← Quay lại trang sách

HÀNH hương ❖ I ❖

Ấn tưỢng tháng ba là Ấn tưỢng cháy bỏng, dưới ánh nắng chói chang, mặt đất phủ tuyết bốc lên vô tận những ngọn lửa trắng, ánh nắng như thiêu đốt lưng và mặt của những người làm đồng trên mảnh đất này, không khí tràn ngập mùi lửa, sông ngòi chảy ào ào như sôi lên, tất cả như xao động, như rối loạn, đôi lúc những cánh chim vội vàng chao qua bầu trời.

Tuy nhiên đến ngày thứ năm, tuần đầu tiên của tháng ba, một đám mây đen dầy đặc như những con gấu đen hung dữ từ phía chân trời lao đến bao trùm lên làng Nhật Nguyệt. Cả làng già trẻ lớn bé kinh hãi chạy ra khỏi nhà nhìn mây đen cuồn cuộn bay tới. Gió lạnh thổi, những bộ quần áo tả tơi như những lá cờ rách bay trong gió. Mây đen như một cái khăn lau khổng lồ xóa sạch những ánh nắng vừa tràn ngập trên đầu rồi căng ra che kín khắp bầu trời. Trẻ con kêu thất thanh, sợ hãi nép vào lòng cha mẹ cũng đang run cầm cập. Mây đen tràn ra như nước chảy trên mặt kính, có tiếng kêu trầm đục râm ran. Mọi người đều thấy ngột ngạt, oi bức, thở hổn hển như cá mắc cạn, kinh hãi chờ tai họa giáng xuống.

Vài phút sau, những đám đen trên không trung hạ thấp dần, một cục đen rơi tọt vào trong cổ áo thằng con tám tuổi của Tài, cái cục gì bầy nhầy lạnh ngắt, vừa cựa quậy vừa kêu. Thằng bé Môsa hét lên vì sợ, nó móc ra ném xuống đất, mấy người xung quanh trố mắt nhìn: một con ếch tròn quay, dạng chân đứng hiên ngang! và cùng lúc đó  những tiếng lộp bộp rộn lên, ếch rơi khắp nơi, hằng hà sa số những con ếch rơi xuống đầu dân làng Nhật Nguyệt, tiếng ếch kêu, người kêu ầm ĩ, mùi tanh lợm nồng nặc khắp nơi. Người chạy chó chạy, ếch nhảy chồm chồm, kêu inh ỏi trên mặt đất băng giá. Người ta chạy dạt như lá cây bị gió thổi, trốn vào nhà. Trời tối thêm, ếch trút xuống mỗi lúc một nhiều. Chúng giương đôi mắt lồi hung hăng nhảy trên tuyết xào xạo. Dân làng nhìn qua cửa sổ, một cảnh hùng vĩ, hàng trăm năm chưa từng gặp: Trong tia nắng chiều thoáng lóe lên, những con ếch vật nhau, ôm lấy nhau để tìm hơi ấm mà sống, chúng túm tụm lại thành cụm, thành đống rồi thành cái gò bùng nhùng cao hơn chục mét! Cả đêm dân làng bị tiếng kêu giận dữ và thảm thiết của chúng vây kín.

Sáng sớm hôm sau Tài bước ra cửa nhìn thấy trên đồng lúa ba cái núi ếch lù lù vây quanh thôn.

Đột nhiên ba cái núi ếch nổ tung, ngọn lửa lan ra, những con ếch sống chết, những mảnh thịt ếch bay lên rơi rào rào như mưa, mùi thối bay trong gió.

Lửa ếch cháy ba ngày, trưa ngày thứ tư lại một tiếng nổ lớn, dân làng tung cửa chạy ra, không còn bóng dáng con ếch nào, những mảnh thịt thối thịt cháy phủ kín làng không còn một chỗ hở.

Sau đó họ phát hiện mấy chục dặm vuông lúa mạch vụ đông của họ đã mất sạch, xác ếch đã vùi chết hết mạ non. Không khí lạnh lẽo bao trùm, làn khói buồn thương và hoạn nạn phất phơ bay trên các mái nhà.

❖ II ❖

Không khí tràn ngẬp mùi cỎ mỤc, mưa rơi từ bầu trời u ám, sương mù bao phủ cánh đồng mênh mông, những con ưng đầu trọc lượn vòng trên không tìm xác người, xác súc vật. Xung quanh lặng như tờ, xa xa dãy núi đen sì lầm lũi vươn dài. Đứng trên cao nhìn xuống, trên cánh đồng trong mưa mù, rải rác những đầm lầy như những vết lở loét trên cơ thể, như những con mắt bị mưa sa gió táp trừng trừng nhìn lên trời. Đó là phong cảnh điển hình miền tây Thanh Hải.

Từ mặt đầm nước vọng lại tiếng người: tiếng bước chân lội nước, tiếng nói lao xao, thêm chút sức sống cho miền đất heo hút này. Những bóng đen hiện lên. Năm người mệt mỏi thất thểu đi tới, hẳn là vừa qua một chặng đường dài đến đây. Họ vác những bọc nặng, tay cầm cuốc xẻng, có người đẩy cả xe cút kít. Bóng họ kéo dài ra dưới ánh mặt trời.

Bỗng một người trẻ tuổi kêu thất thanh: “Người chết! chú Tài, có xác người!” Tài người cao lớn vạm vỡ, trán rộng, khuôn mặt tuấn tú, bước vội lên mấy bước, đến chỗ nước xâm xấp đã ngửi thấy mùi thối, rồi thấy cái xác nằm ngửa. Bộ mặt đã bị chim ưng rỉa nát bét, ai nhìn cũng phải quay mặt đi vì thảm quá. Tài cau mày nhìn, người này khoảng bốn chục tuổi, mặc áo lông, trên đã phủ một lớp tuyết, cánh tay lộ ra nổi những bọt khí thối rữa xanh xám, bốc mùi nặng nề. “Người đãi vàng”. Tài thấy tay xác chết còn nắm cái cuốc chim, anh ta sa sầm nét mặt, “Nghĩa, Hải đem chôn đi”.

Hải, Nghĩa chừng hai mươi và ba mươi tuổi, hai người làm bẹt xác chết rồi xúc đất đắp dần lên.

Mọi người trở nên lầm lì không nói, mơ hồ cảm thấy điều chẳng lành, họ nhận ra thủ lĩnh Tài tâm trạng cũng nặng nề.

Tài lim dim mắt, chân xéo bùn oàm oạp, rồi anh ta đứng thẳng người tay che nắng, nhìn ra xa. Mọi người nhìn theo, trước mặt là sương khói mênh mông, thỉnh thoảng một tiếng chim kêu thảm thiết xé ngang trời. Một đám mây đen bay qua trong mắt họ, chẳng ai biết số phận của mình ra sao.

Nhìn từ xa, họ là năm bóng người lạc lõng cô đơn, như đang mặc niệm những người tử nạn, lại vừa như đang lắng nghe và tìm kiếm những gì phía chân trời.

Cánh đồng hoang vẫn mênh mông, rộng lớn, thăm thẳm, vẫn thần bí khó hiểu, hầu như cái chết rình rập khắp nơi. Năm bóng người lại theo nhau bước đi.

Mấy con chim ưng trọc đầu kêu như tiếng sét đánh ngang trời.

