và đen; mắt nàng, màu của nõn lá xanh trong nắng xuân; bàn chân nàng, nhẹ như hai con chuột nhỏ; vẻ thanh thoát của tay nàng trên cánh quạt; và giọng nói, như bài hát trong mơ.

Lúc ông đến với người thiếp, ông nhận ra nàng ta không còn làm ông hứng thú nữa, và ông trở về phòng mình, và viết một bài thơ so sánh tình cảm của ông với thiếu nữ như làn gió mùa thu, làm gợn sóng mặt hồ yên tĩnh, và trao cho người tùy tùng mang đến cho nàng.

Gã tùy tùng đem về lời nhắn của nàng, một bài thơ mô tả ánh trăng trong hồ bị làn gió làm xao động. Tim ông như vỡ òa ra khi đọc được những lời này, khâm phục vẻ đẹp của từng nét chữ.

Ông tham kiến lời khuyên. Bà lão phá lên cười nhạo ông, tiếng cười to và nhiều đến nỗi ông ngỡ bà sẽ đứt ruột mà chết, và không nói gì. Người đàn bà trẻ có bàn tay lạnh lẽo đáp, “Người đàn ông mà cô ta yêu đã chết.”

“Tốt,” vị onmyoji nói. “Vậy hôm nào là ngày tốt để đến thăm cô ấy?”

Nhưng lúc đó cả ba người đều khúc khích cười như thể nhạo báng ông, và ông giận dữ rời khỏi nơi đó.

Chiều hôm sau ông đã đứng trước cổng vị công nương. Ông xin nàng thứ lỗi cho sự đường đột của mình, bảo rằng vì ông bị một lời tiên tri thôi thúc bảo ông phải rồi nhà và đi lên hướng bắc, và rằng ông phải nghỉ qua đêm trên miền bắc trước khi vào thành phố vào buổi sáng.

Nàng mời ông dùng bữa tối.

Ngôi nhà thật lộng lẫy. Ông và vị tiểu thơ cùng ăn một mình, và suốt cả bữa những gia nhân của nàng đem đến những món sơn hào hải vị mà ông chưa từng nếm thứ.

“Ta chưa từng nếm những món nào ngon như vậy!” ông nói, miệng nhai một miếng thịt thơm chấm với nước chấm lạnh.

“Và hãy nghĩ,” vị công nương dịu dàng nói, “nếu tiểu nữ không có ở đây thì đại nhân đã phải ngồi trong một căn nhà rách nát và ăn tối với bọn chuột và nhện rồi.

Sau bữa ăn, ông tỏ rõ ý muốn ân ái với nàng. Công nương rót sake cho hai người rồi trả lời rằng điều đó là không thể.

“Tại sao tiểu nữ phải đứng thứ nhì trong trong tim đại nhân?” nàng hỏi. “Người có một vị phu nhân. Người có một người thiếp. Tiểu nữ sẽ là gì chứ?”

“Ta sẽ là của nàng, của nàng mà thôi,” ông nói.

“Đại nhân nói thế,” nàng nói, “nhưng sau khi chiếm được tiểu nữ rồi thì phu nhân và người thiếp kia sẽ trở nên quyến rũ hơn, và sẽ bỏ người ta ở lại đây. Đại nhân không nên ở lại đây đêm nay. Xe của người sẽ đưa người đến chỗ khác để nghỉ. Nếu khi nào người được do để được yêu muội thì hãy trở lại.”

“Mọi chuyện kể như đã xong!” ông nói.

“Nhưng tiểu nữ cũng không thể thuộc về ngài,” nàng thốt, “khi ngài còn có dinh thự. Bởi vì tiểu nữ muốn ngài đến và sống ở nơi này. Đúng thế, nhà của tiểu nữ có thể là nhà của ngài, sẽ là nhả của ngài mãi mãi. Nhưng nếu ngài đã có nhà rồi, ngài có thể nhớ đến nó, và một ngày kia ngài sẽ rời khỏi tiểu nữ để trở về.” Nàng khẽ chuyển mình, trong thoáng chốc, và vị onmyoji tưởng tượng ông đã trông thấy một chút khe ngực trắng giữa làn vải.

“Ta sẽ hủy ngôi nhà đó,” vị onmyoji nói, trong đầu ông cháy bỏng một ngọn lửa khao khát.

