CON TRAI NGƯỜI GÁC CỔNG - I - Nguyên tác: LE FILS DU PORTIER
I. Quan Đại tướng ở trên gác, người gác cổng ở dưới nhà hầm. Hai gia đình sống rất xa cách nhau, trước là tầng dưới nhà ngăn biệt họ, sau nữa là do sự khác nhau về đẳng cấp. Nhưng họ cùng sống dưới một mái, cả hai tầng nhà cùng trông ra một phố và nhìn ra một sân.
Trong sân có một bãi cỏ, ở giữa có một cây dạ hợp ra hoa vì lúc ấy đang mùa dạ hợp nở. Thỉnh thoảng chị vú em ăn vận đỏm dáng quá mức đến bên gốc cây, tay ẵm đứa con gái quan Đại tướng, cô bé Émilie, ăn vận còn đỏm dáng gấp mấy chị vú nữa kia. Trước mặt cô, cậu con trai người gác cổng, chân đất, đang nhảy múa. Chú có đôi mắt to, đen và bộ tóc hung hung đỏ. Cô bé mỉm cười và giơ đôi bàn tay xinh xinh về phía chú. Khi quan Đại tướng đứng trên cửa sổ nhìn thấy cảnh tượng ấy ngài gật đầu mà rằng: "Thật là tuyệt!".
Đại tướng phu nhân, trẻ đến nỗi người ta có thể tưởng nhầm là con gái của đức ông chồng, không bao giờ thèm nhìn qua cửa sổ xuống sân. Bà đã ra lệnh rằng thằng cu, con cái nhà ở dưới hầm, rất có thể được chơi đùa trước mặt cô chiêu để mua vui cho cô, nhưng không được chạm tới người cô bé. Chị vú em rất trung thành với mệnh lệnh của bà chủ. Nắng soi vào nhà những người ở dưới hầm, cũng soi vào nhà những kẻ ở trên gác. Hoa dạ hợp theo từng mùa nở rồi lại rụng. Năm sau cũng lại thế. Chú bé con người gác cổng bụ bẫm, cái đầu đáng yêu với đôi má hồng giống như một bông hoa huệ to đang nở. Cô con gái quan Đại tướng thì thanh tao và xinh xắn, da trắng hồng như hoa dạ hợp. Cô rất ít khi đến dưới gốc cây, cô thường đi xe ngựa ra ngoài hóng mát với mẹ. Khi đi và khi về bao giờ cô cũng gật đầu với con trai người gác cổng tên là Georges. Ừ, mà cô lại còn lấy tay ra hiệu gửi cho chú những cái hôn, cho đến khi mẹ cô bảo rằng bây giờ lớn rồi, làm như thế không hợp nữa.
Một buổi sáng, Georges phải mang cho quan Đại tướng báo chí, thư từ gửi đến nhà từ lúc sớm. Khi leo lên cầu thang, đi ngang trước cái ngăn chứa cát (1), chú nghe thấy bên trong phát ra tiếng chiêm chiếp. Chú tưởng đấy là tiếng kêu của một con gà bị lạc vào đấy. Nhưng hoá ra là con gái quan Đại tướng, cô Émilie mặc toàn hàng sa mỏng đăng ten.
Cô thì thầm:
- Đừng nói gì với ba má nhé, chẳng có ba má lại giận đấy!
Georges hỏi:
- Nhưng cái gì thế mới được chứ?
Cô trả lời:
- Cháy cả rồi, bốc lửa tất cả rồi!
Georges nhảy phắt lên thang và vào nhà quan Đại tướng. Chú mở cửa buồng cô bé. Những bức rèm đã gần thành tro, còn những cây suốt bằng sắt thì đỏ rực. Georges trèo lên một cái ghế, giật tất cả những thứ đang cháy và kêu cứu. Không có chú thì cả căn nhà đã làm mồi cho thần lửa.
Quan Đại tướng và phu nhân đem cô bé Émilie ra tra hỏi ngọn ngành. Cô nói:
- Con đã đánh một cái diêm, có mỗi một cái thôi. Nó bùng lên và cái rèm cũng bùng lên nốt. Con nhổ nước bọt, cố hết sức nhổ để dập tắt. Khi hết nước bọt, con chạy đi trốn, sợ ba má giận.
Đại tướng phu nhân nói:
- Nhổ! Con nói cái tiếng gì thế? Có bao giờ con thấy ba má nói tiếng ấy không? Chắc con lại học của cái bọn dưới nhà hẳn?