❖ III ❖

MỘt ngày sau trẬn mưa Ếch kỲ lẠ đó, mây đen tan đi, nắng lên, trời trong vắt không một gợn mây. Giữa trưa, mặt trời lên đỉnh đầu, chiếu xuống như muốn thiêu cháy làng Nhật Nguyệt kẹp giữa hai trái núi. Không khí nóng dần lên. Dân làng lớn bé già trẻ buồn bã ngồi ở bậc cửa nhìn ra cánh đồng lúa bị trận mưa ếch phá tan hoang, lo cháy gan cháy ruột. Trời mỗi lúc một nắng thêm, không khí khô khốc, oi bức, không một ngọn gió, xung quanh tĩnh lặng như bãi tha ma.

Mùi hôi thối bốc lên, bao trùm kín làng. Mọi người vội quay vào nhà, bịt chặt mọi chỗ cho mùi hôi thối khỏi bay vào nhưng không khí xú uế vẫn tràn ngập. Tâm trạng mọi người hoàn toàn tuyệt vọng, tất cả mùa màng một năm trông chờ thế là mất sạch. Ba ngày hôi thối, cả làng không ai bước chân ra khỏi nhà, ngồi chịu đựng mà chẳng biết làm gì. Thế rồi một trận gió mạnh thổi về, chỉ nửa ngày mùi hôi hám hết sạch.

Cùng lúc đó, trong lòng Tài vẫn leo lét ngọn lửa hy vọng, anh ta quay cuồng trong nhà như một con sói già, tính toán một kế hoạch. Thằng bé Môsa ngồi bên lò sưởi mút tay sợ hãi nhìn bố. Cô vợ Túy Hoa ngồi một bên khâu giày, thỉnh thoảng liếc nhìn chồng lo lắng, không biết anh ta định làm cái trò gì.

Cái bóng điện trên đầu Tài nổ cái đốp, Túy Hoa kêu lên, cùng lúc cửa bật mở, “Anh Tài!” Tài quay ra thấy Hải. “Anh Tài ơi, cứ thế này thì chết cả lũ. Chết đến nơi rồi anh Tài ơi. Mọi người bảo anh nghĩ cách gì đi. Anh bảo làm gì chúng tôi làm nấy”. Trong giọng nói của Hải như có nước mắt. Năm ngoái nhà Hải đã chịu một trận lũ, mất nhà, chết người, năm nay tất cả hy vọng trông vào mấy thửa ruộng thì lại mất trắng vì trận mưa ếch tai ác đó.

Tài không nói, đi lại lồng lộn trong nhà. Hải ngây người nhìn, mồ hôi vã ra. Thế rồi mấy người nhận thấy mắt Tài sáng lên, từ từ quay mặt lại nhìn họ, da mặt giật giật, thoáng hiện một vẻ quả quyết. Tài bảo: “Tôi có cách rồi. Ta đi đãi vàng, đi Kakaxili”. [1]

“Đãi vàng?” Hải và Túy Hoa kinh hãi đến tức ngực, há miệng mấy lần mà không nói được câu nào. Họ biết tính Tài đã định làm gì là lay không chuyển. Họ đều biết đãi vàng, hai tiếng ấy có nghĩa là gì.

“Không còn cách gì, chỉ có đi đãi vàng. Cậu đi bàn với anh em”. Tài nói. Hải do dự một chút rồi chạy như bay ra khỏi nhà.

Ba ngày sau, tất cả đàn ông trong làng Nhật Nguyệt bằng lòng đi đãi vàng. Mấy ngày nay, qua đài phát thanh họ biết nông dân lũ lượt đi đến vùng núi Kakaxili, tỉnh Thanh Hải để đãi vàng. Nhà nào cũng chăm chú nghe đài, muốn tìm thấy chút ánh vàng lấp lánh trong mỗi câu mỗi chữ.

Theo lời kêu gọi đầy uy lực của Tài, mọi người trong làng rục rịch chuẩn bị. Trong tưởng tượng của họ, cả đồng cỏ Kakaxili lấp lánh toàn vàng là vàng, tha hồ nhặt như nhặt thóc.

Cả thôn, nhà nào có đàn ông đều bỏ ra số tiền đã vất vả tích cóp được để sắm cuốc xẻng, lều bạt, lương thực, xe cút kít, thậm chí có nhà còn sắm cả máy kéo bánh nhỏ. Đâu đâu cũng hừng hực không khí chiến đấu, các bà vợ thì tất tả sửa soạn cho chồng. Cũng hôm đó một đàn ong mật từ đông nam theo gió bay đến lượn vòng mấy tiếng đồng hồ trên không trung rồi lại bay đi, không khí ngào ngạt mùi phấn hoa.

“Cầu trời, mong sao đây là điềm báo  tốt lành cho chúng con!” Tài ngẩng mặt lên bầu trời xanh thăm thẳm khấn thầm. Trong bầu không khí sặc mùi phấn hoa, anh ta chia hơn bốn chục người thành bảy nhóm, mỗi nhóm năm đến mười người, có một nhóm trưởng. Ngày thứ hai, tuần cuối tháng ba, Tài dẫn nhóm năm người đi trước, sáu nhóm sau xuất phát cách nhau ba ngày.

Khúc ca bi tráng lơ lửng trên bầu trời làng Nhật Nguyệt. Nhóm của Tài gồm: Tài, Hải, Nghĩa, Thọ, Tuấn xuất phát trong ánh mắt tiễn đưa bi hùng và vui vẻ của toàn thể dân làng.

Bước đầu tiên đặt chân ra khỏi làng, trong lòng họ như vang lên một tiếng chuông, Kakaxili đầy mơ ước và cũng đầy khủng khiếp. Tuy nhiên họ đã lên đường như một tín đồ.

Hành hương! Hãy đến Kakaxili, vàng lấp lánh trên đồng cỏ như lúa chín! Hãy đi hành hương! Vì sự sống còn, vì hạnh phúc sáng tươi, hãy lên đường hành hương! Hãy hành hương đến lãnh địa của vàng!

❖ IV ❖

GiỞ cuỐn “Địa lý Trung quỐc” xuẤt bẢn lẦn thứ 5, năm 1983 của Nhà xuất bản Bản Đồ, trang 32 “Tỉnh Thanh Hải”, trên cao nguyên Thanh Tạng màu nâu, kẹp giữa dãy Côn Sơn và dãy núi Zulkenula, ta sẽ thấy mấy chữ Kakaxili. Vùng này có hồ Kakaxili, hồ Huodon, hồ Kusai, hồ Dinhai, hồ Chamso, hồ Hulu và rất nhiều hồ khác trên cao nguyên, ngoài ra còn các hồ băng trên núi cao. Giữa các hồ và sông băng có nhiều đồng cỏ xen lẫn. Nơi đó chính là thánh địa của những người đãi vàng, tức là nơi vàng lấp lánh đầy đồng trong ảo tưởng của họ.

Mùa hè năm 1989 hơn mười vạn nông dân bán hết gia sản, lái hàng ngàn xe máy hoặc đi bộ đẩy xe cút kít đến đây, từ đó viết nên một trang bi tráng trong lịch sử đãi vàng của Trung quốc: Tháng sáu năm đó mưa tuyết liên miên, đường đi lầy lội, hàng vạn người mắc kẹt ở đó và gần ngàn người đã chết. Chính phủ phải huy động một số lượng lớn nhân lực vật lực để ứng cứu, kể cả sử dụng máy bay trực thăng quân sự. Vậy mà những người đãi vàng vẫn như điên dại, đi xe đi bộ tiến sâu vào Kakaxili. Bởi vì có một ý thức chi phối họ, đó là ý thức sinh tồn cơ bản nhất của con người.