“Còn một chuyện nữa,” tiểu thư nói, đôi mắt xanh của nàng đốt cháy ông. “Đó là phép thuật của ngài. Làm sao mà tiểu nữ có thể trở thành tình nhân, và hiền thê của ngài, nếu biết rằng ngài có thể truyền lệnh cho Tengu và Oni, và trong cuộn sách ngài có lời chú để biến tiểu nữ thành một con chim nếu làm ngài thất ý?”

Nàng cúi đầu xuống để rót thêm rượu sake, làm cho áo nàng bung ra một chút nữa, và vị onmyoji nhìn thấy bầu vú trắng, điểm tô một núm vú hồng như ánh chiều tà. Không cưỡng lại được, ông vươn người tới để ôm lấy nàng, nhưng thiếu nữ khéo léo lui lại, tránh được vòng tay của ông như là vô tình vậy, rồi nàng chúc ông ngủ ngon.

Khi vị onmyoji nhận ra thời gian bên nhau của họ đã hết, ông thở dài thật lớn cứ như là trái đất rung rinh đến nơi. Một cơn điên cuồng đã đến với ông ngay lúc đó, hay là người ta đã truyền tai nhau như thế.

Ngày hôm sau, ở thành Kyoto xảy ra hai vụ cháy lớn. Nơi đầu tiên bị cháy là dinh thự của vị onmyoji, ngôi nhà lộng lẫy thứ mười bảy của cả thành. Ông không bị nghi ngờ liên can về vụ này, vì ông đã rời khỏi nhà từ sớm, trên một chiếc xe chất đầy các cuốn kinh thư pháp thuật. Đó là một trận lửa kinh hoàng, vì vợ và người thiếp và tất cả gia nhân đang ngủ trong nhà đều bị thiêu chết.

Chỗ thứ hai bị cháy là một khu vực tồi tàn ngoại ô thành, trong một xóm nhỏ đầy tai tiếng. Đó là ngôi nhà mà ba người phụ nữ đang trú ngụ, nghe đồn đó là ba nhà tiên tri hay là thầy lang. Không ai biết nếu họ có trong nhà hay không khi phát hỏa, tại vì những thứ mà người ta tìm được trong đống tro tàn chỉ là xương của phụ nữ và trẻ nhỏ.

Chiều hôm ấy Âm Dương Đạo Trưởng đến nhà người thiếu nữ đã chiếm trọn tim ông.

“Dinh thự ta đã bị cháy,” ông nói, “và hai người đàn bà của ta đã chết. Ta không còn ai nữa để yêu ngoại trừ nàng, và không còn nơi nào để trú ngoại trừ nơi đây.”

Nàng mỉm cười nhìn ông, một nụ cười hạnh phúc đến nỗi ông cứ ngỡ rằng mặt trời đã lộ ra và chỉ chiếu sáng cho mình ông.

“Và trong cái xe này,” ông tiếp, “tất cả những kiến thức của ta. Thư văn, bí truyền. Tbùa hộ mạng, gậy phép, và những danh xưng đã cho ta quyền lực trên các tinh linh và ác quỷ, và cho phép ta thốt lời tiên tri. Tất cả mọi thứ, ta đem đến đây để đặt dưới chân nàng.”

Thiếu nữ gật đầu, và gia nhân của nàng đem chiếc xe đi, tháo đồ xuống và đem tất cả đi.

“Đấy,” onmyoji nói. “Ta hoàn toàn là của nàng, không còn gì có thể ngăn cản chúng ta nữa.”

“Vẫn còn một vật ngăn cản hai ta,” nàng bảo. “Y phục của người. Cởi ra đi. Cho ta thấy con người thật sự của người.”

Cơn điên rồ và dục tính cuộn chảy trong mạch máu của vị onmyoji. Ông cởi hết quần áo và đứng đó, trần truồng, trong buổi chiều đầy sương lạnh. Nàng nhặt lấy áo quần của ông, và cầm trên tay.

Ông mở choàng hai tay để ôm lấy thiếu nữ.

Nàng bước lại gần ông. “Bây giờ,” nàng thì thầm. “Ngài không có nhà, không vợ, không thiếp, không phép thuật, không y phục. Ngài đã mất tất cả. Đây là lúc tiểu nữ phải trả cho ông.”