Dẫu sao Georges cũng được một hào tiền thưởng công. Chú không đi mua bánh ngọt mà bỏ vào ống tiền để dành. Chẳng bao lâu chú đã có đủ tiền mua một hộp bút chì màu để tô tranh vẽ của chú cho rực rỡ, vì Georges hay vẽ lắm. Nom những ngón tay nhỏ nhắn của chú sai khiến cái bút chì thì thật là tuyệt khéo. Chú đem tặng những bức tranh màu đầu tiên cho Émilie, Quan Đại tướng khen. "Thật là tuyệt!”. Ngay Đại tướng phu nhân cũng phải đồng ý là mọi người đều nhận ra rất rõ những cái mà chú bé muốn diển tả. "Thằng bé có thiên tài đây!”. Đó là những lời mà bà gác cổng nghe thấy và chạy xuống hầm kể lại.
Quan Đại tướng và phu nhân đều là những người quyền quý. Các ngài đã cho sơn lại hai bên xe ngựa mỗi bên một tấm gia huy của riêng mình. Phu nhân còn cho thêu lên từng chiếc áo quần hình hai chiếc gia huy đó, một chiếc vào mặt phải, một chiếc vào mặt trái, thêu vào những túi đựng đồ đi du lịch và cả những chiếc mũ trùm đầu đi ngủ. Gia huy nhà phu nhân là do cụ thân sinh mua rất đắt, mất vô khối là tiền mặt, trả bằng đồng "đơniê" (2) đếm mỏi cả tay. Khi mới sinh ra cả cụ thân sinh lẫn phu nhân đều chẳng phải là dòng dõi quyền quý; phu nhân đã ra đời trước tấm gia huy bảy năm. Hầu hết mọi người đều nhớ việc ấy, nhưng phu nhân thì không mảy may nhớ đến.
Gia huy của quan Đại tướng thì cổ kính và rắc rối. Đeo cái loại gia huy ấy phải đứng ưỡn người ra, xương kêu răng rắc mỗi khi bà thẳng đừ trong bộ áo diện nhất, leo lên xe để vào triều dự hội khiêu vũ.
Quan Đại tướng đã già, tóc đã bạc. Nhưng khi cưỡi ngựa thì trông ngài cũng còn ra vẻ lắm. Ngài biết thế lắm nên ngày nào ngài cũng đi ngựa. Một chú lính hầu theo sau ngài một quãng rõ đúng kiểu cách. Khi ngài tiến vào phòng khách, người ta tưởng như ngài vẫn còn chót vót trên lưng con ngựa cao lõm của ngài. Còn mề đay thì ngài có nhiều vô kể, chằng chịt nặng trĩu cả người. Nhưng cái đó thực ra không phải lỗi tại ngài. Ngài vào quân đội từ ngày còn trẻ măng. Ngài vẫn thường dự những cuộc hành quân tập trận nhỏ mà quân đội vẫn tiến hành vào mùa thu trong thời bình. Về vấn đề ấy ngài thường kể một giai thọai, và ngài cũng chỉ biết có một chuyện ấy thôi.
Một hôm, một hạ sĩ quan dưới quyền ngài cắt đứt đường rút lui của một ông hoàng và bắt được Đức Ông cùng với cả đoàn tùy tòng làm tù binh. Ông hoàng và đoàn theo hầu, với tư cách là tù binh, phải đi ngang qua thành phố, theo sau vị tướng thắng trận. Đó là một sự kiện đáng ghi nhớ mà quan Đại tướng năm nào cũng kể đi kể lại. Ngài kể lại một cách trung thành những lời mà ngài đã nói khi trao trả lại cho ông hoàng thanh kiếm: "Chỉ có một hạ sĩ quan mới bắt được Đức ngài làm tù binh; tôi thì chẳng bao giờ có thể làm thế được”. Ông hoàng đã trả lời ngài: "Ông thật là người có một không hai".