Họ vững bước thẳng tiến như các tín đồ hành hương, chỉ để có được vàng, để có một cuộc sống hạnh phúc, no đủ. Do đó mùa hè năm 1989 Kakaxili là nơi tập kết của tất cả các giấc mơ đẹp của con người.

Đợt sóng thần người đào vàng ập đến Kakaxili năm 1989 thực tế là một chuyến hành hương tinh thần của lớp nông dân nghèo khổ dưới đáy xã hội của Trung quốc. Bởi vì đa số họ cuối cùng đã trở về tay không. Nhưng giấc mơ chưa chết, ước vọng cầu mong cuộc sống hạnh phúc  chưa chết cho nên mới diễn ra tấn bi kịch này.

Những người đi đãi vàng, những người nét mặt lấp lánh ngọn lửa hy vọng và kiên nhẫn vẫn tiến lên, vẫn lặn lội đi dưới bầu trời u ám để thực hiện cuộc hành hương của họ.

❖ V ❖

Tài cúi đẦu đi trưỚc, theo sát anh ta là Nghĩa, cậu đàn em tuấn tú, sau đó là Thọ béo lùn, Tuấn gầy yếu, mấy người cõng ba lô lương thực, quần áo. Hải đi sau cùng đẩy xe cút kít.

Bỗng nhiên tuyết bay đầy trên không, khi một bông tuyết quay tròn rồi bay vào  cổ áo Tài thì anh ta run lên, ngước mắt nhìn trời, mây đen như tấm vải liệm đang kéo phủ bầu trời.

Khi họ chia tay vợ con và những người thân đang đứng trên sườn dốc đất đỏ vẫy tay đưa tiễn, khi vượt qua ngọn núi Nhật Nguyệt quanh năm tuyết phủ, nhìn về phía Kakaxili xa mờ trong sương khói thì họ đã biết rằng chuyến đi này sẽ gian nan cực khổ. Trước tiên họ lên chiếc xe quân sự, đi qua sa mạc Gôbi hàng ngàn dặm rồi chia tay người lái xe giải phóng quân tốt bụng, họ bắt đầu tiến vào núi. Họ nhanh chóng vượt qua núi Côn Lôn. Đối với Thọ vượt qua núi Côn Lôn lại là một kỷ niệm sâu sắc.

Chuyện xảy ra sáu ngày trước, khi họ vượt qua mấy cái đồi cỏ mọc thưa thớt thì núi Côn Lôn hùng vĩ sừng sững hiện ra, Côn Lôn cao chót vót, hiểm yếu, quanh năm đội vương miện băng tuyết, ngạo nghễ nhìn xuống bầy núi vây quanh. Họ ngây người chiêm ngưỡng vì ngọn núi quá lớn và quá hiểm trở. Nhưng họ biết rằng phải leo qua nó thì mới có hy vọng đến được Kakaxili.

Khi leo núi, Thọ ngất đi mấy lần vì thiếu ôxy nhưng họ bắt buộc phải vượt qua đèo băng, nơi quanh năm phủ kín băng rắn chắc, phản chiếu ánh nắng một màu xanh thẳm ngàn đời không đổi.

Bỗng nhiên Thọ ngã lăn ra rồi cứ thế trượt xuống theo mặt dốc, cái ba lô nặng sáu bảy chục kí lăn lông lốc như hòn đá xuống vách băng.

“Ôm lấy tảng đá kia! Ôm lấy mau lên!” Tài và Tuấn gào lên, Thọ cứ sàn sạt trượt xuống, rồi giang tay ra ôm được một tảng đá nhô lên.

“Anh ơi, cứu em với!” Thọ kêu lên yếu ớt. Mấy người thả dây chão xuống cho Thọ nắm lấy rồi kéo dần lên. Sau sự căng thẳng tột độ, Thọ rã rời cả tinh thần lẫn thể xác, các vết xây xát, xanh tím đầy mình. Kể từ khi xuất chinh, đây là lần gặp nạn đầu tiên, mà đường còn xa, họ bước đi lòng đầy lo lắng.

Từ lúc đó Thọ lầm lì chẳng nói chẳng rằng, rõ ràng tinh thần bị tổn thương nặng nề. Chốc chốc anh ta lại rùng mình: Trời ơi thần chết đã vỗ vai con, cầu trời cho con sống để về gặp lại vợ! Thọ nghĩ vơ vẩn. Từ lúc đến đầm lầy, anh ta hắt hơi liên tục, rõ ràng bị cảm rồi. Khi anh ta thấy những bông tuyết rơi xuống mặt thì cũng là lúc thấy đầu nặng trĩu. Mấy ngày nay Thọ chìm trong ảo giác. Đó là trên trời lúc nào cũng có đàn chim ưng trọc đầu, lũ quái vật đen sì chuyên ăn xác chết đó lúc nào cũng lượn vòng bám theo và trừng trừng nhìn họ. Nhưng khi Thọ nhìn lên thì chỉ có mây đen vần vũ, ngoài ra chẳng có gì, khi anh ta cúi đầu xuống thì những cái cánh đen sì của chúng lại vùng vẫy trong đầu, hơn nữa anh ta cảm thấy như có ai lấy ống tiêm bơm đầy nước vào đầu mình, đau đến muốn nổ tung. Thọ thận trọng bước đi theo vết chân của Nghĩa, anh ta hắt hơi liên tục, cố nén để khỏi nôn thốc ra.

“Anh Tài ơi, em cứ nghĩ mãi đến cái xác chết hôm qua. Em thấy như anh ta chết vì cái dây thừng thắt cổ”. Nghĩa, chàng trai hăm ba tuổi bỗng nhiên nói với Tài, cắt ngang tiếng hắt hơi của Thọ. Thọ thấy cổ họng như cứng lại, cố nén cơn nôn, nói: “Người xưa bảo, cái gì cũng có bóng đen, vàng cũng thế, bóng của vàng lại càng đen, cái xác ấy đúng là xác người đãi vàng, anh ta nếu không chết vì làm giàu thì cũng chết vì đánh lộn. Vàng thì ai chẳng thích? Nhưng để có được vàng, mạng con người ta chỉ đáng mấy đồng bạc. Đúng vậy không anh Tài?”

Một bông tuyết lạnh bay xuống, Tài bỗng cảm thấy điều chẳng lành sắp giáng xuống đầu, nhưng không biết là cái gì, một tia sáng màu da cam lóe lên trong mắt. Lẽ nào ta cứ phải gặp rủi mà không thể khác sao? Năm ngoái dân đãi vàng trúng to, lúc đó hạn nặng, tất cả đầm lầy đều khô nẻ, người ta lũ lượt kéo nhau đi Kakaxili một cách dễ dàng, ai cũng phát tài, khi về ít nhất cũng được nửa kí vàng cám, có người còn được hai kí vàng khối thiên nhiên, được lên cả ti-vi. Tiên sư nó, Tài tức giận lẩm bẩm. Anh ta nhìn phía trước mây khói mịt mù, đầm nước đầy cỏ loang loáng ánh chớp, xung quanh không một hình bóng của sự sống, một không khí lạnh lẽo thối rữa bao trùm. Mùi bùn tanh và cỏ mục xộc vào mũi, những mạch máu trên cổ cuộn lên từng hồi như giun bò. Câu hỏi của Nghĩa phá tan bầu không khí câm lặng của buổi sáng, Tài ngừng một lát, nhìn đúng một mô đất, bước lên và nói: “Có thể là như vậy. Nhưng hình như ta là người đãi vàng đầu tiên vào đến Kakaxili thì phải. Thường thì tháng năm người mới đông, bây giờ mới tháng tư, chưa đến lúc đông. Tớ cũng thấy cái xác đó giống người đãi vàng, cậu xem, anh ta đi giầy mũi to, mặc áo lông ngắn, tay còn ôm một cái túi da rỗng. Tớ đoán là anh ta đi tìm vàng mà thiệt thân thôi. Ôi chao, thật đáng thương. Khi chết chẳng được nhìn mặt người thân, cầu trời cho anh ta được an vui trên thiên đàng!” Tài ngẩng mặt nhìn trời, thở dài, nhìn những bông tuyết bay bay rồi lấy sức nhảy qua một vũng nước.