Nàng đưa tay lên đầu ông và kéo khuôn mặt ông lại gần bờ môi mình, như là sẽ hôn ông, chỉ vừa trên mí mắt.

“Nhưng ngươi sẽ giữ mạng mình,” nàng nói, “vì chàng sẽ không muốn cho ta giết ngươi.”

Những chiếc răng cáo rất nhọn.

Và chỉ với một cái vẫy đuôi, nó đã biết mất.

Người ta tìm thấy Âm Dương Đạo Trưởng trong một căn nhà bỏ hoang đã hai mươi năm trời, từ khi chủ ngôi nhà ấy đã bị tước chức. Có người nói là vì lòng hối hận đã đem ông ta đến đó, tại vì mười lăm năm trước, vị onmyoji đã hiến kế cho một vị đại quan đã làm gia tộc ấy sụp đổ.

Ông ta trần truồng, xấu hổ, và trở nên điên rồ.

Có người bảo rằng tại vì vợ và thiếp ông chết trong đám cháy nên ông đã phát điên. Người khác nói rằng vì ông đã bị mất con mắt, trong khi những kẻ tin dị đoan xì xào rằng ông bị hồ ly ám.

Những đồng nghiệp cũ tránh mặt ông trong những ngày sau đó, khi họ thấy ông ăn xin trên đường, mình khoác áo tả tơi, và trên đầu chỉ quấn miếng giẻ để che khuôn mặt dị dạng.

Ông ta sống trong đau khổ, bẩn thỉu và điên cuồng cho đến chết, không tìm thấy hạnh phúc trong đời, chỉ trừ khi ông mơ.

Nhưng cuộc đời ông ta, sau này, và cái chết của ông ấy, không một truyện cổ nào nói đến cả.

“Vậy thì có ích gì chứ?” con quạ hỏi.

Ích? Mộng Đế hỏi.

“Phải,” con quạ đáp. “Nhà sư đã định phải chết, đã chết. Hồ ly muốn cứu y, đã không cứu được. Gã onmyoji đã mất tất cả. Vậy ngài chấp thuận lời ước của hồ ly để làm gì?”

Nhà vua nhìn về phía chân trời. Trong mắt ngài, một ngôi sao lóe lên rồi lụi tàn.

Những bài học đã được học, hoàng đế đáp. Mọi sự kiện xảy ra như đã định. Ta không thấy là sự chú ý của ta là vô ích.

“Bài học đã được học?” con quạ đáp, rỉa lông cổ, và ngẩng cao đầu lên. “Bởi ai?”

Tất cả bọn họ. Nhất là vị hòa thượng.

Con quạ kêu lên một tiếng trong cổ họng, và nhảy từ chân này sang chân khác. Có vẻ nó đang tìm từ ngữ. Nhà vua kiên nhẫn nhìn nó với đôi mắt đen. “Nhưng gã đã chết rồi,” con quạ nói, sau một hồi lâu.

Nói đến chuyện đó, ngươi cũng vậy, quạ ạ, nhưng trong việc này cũng có bài học cho ngươi nữa đấy.

“Vậy ngài có học được bài học không?” con quạ đã từng là nhà thơ, hỏi.

Nhưng hoàng đế xanh xao không trả lời, và ngồi im lặng, chăm chăm nhìn về phía chân trời, rồi sau một hồi lâu con quạ cất cánh bay vào trong bầu trời của giấc mộng, để nhà vua ở lại một mình.

Và đó là câu chuyện của con cáo và nhà sư.

Hay gần như là tất cả. Tại vì những người đã từng mơ đến một xứ sở xa xôi, nơi bọn Baku sinh sống, kể lại rằng họ đã trông thấy hai nhân ảnh, dường như là một nhà sư và một con cáo, hoặc là một người đàn ông và đàn bà.

Người khác thì nói không phải, và rằng ngay cả trong mơ và cái chết, nhà sư và con cáo vẫn ở trong hai thế giới khác nhau, như khi họ còn sống, và họ sẽ vĩnh viễn ở trong hai thế giới khác nhau.

Nhưng những giấc mơ thì là những điều kỳ lạ, và ngoại trừ Mộng Đế, không ai trong chúng ta có thể biết rằng chúng là thực hay ảo, hay những gì chúng sẽ nói cho ta về những tháng ngày sắp tới.