Quan Đại tướng chưa hề ra trận thật bao giờ. Có lần nổ ra chiến tranh thì ngài lại được cử đi làm sứ thần sang ba triều đình. Ngài nói tiếng Pháp rất thạo, đến nỗi gần quên cả tiếng mẹ đẻ. Hơn nữa ngài khiêu vũ tuyệt thạo. Bởi thế cho nên mề đay mọc trên ngực ngài như cỏ dại mọc ngoài đồng. Lính gác bồng súng chào ngài. Một trong những cô gái trẻ đẹp nhất xã hội Đan Mạch cũng kính phục ngài và trở thành Đại tướng phu nhân. Họ sinh được một cô con gái tuyệt mỹ; cô bé xinh đẹp đến nỗi người ta bảo là con giời cho. Đó là cô Émilie của chúng ta. Thọat đầu con trai bác gác cổng nhảy múa ngoài sân trước mặt cô để mua vui cho cô; rồi về sau lại cho cô những tấm tranh tự tay chú vẽ và tô màu. Cô bé Émilie xem tranh, lấy làm vui thích tợn, nhưng rồi xé luôn. Thế nhưng cô vẫn ngoan làm sao!
Đại tướng phu nhân bảo:
- Cánh hồng của ta ơi, con sinh ra để sánh vai với một ông hoàng.
Ông hoàng chẳng phải đâu xa; ở ngay trước cửa ấy. Nhưng chẳng ai biết tí gì cả. Người ta chẳng bao giờ nhìn xa quá ngưỡng cửa. Một hôm bác gác cổng gái nói với chồng rằng:
- Hôm kia con giai chúng mình đã chia nhau với tiểu thư cái bánh ngọt của nó: bánh chẳng có nhân thịt mà cũng chẳng có pho mát; nhưng con bé thì lại cho là rất ngon, cứ như pa-tê ấy. Nếu Đại tướng hoặc phu nhân mà trông thấy bữa ăn của trẻ em ấy thì lại lắm chuyện! Nhưng các ngài chẳng biết gì cả.
Georges đã chia xẻ miếng bánh của mình cho cô Émilie. Chú cũng sẵn lòng chia sẻ trái tim cho cô nếu điều đó có thể làm cho cô vui thích. Chú là đứa trẻ rất tốt, thông minh, lanh lợi. Chú thường theo học lớp vẽ buổi tối. Cô bé Émilie cũng đi học, cô nói tiếng Pháp với vú em và đã bắt đầu học nhạc.
II
Bác gác cổng gái nói với chồng:
- Thế là thằng Georges sắp sửa phải chịu lễ ban thánh thể vào ngày lễ Phục sinh này rồi.
Ông lão nói:
- Tốt hơn hết là cho nó đi học việc. Phải chọn cho nó một nghề nghiệp chắc chắn. Như thế thì nhà này sẽ vắng nó.
Bà lão trả lời:
- Bao giờ mà nó chả phải ngủ ở nhà. Có ông chủ nào lại cho thợ học việc ngủ trong nhà bao giờ. Chúng mình vẫn phải may mặc cho nó. Thế thì thà giữ nó ở nhà còn hơn. Chúng ta cũng có thể bòn đủ nuôi miệng nó: vài củ khoai, thế là nó bằng lòng rồi. Nó đi học vẽ không mất tiền. Thầy giáo nó đã chả bảo: "Cứ để cho nó theo đuổi”, rồi sau này nó sẽ làm cho chúng ta sung sướng hay sao?
Quần áo mặc ngày lễ ban thánh thể đã may xong. Mẹ Georges đã tự tay khâu lấy. Bác thợ may hàng xóm, vốn là một người khéo tay, đã cắt hộ. Bác gác cổng gái bảo:
- Nếu ông ta có thể có một cửa hàng lớn với đủ thợ và người học việc ở một phố lớn thì ông ta sẽ trở thành thợ may của nhà vua.
Quần áo đã may xong và Georges cũng đã sẵn sàng. Đến ngày đại lễ, chú được ông bố đỡ đầu là một người làm công già ở cửa hiệu buôn sắt tặng cho một chiếc đồng hồ quả quýt to bằng bạc, cũ kỹ và đã qua tay nhiều người. Nó vẫn chạy nhanh nhưng như thế còn hơn là chạy chậm. Đó là một món quà rất quý.
Cô tiểu thư bé nhỏ mà Georges vẫn tặng tranh gửi cho chú một tập thánh thi (3) bọc da. Trên đầu quyển sách cô ghi tên Georges và Émilie với những chữ: "Người bảo hộ thân ái của anh". Câu đó do Đại tướng phu nhân đã đọc cho cô bé viết từng chữ. Quan Đại tướng đã xem và bảo: "Thật là tuyệt!”.
Bác gác cổng nói:
- Thật là một biểu hiện hào hiệp của những con người dòng dõi quyền quý.
Georges phải mặc quần áo đẹp, cầm quyển thánh thi lên gác để trình diện và tạ ơn.