Tuấn bốn mươi tuổi, là người nhiều tuổi nhất ở đây, anh ta gầy gò như một cây táo đen, trầm mặc hồi lâu mới nói: “Ông nội và bố tớ đều là dân đãi vàng, các cậu biết cả rồi. Các ông ấy từng đãi vàng ở Antai Tân cương từ đời nhà Thanh, đến thời quốc dân đảng, về già thường bảo với tớ là tim người đãi vàng có màu đen. Ông bảo có một hôm, những người ở một bãi vàng bỗng trở mặt, chẳng ai còn nhận ra ai nữa, đánh lộn một hồi cuối cùng chẳng còn ai sống sót. Tất cả đều do vàng gây ra, chao ôi, thời buổi này khó sống quá, nếu không phải làm nhà tớ thèm vào đi đãi vàng”. Tuấn thở dài thườn thượt.

Tất đều im lìm, không ai nói một câu. Xung quanh chết lặng như tờ, tất cả đều u ám, trời u ám, đất u ám, lòng người u ám. Thỉnh thoảng một con chim hốt hoảng từ bụi cỏ bay vù lên, biến vào không trung. Đầm lầy úng nước mưa lâu ngày cho nên chỗ nào cũng nguy hiểm, lỡ chân một chút là thụt xuống cái bẫy chết người.

“Ta nghỉ ăn cơm”. Tài thấy mọi người lên hết cái gò nhỏ mới dừng lại nói. Tốp người đi cách quãng chừng năm mét bây giờ mới co lại như cái lò xo rồi quây lại thành vòng tròn, ngồi xuống, lục tục giở ba lô lấy bánh nướng và thịt khô ra ăn.

Hải lật nghiêng cái xe cút kít trên mặt cỏ rồi ngồi xuống ăn. Một luồng gió rất lạnh thổi đến như con rắn chết cóng chui vào lòng, anh ta vốc nước lên định uống thì thấy trong nước đầy những con bọ đỏ, ghê quá, đành cố nuốt miếng bánh như nuốt cát. Tuyết vẫn bay trên đồng cỏ mênh mông làm cho đầm lầy thêm giá lạnh.

Hải bỗng cay đắng nhớ lại, năm ngoái vay tiền mua được trăm con dê, nửa năm, từ mùa xuân đến mùa thu, đàn dê lớn lên trông thấy, nào ngờ một đêm tháng chín, bỗng sét đánh ầm ầm, trời đổ mưa sầm sập. Anh ta và vợ đang ngủ, vùng dậy bật đèn thì thấy nước đã ngập bậc cửa tràn vào nhà. Bỗng nhớ đến chuồng dê ở mảnh đất trũng cách nhà chừng năm mươi mét bèn mang đèn pin chạy ra, ngã lên ngã xuống bùn lấm be bét, đến nơi thấy hàng rào đã bị dòng nước trên núi đổ xuống cuốn băng đi. Một trăm con dê, một trăm con! chỉ còn ba con đứng trên mô đất kêu be be. Dòng nước vàng đục cuồn cuộn sủi bọt cuốn theo cây lá như đang chế nhạo anh ta, bởi vì không ngờ ở đây lại có lũ. Ba chục năm trời đã bao giờ có nước ở đây đâu. Anh ta ngã vật xuống.

Hải ốm nằm bẹp suốt cả mùa đông, trạm tín dụng của xã thúc trả nợ, bạn bè cho vay, nếu không còn mấy mẫu khoai thì không sống qua khỏi mùa đông. Nghĩ đến đây Hải ứa nước mắt. Tiên sư nó, trời có mắt như mù! Năm nay anh ta đổi sang trồng lúa mì, chỉ mong sao vụ đông thu hoạch khá một chút, đâu ngờ trận mưa ếch xoá sạch mọi ước mơ. Trời già có mắt như mù! anh ta nổi giận, mắt ngầu đỏ như hòn than.

“Đi thôi, trời mát cố đi thêm vài dặm!” Tài chậm rãi đứng dậy nói. Anh ta vừa cao vừa to, ngay tầm mắt của Hải. Mình đem cả gia sản đến đây, nửa đời sau là trông chờ vào chuyến đãi vàng này. Bán hết cả đi rồi, thế nào cũng phải kiếm được vàng mang về. Hải cầm lấy xe loạng choạng đứng dậy, anh ta đứng trong bùn, ra sức đẩy theo sau mọi người.

“Giãn cự ly ra mười lăm mét!” Tài nói. Họ đi cách xa nhau ra như những anh du kích lẻ loi.

Nghĩa, anh chàng đẹp trai suýt dẫm vào bụi hoa dại, giật mình bèn tránh chân ra. Cậu ta nhớ đến cô vợ chưa cưới thân hình đẫy đà, cặp mắt quyến rũ. Lần này có tiền về nhất định phải cưới. Cậu ta cất giọng hát.

Mây trên trời đen dần,

hạt mưa rơi to dần,

các cô bé lớn lên,

lớn lên rồi khó nói thành lời...

Mọi người cười ầm lên, có người nói to “Hát tiếp đi! Tiếp đi!”

“Ra ruộng ăn cắp dưa, chủ ruộng đến chạy thôi, chạy đến nhà cô bé, chủ ruộng hỏi mày ăn cắp dưa của tao, tôi đùa người của tôi, mấy lần đến nhà ông rồi”..

Giọng hát của Nghĩa đẹp như những sợi lông chim mượt mà bay lên. Hải đi sau cùng nghe Nghĩa hát cũng lâng lâng vui lây. Chiếc xe chỉ chở đồ đạc chừng năm mươi kí, nhưng đẩy thật vất vả vì đường đi ngập bùn lầy, phải đạp lên cỏ mà đẩy đi. Mày đúng là con lừa bướng bỉnh, anh ta bảo cái xe. Vợ của mình mới tuyệt vời làm sao, nghĩ đến đây khuôn mặt của cô ấy lại hiện lên xinh tươi mơn mởn, trong lòng rạo rực. Cô ấy  như con ngựa hay, anh ta nghĩ, mình cưỡi cả đêm cô ấy không mệt mà mình lại sướng lăn quay. Em yêu của lòng anh, chuyến này anh nhất định phải mang vàng về đặt trong lòng bàn tay em, con ngựa trắng của anh, ôi sao thế này, Hải thấy mình đổ nghiêng sang bên, một chân hụt hẫng, rồi ùm một cái rơi vào một đống gì mềm nhũn, trong nháy mắt, bùn đã ngập đến ngực. Hải hất vội cái xe lên trước chưa kịp kêu thì bùn đã ngập đến cổ. “Cứu!  anh Tài ơi, Tuấn ơi...cứu”.. Nghe tiếng kêu của Hải, mọi người quay lại nhìn thì thấy phía sau cái xe nằm chỏng gọng, bùn đang ùng ục sủi bọt, còn Hải vừa sống sờ sờ ra đó thì chẳng thấy bóng dáng đâu nữa.