Đại tướng phu nhân quấn đầy khăn san và áo choàng ngồi trên ghế sofa. Ngài đang bị một cơn rức đầu ghê gớm, thường hay mắc vào những lúc buồn phiền. Ngài cố giữ vẻ không dịu dàng lắm đối với Georges, chúc chú mọi sự may mắn, nhất là không bao giờ mắc chứng rức đầu.
Quan Đại tướng đang đi dạo trong bộ áo ngủ, đầu chùm chiếc mũ. Ngài đi một đôi ủng Nga có dọc đỏ. Chìm đắm trong sự suy nghĩ hoặc trong hồi ức của mình, ngài đi đi lại lại liền ba lần khắp gian phòng, rồi dừng lại bảo "Thế là thằng bé Georges được nhận vào hàng ngũ con chiên! Hãy trở nên một người lương thiện và phải tôn trọng Nhà nước. Làm đúng lời răn ấy thì mày sẽ khá và lúc về già mày có thể tự nhủ rằng chính là quan Đại tướng đã dạy mày như thế”.
Nói liền một mạch như vậy là quá nhiều so với thói quen của quan Đại tướng. Bởi thế cho nên ngài lập tức trở lại trầm tư mặc tưởng; ngài có một vẻ nghiêm nghị rất thích hợp với con người của ngài. Nhưng, trong tất cả những cái mà Georges nghe thấy và trông thấy hôm ấy, trên gác, chỉ có hình ảnh cô bé Émilie là khắc sâu vào trí nhớ của chú, không thể nào phai nhạt được, hơn tất cả mọi cái khác. Dịu dàng, thanh thao và đáng yêu, trông cô như một con chim non đang bay nhảy. "Có lẽ phải vẽ cô ta lên một cái bong bóng xà phòng. Georges tự nhủ khi nghĩ đến cái vật trong lơ lửng trên không ấy. Những búp tóc to vàng óng của cô tỏa ra mùi hương thơm như hoa hồng mới nở. Chính với nàng tiên ấy, con người thần tiên ấy, năm nào chú đã cùng chia sẻ miếng bánh ngọt và cô bé đã ăn phần của mình một cách rất ngon lành, cứ mỗi miếng lại gật đầu với chú, tỏ vẻ hài lòng. Không biết cô có còn nhớ đến chuyện ấy hay không? Chắc là có và chính cô đã tặng chú quyển thánh thi đẹp đẽ này để cảm ơn chú.
Sau chuyện trên đây, đến tuần trăng đầu tiên năm mới, chú ra giữa đồng, trong túi để một mẩu bánh, tay cầm quyển thánh thì mở ra bói một quẻ xem hậu vận ra làm sao, vì người ta thường làm như thế và tin rằng những lời phán định của thánh không khi nào sai cả.
Chú mở quyển sách, bói đúng vào một đoạn nói về sự tạ ơn, tiên đoán cho chú một hậu vận sung sướng. Chú mở ra lần thứ hai để xem bói số phận cô bé ra sao. Chú hết sức chú ý để đừng mở sách vào đúng những đoạn thơ nói về sự chết; nhưng chú mở phải trang sách chỉ nói đến chết chóc và mồ mả. Georges kêu lên để tự làm yên lặng: "Đó chỉ là những điều dị đoan”. Nhưng chú mới lo sợ làm sao khi ít lâu sau cô bé đáng yêu ốm liệt giường và xe của thầy thuốc ngày nào cũng đến đỗ trước cửa!.
Bác gác cổng gái nói:
- Họ chả giữ được cô bé đâu. Ông Giời chí nhân rất sáng suốt khi định bắt ai về chầu.
Thế nhưng họ vẫn giữ được và cô bé thoát khỏi những sự đe doạ của lời bói toán. Khi cô đang an dưỡng, Georges vẽ tranh và gửi cho cô mua vui. Một hôm chú vẽ lâu đài của Sa Hoàng, điện Kremlanh cổ kính với những ngọn tháp nóc tròn, trông như những quả bí khổng lồ vàng rực dưới ánh mặt trời. Ít ra chúng cũng giống như thế trong bức tranh của Georges. Cô bé Émilie xem thích lắm. Thế là Georges lại vẽ cho cô một loạt tranh mới, toàn nhà là nhà, vì chú tự nghĩ rằng cô bé sẽ vui chơi tưởng tượng đến vô khối những vật xinh đẹp có thể có ở đằng sau những cửa lớn và cửa sổ trong tranh.
Chú vẽ một ngôi chùa Trung Quốc có mười sáu tầng, tầng nào cũng có chuông. Chú vẽ hai ngôi đền Hy Lạp, có cột đá cẩm thạch thanh nhã, tứ phía đều có bậc thang. Chú lại vẽ một nhà thờ Na Uy mà nhìn tranh cùng thấy rõ là làm bằng gỗ, các bộ phận đều được chạm trổ với một nghệ thuật lạ kỳ.
Nhưng cái tranh đẹp nhất là cái mà chú gọi là lâu đài của cô Émilie, vì chú cho rằng cô phải sống trong một toà nhà như thế. Chính chú nghĩ ra kiểu toà nhà. Chú đã tập hợp vào đấy tất cả những gì chú cho là đẹp nhất trong các lâu đài kia. Trong đó có những chiếc dầm chạm trổ như ở nhà thờ Na Uy; có những cột đá cẩm thạch như ở đền dài Hy Lạp; rồi tầng lầu nào cũng có chuông như ở những ngôi chùa Trung Quốc; cuối cùng trên mái có chụp những vòm óng ánh vàng như mái điện Kremlanh của các Sa hoàng. Đó thật là một lâu đài trong những truyện thần tiên.
Dưới từng cửa sổ Georges đã ghi rõ buồng ấy, phòng ấy dùng làm gì. Ví dụ: "Đây, Émilie ngủ; chỗ này, cô học nhảy; đây, cô chơi, chỗ này tiếp khách v. v…
Nhìn vào toà lâu đài kỳ lạ ấy thật là thích thú nên mọi người ngắm mãi không chán.
Quan Đại tướng khen:
- Thật là tuyệt!
Vị bá tước già, vì lúc ấy cũng có mặt một vị bá tước già dòng dõi còn quý phái hơn cả quan Đại tướng, cũng có một toà lâu dài, vị bá tước già ấy không nói gì cả. Ngài được nghe kể rằng tòa lâu đài ấy do một chú bé con trai người gác cổng tưởng tượng mà vẽ ra. Chú ta còn bé, bé lắm; nhưng không, nói thế khí quá vì chú đã được làm lễ ban thánh thể rồi. Vị bá tước già, sau khi xem những bức tranh ấy, đã có chủ định, nhưng còn giữ kín.
Đúng vào một buổi sáng giời xấu, xám xịt và ẩm ướt, thì ngày đẹp đẽ nhất, ngày sáng lạn nhất của Georges bắt đầu. Giáo sư Viện hàn lâm gọi chú và bảo:
- Cậu bạn bé nhỏ của ta ơi, hãy nghe ta bảo! Thượng đế đã sinh phúc phú cho cậu có tài lại còn run rủi cho cậu gặp những người nhân đức. Vị bá tước già ở góc phố gần đây đã nói với ta về cậu. Ta đã xem tranh cậu vẽ, chúng mình không cần bàn luận dài dòng; có nhiều chỗ cần phải sửa lắm. Nhưng, ngay từ hôm nay trở đi, cậu có thể đến ta học vẽ mỗi tuần hai lần để lần sau cậu có thể vẽ khá hơn. Ta nghĩ rằng có lẽ cậu thiên về kiến trúc hơn là hội họa. Rồi ra cậu cũng còn đủ thì giờ suy nghĩ và lựa chọn. Bây giờ thì hãy đến gặp vị bá tước già và cám ơn Thượng đế đã run rủi cho cậu gặp được ông ta trên đường đời.
Toà nhà của vị bá tước ở góc phố đằng kia thật là to và đẹp. Xung quanh cửa sổ có chạm hình voi, lạc đã, kỳ lân, tác phẩm của thời cổ. Tuy nhiên, vị bá tước thích tất cả những tác phẩm đương thời, mặc dù những người sáng tạo ra chúng là người ở trên gác, ở dưới hầm hay ở sát mái nhà.
Bác gác cổng gái nói:
- Tôi cho rằng những người dòng dõi càng cao quý bao nhiêu thì càng ít kiêu kỳ bấy nhiêu. Hãy xem cụ bá tước già đấy, sao mà cụ ấy giản dị và hoà nhã thế! Cụ ấy nói chuyện cứ như ông và tôi vậy. Quan Đại tướng và ngay cả phu nhân cũng không được như thế. Vì thế cho nên hôm qua thằng Georges mừng quýnh lên về sự tiếp đãi của cụ bá tước. Hôm nay vừa được gặp cụ lớn, tôi cũng thấy như thế. Cũng may mà chúng mình gửi thằng Georges đi học làm thợ. Cụ bá tước đã bảo tôi là nó có năng khiếu đấy.