“Hải!” Cả mấy người đều gào lên như điên dại, nhưng chẳng làm gì được. Hải đã bị đầm lầy nuốt chửng mãi mãi như thế đó, ở nơi còn cách rất xa mơ ước của mình. Giờ đây anh ta như cái cây đứng chìm sâu trong lòng đất, trở thành vị thổ thần rồi. Thọ và Nghĩa khóc nức nở.

Trời nổi gió đùng đùng. Gió rít như xé không khí, u u như tiếng sáo, mây đen kịt như mực kéo đến đầy trời.

Da mặt Tài sạm đi, anh ta đưa tay chùi nước mắt, bước tới, lấy đồ trên xe đưa cho Tuấn, rồi gầm lên như con hổ, hai tay nâng bổng chiếc xe quật xuống, chiếc xe tan ra từng mảnh. Anh ta lấy những thanh gỗ của cái xe vỡ nát cắm quanh vũng bùn. Những thanh gỗ dựng thành hàng rào vây lấy mảnh đất Hải đã bỏ mình. Tuyết vẫn bay, như những tờ tiền giấy tiễn đưa người đã khuất. Mấy người bạn đứng lặng đi rất lâu, tuyết đọng đầy dần trên vai.

“Ta đi thôi, để cậu ấy yên nghỉ tại đây. Ta chẳng biết làm thế nào nữa”. Tuấn lau nước mắt khuyên mọi người.

Họ lại lên đường, vẫn đi giãn đội hình, vẫn là những bóng dáng kiên nhẫn và cô đơn. Họ vẫn cảm thấy hương vị cỏ thơm của mảnh đất Kakaxili tràn ngập ánh vàng lóng lánh. Nhưng sự im lặng bao trùm lên tất cả, sự im lặng làm tâm trạng họ trở nên nặng nề. Họ không thể biết rằng cái gì đang chờ đón, là những cái chết liên tiếp hay là vận may lấp lánh ánh vàng.

Một tiếng chim kêu thảng thốt chói tai, tiếng chân bì bõm xéo trên cỏ ướt nghe tối tăm và buồn thảm làm sao.

❖ VI ❖

ĐẦm lẦy rỘng hút tẦm mẮt, năm này qua năm khác lặng lẽ lan rộng ra tứ phía. Bốn cái chấm đen lầm lũi di động trên nền xám xịt của mảnh đất mênh mông không một bóng người trông sao mà hoang vu và nhỏ bé. Không khí ẩm ướt, giá lạnh và đặc quánh, gây cho họ cảm giác nghẹt thở. Đầm lầy không ngừng bốc hơi mờ mịt, mây đen vẫn trôi, không còn tiếng sấm, bước chân họ bước qua những giọt bùn lấm tấm bắn lên lá cỏ và những bông hoa tử huệ tím nhạt. Đường đi có vẻ khô dần, báo cho họ biết sắp ra khỏi đầm lầy.

Lớp mây đen mỏng dần, mặt trời như một trái cây màu trắng lấp loáng trên không. Tài ngẩng lên lẩm bẩm điều gì không ai biết, họ chỉ thấy một ngọn núi  cách đó không xa.

Sẫm tối họ đến chân núi. Trời bỗng quang mây, ráng chiều đỏ như máu loang lên bầu trời và mảnh đất phía tây. Đất trời một màu đỏ máu, phải chăng đang báo hiệu và tạo màu nền cho tấn bi kịch.

“Cái thời tiết chó chết, ta sắp ra khỏi đầm lầy rồi cái đồ chó chết mới chịu hửng lên”. Tài hắt hơi thật to vừa chửi vừa nhìn quanh tìm củi nấu ăn.

Họ dựng lều vào một chỗ trũng ở chân núi để cho khuất gió. “Hôm nay có thể đánh một giấc ngon lành đây”. Tuấn ngồi bệt xuống đất ẩm cởi đôi giày nặng trịch và nói. Nghĩa nhóm lò ngoài lều nồi khoai tây luộc đang sôi lục cục, hương vị mộc mạc của khoai tây tỏa ra, sắc trời sẫm dần. Thọ cho thêm củi vào lò, say sưa nhìn ngọn lửa, lát sau cậu ta bảo: “Nghĩa ơi, vợ chưa cưới của cậu đẹp lắm, lại là người có văn hóa trong làng mình. Đàn bà con gái chỉ nhắm một cái cu thôi, cậu trúng số độc đắc đấy”.

Nghĩa là một chàng trai bẽn lẽn, nghe Thọ nói vậy thì cười xấu hổ, khuôn mặt cô vợ chưa bước qua ngưỡng cửa lại hiện lên. Cô ấy là người giỏi giang, đã học năm năm trung học trường huyện, sau đó nhất quyết thi vào đại học, thi trượt mới chịu về quê. Một hôm cô ấy ra sau núi cắt cỏ cho dê. Nghĩa cũng chăn dê ở đó bỗng nghe tiếng con gái hát véo von:

“Mặt trời í a, leo mà leo lên núi í a nhìn xuống mà nhìn xuống í a thung sâu”...

Hát đến đó, cô bé quay lại vừa lúc nhìn thấy Nghĩa, tiếng hát im bặt rồi lại cất lên “có một anh chàng í a đứng bên kia mà bên kia!”

Nghĩa thấy rạo rực trong tim, tâm hồn bay bổng, hương thơm ngào ngạt ứa nước mắt, trong lòng bừng bừng như lửa cháy, chàng cất tiếng hát:

Đường về Lan châu, qua cửa Gia cốc sang Túc châu

Đường đi vòng vèo chẳng đến được nơi em…

Cô gái lại cất cao giọng:

Con kiến thành con ve sầu, giơ tay lên bắt, em gái chẳng bắt được câu hát, sao anh không hát.

Nghĩa biết cô gái bảo anh hát không hay, trong lòng mừng thầm, lại có hứng hát lên:

Em gái như dòng suối, hát chẳng hay anh uống luôn nước suối!

Em gái như trái đào tiên, hái tặng anh đi, nắng đã lên đầu cành rồi!

Đang hát thì đàn dê của cô phá đàn, có thể gặp phải rắn, chúng ào ào lao xuống núi như điên, Nghĩa đứng ngây người, nhìn đàn dê và cô gái đi xuống. Cô gái thấy Nghĩa chặn ngang đường, lại hát: “Anh tránh sang bên đường, chuyện đâu rồi có đó!” vừa hát, cô gái vừa ào qua như cơn gió, theo đàn dê xuống núi, khi qua bên Nghĩa đôi mắt đẹp liếc xéo qua làm anh chàng choáng váng, thẫn thờ nhìn theo...

Về sau cô cậu hay hát đối đáp nhau trên sườn dốc. Cỏ cây cũng ngóc đầu lên nghe. Sau này Nghĩa biết cô bé tên Yến, là cô bé duy nhất trong làng học hết trung học. Nhờ người đến hỏi, bố mẹ cô gái đòi lễ chạm ngõ một ngàn năm trăm tệ. Nghĩa dốc hết vốn liếng trong nhà đưa trước chạm ngõ, nhưng muốn cưới thì ba ngàn nữa, bí quá, chỉ còn cách theo mọi người đi đãi vàng.