Ông bố nói:
- Đúng đấy, nhưng phải có người giúp thì nó mới làm nên được.
Bà mẹ đáp:
- Người ta sẽ giúp, cụ bá tước đã hứa chắc chắn với tôi như thế.
Ổng bố bảo:
- Chắc có lẽ cũng có lời của quan Đại tướng. Chúng mình phải sang cám ơn ngài mới được.
Bác gác cổng gái lại nói:
- Ừ mà phải đấy. Nhưng dẫu sao tôi cũng không hề tin rằng nhờ ông ấy mà chúng mình có diễm phúc này. Tôi sẽ cảm ơn Thượng đế và cũng sẽ cầu nguyện cho cô bé Émilie chóng bình phục.
Quả nhiên cô bé Émilie đã khỏi hẳn. Cô lớn lên và đẹp ra và về phía mình, Georges cùng tiến bộ rất nhanh. Tại Viện hàn lâm, chú giành được huy chương bạc, rồi huy chương vàng.
III
Bác gác cổng gái vừa nói vừa khóc:
- Dẫu sao cho nó đi học nghề còn hơn. Có thế thì mới giữ được nó ở nhà. Nó đi La Mã làm gì chả biết được? Tôi sẽ không bao giờ được gặp nó nữa, thằng bé thân yêu ấy, ngay cả khi nó trở về đây. Nhưng chắc nó chả muốn rời bỏ cái xứ mà người ta khen là đẹp lắm cơ đây.
Ổng bố nói:
- Đó là vì hạnh phúc của nó, nó đi như thế có lợi cho sự nghiệp của nó hơn, bà ạ!
Bà mẹ đáp:
- Ông an ủi tôi, tôi xin cảm ơn, nhưng bản thân ông cũng buồn chẳng kém gì tôi, ông ạ!
Thực ra cả hai vợ chồng đều rất buồn, vì đứa con trai sắp đi xa, dù rằng tất cả mọi người xung quanh đều bảo họ rằng thằng bé được đi như vậy là rất sung sướng và vinh dự. Georges từ biệt cha mẹ và cũng sang chào cả gia đình quan Đại tướng. Phu nhân không ra vì đang bị nhức đầu ghê gớm. Còn quan Đại tướng vớ được dịp tốt, bèn kể ngay thiên giai thoại độc nhất của mình, kể những lời ngài đã nói với ông hoàng và ông hoàng đã trả lời: "Ông thật là người có một không hai". Đến đây ngài chia cho Georges bàn tay mềm nhũn và như không có sinh khí. Émilie cũng chìa bàn tay bé nhỏ cho Georges nắm. Cô có vẻ hơi buồn nhưng chính Georges thì cảm thấy đau khổ thực sự.
Khi người ta làm việc thì thời gian trôi đi nhanh chóng. Ai cũng có thời gian như nhau, nhưng không phải ai cũng sử dụng thời gian tốt như nhau, mà cũng chẳng ai lợi dụng được thời gian như nhau cả. Cũng vì Georges lợi dụng thì giờ được nhiều nên chú thấy nó trôi qua nhanh chóng, trừ những lúc tưởng nhớ đến quê hương. Chú tự hỏi: "Chẳng biết những người ở nhà ra sao rồi, kể cả người nhà dưới lẫn người nhà trên".
Chú nhận được nhiều thư và trong một lá thư thì có nhiều chuyện lắm, có những tin như ánh nắng nồng nàn sưởi ấm lòng ta, lại có những tin dìm ta vào bóng đêm dày đặc nhất. Những tin này nằm trong lá thư báo cho Georges biết là cha chú đã mất, còn mẹ chú hiện đang ở goá một mình. Trong thư còn nói thêm: Émilie giống như một nàng tiên thường hay xuống bên người thiếu phụ đáng thương để an ủi và cô đã hết sức can thiệp đến nỗi người ta phải giao cho bà nhiệm vụ gác cổng.
IV
Đại tướng phu nhân có một quyển nhật ký trong đó bà thường ghi những buổi hội họp, những buổi khiêu vũ mà bà đã đến dự, cả tên những khách đến thăm bà. Cuốn nhật ký giá ấy được minh họa bằng những tấm danh thiếp của các nhà ngoại giao và các vị tai to mặt lớn khác. Phu nhân lấy làm tự hào rằng cuốn nhật ký của mình ngày càng cộm mãi lên. Đó là niềm an ủi của ngài trong những cơn nhức đầu ghê gớm hay khi ngài mệt rũ ra sau một đêm khiêu vũ trong triều.