Ngọn lửa bập bùng bỗng cắt ngang dòng suy nghĩ của Nghĩa, cơm cũng đã chín, họ chui vào lều đánh một bữa no căng. Ăn xong, Tuấn lấy ít tro nóng bảo mọi người lấy vải gói lại ủ vào bụng: “Cái này chữa vị hàn, khi đóng quân ở Tân cương chúng tớ hay làm vậy, đêm nay nằm trên đất ẩm không cẩn thận lạnh bụng hỏng dạ dày đó”.

Mọi người làm theo, cảm thấy toàn thân nóng ran rất dễ chịu.

Đêm xuống dần, Nghĩa thò cổ ra khỏi lều nhìn trời sao rực rỡ. Sao lấp lánh như những hạt ngọc gắn vào màn trời xanh ngắt, đây là lần đầu tiên trong đời Nghĩa thấy trời đẹp đến thế. Tiếng hót chim đêm  thoảng trong gió nghe cô đơn lạnh lẽo, mùi sen cạn phảng phất đâu đây. Tài, Tuấn, Thọ mỗi người cuốn một điếu thuốc, Tài nói: “Nghĩa này, cậu cũng làm một điếu đi”. Nghĩa lắc đầu, nhìn trời, vẩn vơ với ý nghĩ: Không biết lần này mang được vàng về liệu có cưới được Yến không.

Mấy đốm lửa thuốc lá lập lòe trong lều. “Tớ từng là lính đóng quân ở Tân Cương, làm lính lái xe”, Tuấn nói “Tân Cương kinh khủng lắm, mùa đông rét đến độ đái ra là thành băng, mùa hè thì nóng kẽ đít lúc nào cũng ròng ròng mồ hôi, cực vô cùng....Tớ đem vợ từ Tân Cương về, thôi không kể chuyện vợ, tớ kể chuyện ông tớ đãi vàng cho mà nghe”. Đốm lửa thuốc lá sáng lập lòe, ngừng một lát Tuấn nói: “Năm ấy ông tớ mang bố tớ đi Antai Tân Cương đãi vàng. Họ vừa đào vàng cục vừa đãi vàng cám, có lúc còn đào được cả vàng đầu chó”.

“Vàng đầu chó là gì?”

“Vàng đầu chó là vàng thiên nhiên nguyên khối, vớ được là phát tài to. Đãi vàng cám cực lắm, cả ngày ngâm trong nước đến tận bẹn, nước núi băng lạnh buốt, ông tớ và bố tớ đãi một năm, cái ấy đếch cứng được nữa”.

“Nước buốt quá chim đông béng nó lại”. Thọ cười ha hả. “Tuấn ơi, may mà cậu đã chui ra rồi chứ không thì nhà cậu mất giống”.

“Đúng thế thật. Người đãi vàng thật cơ cực, lỡ một tí là chết toi. Cậu Hải chết thảm quá, lần này về mỗi đứa mình phải góp lại cho vợ cậu ấy một ít, được không?”

“Tất nhiên rồi. Gia cảnh cậu ấy tội nghiệp lắm mà lại còn nợ mấy ngàn”.

“Hồi ông và bố tớ đào vàng thường xảy ra chuyện giết nhau vì vàng. Cái bóng của vàng có màu đen, để có vàng người ta có thể làm bất cứ chuyện gì”.

Tâm tư Tài nặng trĩu. Hơi lạnh dưới lưng thấm vào người, Tài nói “Thôi, ngủ đi”.

Tất cả chìm vào yên lặng, lát sau đã nghe tiếng ngáy khò khò.

❖ VII ❖

BỖng nhiên Tài thẤy lỀu bỊ giẬt mẠnh. Anh ta bật dậy vớ lấy cái mai, tối mò mò. Mấy tiếng rú dài trầm trầm đằng xa, tiếng rú lạnh lẽo và hung hãn. Tài nhận ra tiếng tru của sói. Tuấn bay lên như chiếc lá, kêu to: “Sói, sói, có chó sói!” Mọi người tỉnh hẳn, cuống quít trong đêm tối.

“Đừng sợ!” Tài dằn giọng quát, “Lấy cuốc xẻng ra, chúng nó đông đấy”. Tài xem đồng hồ, một giờ đêm, sáu tiếng nữa trời mới sáng. Xem ra quãng thời gian đó là gay go đây. Theo kinh nghiệm, Tài biết rằng chúng thực sự là sói hoang cao nguyên, cao to, khỏe mạnh, hung dữ, chạy giỏi và đi thành đàn rất khó đối phó. “Anh Tài, em váng đầu quá, làm thế nào bây giờ?” Thọ cuống lên. “Đừng sợ, xem chúng có động tĩnh gì”.

Mọi người nín thở cầm lấy dụng cụ chăm chú lắng nghe.

Một trận gió thổi đến hơi tuyết lạnh buốt. Lúc này hình như âm thanh đã tạm lắng xuống. Không lâu sau đó tiếng sột soạt gần lại rồi mất. Tài lắng nghe bỗng có tiếng xoẹt, cái lều bị giật một cái, cái lều vốn chẳng lấy gì làm chắc chắn bị gió giật tung lên, rõ ràng bị kéo từ bên ngoài, tấm vải lều bay vèo qua đầu mọi người như mảnh giấy, tất cả vùng đứng dậy, dưới ánh trăng nhìn rõ mấy chục cái bóng đen, đó là những con sói cao nguyên hung dữ.

“Quây lại thành vòng tròn, mỗi người trông một phía!” Tài hạ giọng hô. Bốn người quay lưng vào nhau, mai xẻng cuốc chim trong tay lăm lăm. “Đừng cuống!” Tài lại thấp giọng nói, Nghĩa, Thọ sợ quá, đôi chân run bần bật, Thọ đái cả ra quần. Tuấn phát ra tiếng gì lạ, anh ta trấn tĩnh múa cái mai: “Đồ khốn, đến đông thế, chắc là đói vàng mắt rồi đây. Nào, xông vào đi, giết một là hòa vốn, giết hai lãi một, lũ khốn”.

Dưới ánh trăng lạnh lẽo, bốn người và bầy sói đang căng thẳng đối địch với nhau. Mấy con sói vừa lẻn vào giật tung lều bây giờ nhảy lui lại. Cả bầy sói, con nào mắt cũng xanh lè dữ tợn. Chúng túm năm tụm ba thành mười mấy tốp vây chặt bốn người trong khoảng chu vi năm mươi mét. Ở ngoài xa có một con sói cao to lạ thường, nó ngồi trên tảng đá, uy phong lẫm liệt, lặng lẽ quan sát tình hình, xung quanh nó mười mấy con đứng ngồi hoặc xếp thành hàng! Tài lạnh sống lưng, nghĩ con này là vua của cả bọn đây. Đánh rắn phải đánh trúng đầu. Đúng lúc đó nó ngửa mặt lên nhìn trăng tru lên mấy tiếng dài, lũ sói nhộn nhạo. Mấy con gần nhất lấy chân trước cào tung đất và cũng tru lên. Đột nhiên một con nhảy vọt lên, điệu đà dừng một chút trên không rồi rơi xuống, bước nhảy xa đến năm mét.

Lúc con sói nhảy lên nhằm vào cổ họng Tuấn để đớp, Tuấn nhanh tay vung chiếc mai lạnh lùng bổ vào con thú đang giơ nanh múa vuốt trên không, một tiếng xé không khí, nhưng trượt, con sói rất khỏe vẫn nhẹ nhàng đáp xuống, ngoạm vào bắp chân Tuấn. Anh ta cảm thấy như dao đâm vào chân, nghe rõ cả tiếng thịt rách, đau buốt tận óc và kêu thất thanh, ngã lăn ra. Đúng lúc đó cuốc chim của Tài bổ xuống, con sói vỡ toang đầu chết thẳng cẳng.