Đến ngày Émilie lần đầu tiên đi dự khiêu vũ trong cung. Tối hôm ấy Đại tướng phu nhân mặc quần áo đỏ nhạt viền đăng ten màu đen, theo kiểu Tây Ban Nha. Tiểu thư bận đồ trắng, hàng tuyn và sa mỏng nhẹ như mây. Trông nàng như là hiện thân của sự kiều diễm. Những dải lụa xanh như những cây lau mềm mại lẩn vào những búp tóc vàng của nàng, trên đó quấn một vòng hoa khê tôn màu trắng. Với cặp mắt sáng ngời tuổi xuân và cái miệng hồng xinh xinh, nàng giống như một tiên nữ trẻ đẹp nhất trong trí tưởng tượng của mọi người. Ba ông hoàng khiêu vũ với nàng, tất nhiên là phải lần lượt. Trong tám ngày liền, Đại tướng phu nhân không bị nhức đầu. Tiếp sau cuộc khiêu vũ đầu tiên ấy là nhiều cuộc khác, nhiều đến nỗi ảnh hưởng đến sức khoẻ của Émilie; vừa may mùa hạ tới, nhờ đó nàng được nghỉ ngơi và hưởng không khí trong lành nơi thôn dã. Cả gia đình quan Đại tướng đi nghỉ mát một thời gian tại lâu đài vị bá tước già. Nơi đó có một khu vườn đáng chú ý, theo kiểu cổ; hai bên lối đi, có hàng rào sửa sang thẳng tấp bằng kéo, thành hình những bức tường; đây đó là những lỗ trông như những cửa sổ tròn. Có những cây hoàng dương và thủy tùng cắt thành hình ngôi sao hay hình kim tự tháp. Nhiều tia nước phun ra từ những miệng đang dát đầy vỏ hầu, vỏ hến. Tứ phía là những pho tượng có nét mặt đầy đặn xinh đẹp, quần áo sang trọng tạc bằng một loại đá cẩm thạch hiếm có. Tất cả các luống hoa đều có hình khác nhau: luống này hình con cá, luống kia hình các gia huy hoặc các chữ đầu tên. Đó là phần vườn xếp đặt theo kiểu Pháp. Tiếp đó là một khóm rừng nhỏ xanh mát; những cây to và khoẻ thả sức mọc. Rồi đến những đám cỏ dày, những bồn cỏ đi lên cứ như bước trên thảm. Đó là phần vườn xếp đặt theo kiểu Anh. Vị bá tước nói:
- Thưa các ngài, đây là thời cổ và thời kim cũng có mặt, đây ít ra cả hai thời cùng hoà hợp và làm tôn giá trị của nhau lên. Trong hai năm nữa, sẽ đến lượt toà lâu đài biến đổi. Tôi sẽ trình bày đồ án với các ngài và cũng sẽ giới thiệu ông kiến trúc sư với các ngài. Ông ta sẽ dự bữa cơm tối với chúng ta.
Quan Đại tướng nói:
- Thật là tuyệt!
Đại tướng phu nhân lại nói:
- Toà dinh thự này thật là chốn thiên đường.
Đằng kia ngài lại còn cả một vọng lâu thời cổ.
Bá tước nói:
- Tôi đã dùng nó làm nơi nuôi gà vịt, mà cũng chỉ có dùng vào việc ấy được thôi. Chim cu làm tổ trên các ngọn tháp, gà tây ở trong buồng lớn gác thứ nhất, còn tầng dưới thì do mụ Lisette trị vì. Chính mụ cai quản đám gà mái ở phía bên phải và đám gà giò bên trái. Ở đấy đàn vịt cũng được một chỗ ở có lối thông ra ao.
Quan Đại tướng nhắc lại:
- Thật là tuyệt!
Họ lại tiếp tục đi thăm cái đám dân cư thú vị ấy. Bà lão Lisette đang đứng chỉ huy. Bên cạnh là Georges, nhà kiến trúc sư. Từ bao năm nay, đây là lần đầu tiên anh và Émilie gặp nhau; họ lại trông thấy nhau trong cái vọng lầu này bây giờ chỉ còn là chỗ nuôi gà vịt.