Tuấn quỳ một chân, rên rỉ. Lũ sói trông thấy một con chết bèn lùi lại một quãng. Hai bên lại tiếp tục cầm cự.

“Chú Tuấn có sao không?” Nghĩa quì xuống xem, vết thương của Tuấn máu thịt be bét, tanh tưởi.

“Lấy băng ra mau lên, lấy thuốc bột Vân Nam!” Tài thét lên. Nghĩa vội giở ba lô.

Dưới ánh trăng mờ ảo, con sói đầu đàn lại ngửa mặt lên trời tru lên đến hai phút, tiếng kêu trầm trầm như tiếng chuông lan xa trên đồng cỏ mênh mông giữa đêm đen. Thọ căng thẳng sợ đến thót tim, đái ướt cả quần, “Anh...Tài ơi, chúng nó lại xông đến kìa”...

Hơn ba chục bóng đen vây lại, những đôi mắt xanh lè lấp lánh. Tài sực nhớ chó sói rất sợ lửa, đang định châm lửa thì lũ sói lại xông vào.

Những con gần nhất nhảy bổ vào bốn người ở bốn phía. Mười mấy con nhe nanh từ trên lao xuống, tình hình vô cùng nguy khốn. Trong đêm chỉ nghe những tiếng cuốc thuổng va đập vào thân mình những con sói, tiếng người hò hét, tiếng sói kêu thảm thiết, thỉnh thoảng bóng một con sói rơi bịch xuống, giãy giụa rên rỉ. Trong cuộc hỗn chiến bầy sói xô đẩy bốn người thành hai cặp, mỗi cặp tả xung hữu đột giữa bầy sói như hòn đảo trơ trọi.

Nghĩa và Thọ ở cạnh nhau, Thọ thở hổn hển, trong đầu kêu u u như có đàn ong, bụng dưới nặng như chì, muốn đái mà không đái được, cậu ta vung lưỡi mai vù vù, có lúc trúng con sói đang xông vào. Cậu ta vừa hắt hơi vừa ra sức chém giết. Một tiếng sói hú dài, Nghĩa cảm thấy bụng đau quặn từng hồi, toàn thân run bắn như bị điện giật, lớn từng ấy rồi nhưng cậu ta chưa gặp cảnh này bao giờ. Cái cuốc trong tay cậu ta vung lên vụng về, quyết đấu với lũ sói đang liều chết xông vào. Đúng là trận quyết đấu giữa người và thú, trận quyết đấu sinh tử! Bầy sói không ngừng rú lên man rợ, thê thảm và đau đớn vì trúng đòn. Trên bầu trời mảnh trăng non u buồn, lạnh lẽo hắt chút ánh sáng xuống cõi nhân gian và dửng dưng nhìn trận chiến đấu đẫm máu vì sự sống còn giữa người và thú. Xa xa bóng núi nhấp nhô như một dải băng kéo dài. Gió bỗng mạnh lên.

Tài và Tuấn vừa đánh vừa lui về chỗ  trũng. Họ cảm thấy lực bất tòng tâm. Lũ sói cao nguyên này coi bộ đói lắm, đói phát điên rồi, chúng không ngừng lao vào họ trong tiếng tru của con đầu đàn. Tài bỗng lạng người đi, một con sói chồm tới đớp vào vai. Tuấn đang bị thương quay người vung lưỡi mai chém một nhát, con sói ngã vật xuống. Đúng lúc đó một con khác vọt qua đầu Tài, ngoạm chặt vào cổ họng Tuấn!

Chỉ nghe một tiếng như bóng bay xì hơi, Tuấn đau đớn gào lên, Tài quay mình đập một nhát vào lưng con sói rồi xỉa tiếp một nhát, con sói chết, Tuấn đổ xuống như một khúc gỗ.

“Anh Tuấn!” Tài thét lên một tiếng như điên dại, nhưng chỉ nghe họng Tuấn phát ra những tiếng kỳ lạ, cổ họng sùi bọt máu, toàn thân co giật, giãy giụa một lát rồi ngừng thở, dưới ánh trăng hai mắt mở trừng trừng, đánh dấu sự gắng sức cuối cùng để giành giật sự sống.

Tài gào lên: “Lũ sói chó chết, chúng mày lại đây! Xông cả vào đi!”

Giọng Tài vang xa trên đồng cỏ, đánh động cả thế giới xung quanh. Bầy sói bị một chấn động nào đó rên rỉ tru lên rồi lui lại.

Tài thở hồng hộc, giơ chiếc mai, tóc rối bời đứng uy nghi như bức tượng thần núi. Bầy sói theo nhau rút đi.

Nghĩa cầm thanh củi cháy cùng Thọ chạy đến bên Tài, thấy Tuấn nằm chết, gào lên: “Chú Tuấn!” rồi khóc nức nở.

Lại một người bạn nữa chết thảm thương. Anh không còn kể những chuyện sinh động về đãi vàng, anh cũng không còn hát những câu hát vui nhộn nữa. Anh chết rồi. Các bạn theo nhau chết bất đắc kỳ tử làm mọi người dao động, hoang mang. Họ bất chợt hiểu ra trong tầng sâu cuộc sống một cái gì đó khuấy động tâm tư của họ. Ai cũng thấy giữa cái chết và sự sống là một khoảng cách thật nhỏ nhoi.

Thọ không còn thấy tức bụng nữa, nước tiểu trút ra xối xả, cậu ta thở dài rồi khóc rưng rức.

Tài tiếp củi vào đống lửa, củi nổ tí tách, hoa lửa bay ngùn ngụt lên trời, vẽ thêm một hình ảnh bi tráng trong màn đêm giữa cánh đồng cô quạnh.

Thế là người thứ hai ngã xuống trên đường hành hương tìm vàng, mà phía trước đường còn xa thăm thẳm. Họ đang đứng trước một thử thách sống còn. Trong ánh lửa rực hồng lấp loáng, tâm trạng của họ đầy buồn thương và nặng nề, không biết đến bao giờ con chim cú báo điềm dữ mới thôi bay lượn trên đầu họ.

Bầy sói thấy đống lửa không dám bén mảng đến nữa, chúng lởn vởn từ xa, vây họ, tru lên giận dữ và tuyệt vọng. Đến khi chân trời nhờ nhờ trắng bụng cá chúng mới kéo nhau đi theo con đầu đàn gian manh và hung hãn.

Trời sáng, xung quanh họ có hơn chục xác chó sói. Họ dùng tấm thảm len quấn xác Tuấn và chôn, xác những con chó sói chôn xung quanh thành một vòng tròn. “Để chúng nó làm lính gác cho anh”. Tài nghĩ.

Họ đứng mặc niệm trước mộ một lát. Xế trưa, tiếp tục lên đường.

Trước mặt họ vẫn là đồng cỏ bao la hút tầm mắt.

❖ VIII ❖

MỘt con thỎ hoang len lén thò đẦu ra khỏi hang, đôi mắt lanh lợi nhìn xung quanh rồi nhẹ nhàng chui ra. Nó đang cào cái gì trong đám cỏ, lát sau nó lôi ra một cái rễ rồi nhai rau ráu. Ngẩng lên nhìn không thấy bóng diều hâu, nó bắt đầu đào. Đột nhiên có tiếng động, nó nhỏm đầu lên, đôi mắt tròn nhìn quanh, hình như nó thấy cái gì bèn rụt cổ lại chui tọt vào hang đất mất dạng.