Anh đứng đấy và quả thật là một đấng tu mi nam tử với khuôn mặt cởi mở, kiên nghị, với bộ tóc đen bóng. Anh đáng để cho người ta ngắm nghía. Trên môi anh nở một nụ cười tự hào như bảo rằng: "Đằng sau tai này này, tôi có một bộ óc tinh khôn thấu hiểu tâm can các ngài".
Bà lão Lisette đã tụt guốc ra để tỏ lòng tôn kính các vị khách quý phái. Bà chỉ đi bít tất thôi và cho như thế là nhã. Gà mái kêu cúc cúc, gà trống gáy cúc cù cu. Lũ vịt lạch bạch vừa lảng ra vừa kêu cạc cạc.
Còn thái độ người thiếu nữ kiều diễm tình cờ gặp lại người bạn thuở nhỏ ra sao? Đôi má thường ngày nhợt nhạt ửng đỏ hẳn lên. Đôi mắt to của nàng mở rộng hơn. Đôi môi động đậy, nhưng chẳng nói được một lời. Thật là một sự hậu đãi đối với một chàng trai trẻ khi thấy một thiếu nữ không phải là họ hàng và cũng chưa khiêu vũ với mình bao giờ mà lại đối xử với mình như vậy.
Bá tước cầm tay chàng thanh niên và giới thiệu với khách. Ông nói:
- Đây chẳng phải người xa lạ với các ngài; chính là anh bạn trẻ Georges của chúng ta.
Đại tướng phu nhân nghiêng mình với một vẻ hào hiệp của người bề trên. Émilie suýt nữa thì chìa tay cho Georges nhưng lại thôi. Đại tướng bảo:
- Đúng là ngài Georges trẻ tuổi của chúng ta! Thế ra chúng ta là những người cố tri cả! Thật là tuyệt!
Đại tướng phu nhân nói:
- Chắc anh gần thành người Ý và nói tiếng Ý như người sinh ra ở La Mã đấy nhỉ?
Đại tướng ngắt lời:
- Phu nhân ta không nói được nhưng hát được tiếng Ý đấy.
Một lát sau, Georges được ngồi vào bàn ăn phía bên phải Émilie. Anh nói, kể chuyện và kể rất hay. Anh tả một vài thứ tuyệt diệu mà anh đã được xem. Trong bữa ăn, với sự giúp đỡ của vị bá tước già anh đã mang sự hiểu biết của mình làm náo nhiệt cả bữa tiệc. Émilie im lặng, nàng vui lòng ngồi nghe, nhưng đôi mắt sáng long lanh hơn cả kim cương.
Dưới hàng hiên nàng và Georges đứng cạnh nhau giữa đám hoa. Họ dạo chơi theo dọc một dẫy cây hồng.
Georges nói:
- Tôi hết sức cám ơn cô về lòng hảo tâm của cô đối với bà mẹ già của tôi; Tôi biết là cô đã ở bên bà mẹ tôi cái đêm cha tôi chết và cô chỉ rời đi sau khi cha tôi đã vĩnh viễn nhắm mắt. Một lần nữa, xin cám ơn cô nhiều lắm.
Gặp cơ hội thuận tiện, anh cầm tay người thiếu nữ và trân trọng đặt lên một chiếc hôn. Émilie đỏ bừng mặt, xiết chặt tay anh, nhìn anh bằng đôi mắt xanh thẳm, xinh đẹp, và nói:
- Mẹ anh có một tâm hồn rất đáng quý. Bà yêu quý con trai biết bao! Tất cả những lá thư của anh bà đều nhờ tôi đọc cho bà nghe. Do đó tôi vẫn biết tin anh. Vả lại, khi tôi còn bé anh đã chẳng đối xử rất tốt với tôi hay sao? Anh đã cho tôi nhiều tranh vẽ…
- Mà cô đã xé đi…. - Georges nói.
- Bức tranh anh vẽ cái lâu đài của tôi thì không.
- Chính giờ đây là lúc tôi muốn xây nó lên.
Anh nói với một vẻ nồng nhiệt làm cho người ta có thể đoán rằng anh có đủ tài sức để xây được một toà lâu đài tuyệt diệu biết dường nào cho người thiếu nữ.
Lúc đó trong phòng khách Đại tướng và phu nhân bàn tán với nhau về anh con trai người gác cổng cũ của họ. Họ nhận xét với nhau rằng sao mà anh ta khéo học được cách cư xử đúng kiểu một người lịch sự thế, sao mà anh ta ăn nói có duyên thế và những điều anh ta nói thú vị biết là dường nào! Đại tướng phu nhân kết luận:
- Thật là một người trí thức.