Chân trời hiện dần lên mấy bóng người kèm theo tiếng chân bước. Một người gục trên vai người kia, người thứ ba cõng hai cái ba lô to. Mấy con chim ưng bay lượn và kêu quàng quạc, chúng theo họ suốt chặng đường. Họ bước đi chuệnh choạng mỏi mệt. Đến trước cái hang thỏ, họ dừng lại.

Tài buông Thọ xuống, cậu ấy vẫn rên hừ hừ. Sau trận đánh nhau với sói hai ngày trước đây, cậu ta bị cảm, sáng nay lại sốt cao, người nóng như hòn than. Tài cõng anh ta suốt dọc đường. Họ sắp xếp lại đồ lề, vứt bỏ những thứ tạm thời chưa cần đến, lại đi tiếp hai ngày nữa trên đồng hoang.

Trong hai ngày họ đã gặp đám người Tây Tạng chăn ngựa, hai bên chẳng biết tiếng nhau, sau khi đứng nhìn và hiểu nhau, họ xin được một ít thức ăn, bây giờ số thức ăn đó chẳng còn bao nhiêu.

Thọ mắt lờ đờ, hơi thở nóng hầm hập, mặt đỏ gay trông thật đáng sợ. Tài đặt Thọ xuống để dựa vào ba lô. Nghĩa cũng ngồi xuống nghỉ. “Chú Tài, bao giờ thì đến Kakaxili?” Nghĩa lo lắng hỏi. Tài cởi giày, nhìn dãy núi xa xa: “Mình đoán leo qua triền núi kia là đến. Sắp rồi, độ hai ngày nữa thôi”. Tài đập mạnh chiếc giày cho hết bùn đất rồi dốc sỏi cát ra. Anh ta nhìn Nghĩa thấy cậu ta tiều tụy quá rồi. Nghĩa ngẩng mặt nhìn trời không nói.

Thọ đang nằm trên đất nói qua hơi thở hổn hển: “Nước... tôi khát nước quá... muốn ăn thịt”... có thể sốt cao quá và gây ra ảo giác, Tài nghĩ, anh ta lấy bi đông quân sự ghé vòi vào môi Thọ, bảo uống đi một chút. Tài đứng dậy, toàn thân cơ bắp ê ẩm đau nhừ, nheo mắt nhìn ra xung quanh, đột nhiên thấy cái hang thỏ cách đó chừng hai mét, sướng quá, bảo Nghĩa bít một cửa chặn một cửa khác rồi bắt đầu đào. Không bao lâu, một con thỏ nâu xám béo tròn lao ra, Tài nhanh tay đập một nhát mai chết ngay. Lúc đó Nghĩa đang chặn một cửa khác cũng kêu lên: “Ra rồi, ra rồi!” Một con thỏ to béo vọt ra chạy bạt mạng trong lớp cỏ, Tài và Nghĩa vây đánh, một lát sau con thỏ bị đập chết. Lúc đó cửa hang lại thập thò bốn con thỏ con, thế là cả nhà thỏ bị tóm.

Ngọn lửa lem lém liếm trên sáu con thỏ đã lột da móc ruột, thịt thỏ nướng kêu xèo xèo bốc mùi thơm ngào ngạt, họ vừa bỏ thêm củi vừa nuốt nước bọt ừng ực. Đã hơn hai chục ngày họ chưa biết đến mùi vị thịt.

Trong con mắt của Nghĩa, những con thỏ lột da xiên vào que để nướng trông giống xác người, hình ảnh xác người và xác thỏ cứ đổi qua đổi lại chập chờn chồng lên nhau. Thịt thỏ nướng vàng, mỡ rỏ xuống làm ngọn lửa chốc chốc lại bùng lên, cậu ta đau đớn nhắm mắt lại. Con người mới bé nhỏ làm sao, chỉ như con kiến trơ trọi không biết dựa vào đâu trên cái đồng cỏ mênh mông bát ngát này. Để tồn tại thật khó khăn quá, Nghĩa còn trẻ quá, cậu ta đau đớn chảy nước mắt.

Tài nghĩ, các tốp người khác của làng Nhật Nguyệt chắc cũng đã lần lượt xuất phát rồi, đang trên đường rồi chăng? Nếu họ cũng thế này thì tội quá! Con người ta sống không dễ dàng chút nào, sống cho no đủ càng khó. Hồi nào mình cũng lên Đông bắc, đi Tân Cương, xuống Quảng Châu đều là để kiếm tiền, lặn lội bốn năm năm mới kiếm được vài ngàn. Một lần vợ ốm nặng, bao nhiêu tiền trôi sạch như nước. Mấy gian nhà dột, mỗi lần mưa, nước vào như tháo cống, muốn sửa mà chẳng kiếm đâu ra tiền. Mùi thịt nướng cắt ngang dòng suy nghĩ, Tài lấy một xâu thịt vàng bóng những mỡ đưa cho Nghĩa rồi cầm một xâu cắn một miếng nếm thử mới đưa vào miệng Thọ đang mê man bất tỉnh. Thọ mấp máy môi rồi nói: “nước...nước”...

“Ăn tí thịt đã, nước còn ít lắm. Thọ ơi, cứ yên tâm, chúng tớ có thì cậu cũng có.” Thọ cố há miệng, vất vả cắn một miếng rồi nhai chầm chậm. Bỗng dưng ứa nước mắt.

“Đàn ông sao lại khóc?” Tài nói.

“Anh Tài ơi, em chắc không qua được đâu, bỏ em lại đi, em làm phiền mọi người quá”...

“Nói bậy!” Tài trừng mắt. “Cậu còn sống thì mình còn cõng đi, đi thôi, sắp đến Kakaxili rồi”.

Nghĩa hai mắt hơi sưng nói: “Chú Tài ơi, còn ba con thỏ, để bữa sau nhé, còn đến mấy ngày nữa, biết có còn gặp may như thế này nữa không”. Tài gật đầu.

Mây đen vẫn vần vũ trên đầu, xóa đi chút nắng còn lại. Tài bỗng nhớ lại, kể từ khi xuất phát, đã gần hai chục ngày, chưa một ngày nắng ráo, trời lúc nào cũng u ám như vận rủi liên tiếp rơi vào họ. Xung quanh vẫn mù mịt, không khí buốt giá và ẩm ướt, kèm theo mùi bùn tanh lợm. Cỏ vàng dưới chân ngả nghiêng, gió mỗi lúc một mạnh thêm, rít lên vi vút bên tai. Những con chim ưng trọc đầu theo họ bao nhiêu ngày, chắc là cảm thấy sự gan góc của những sinh vật dưới kia  đành chịu thua và tản đi hết. Cách nơi nghỉ của họ không xa có một đống xương dê, giữa đồng không mông quạnh cảnh này trông thật hãi hùng. Vậy mà phía trước còn bao xa thì chính Tài cũng chẳng biết.

Sau một giờ nghỉ ngơi, họ lại lên đường. Tài cõng Thọ đi trước, Nghĩa đeo chiếc ba lô to tướng theo sát phía sau. Thọ bắt đầu run toàn thân, người nóng bỏng như đá nung, rên hừ hừ trên lưng Tài.

“Anh Tài ơi, chắc em không qua được đâu. Em thấy em... sắp chết rồi”. Thọ thấy lồng ngực giật lên như bị ai cào xé, tim đập loạn xạ, mồ hôi trên trán vã ra đầm đìa.

“Anh Tài ơi, người em mang tội nhất trên đời này là vợ em. Năm ấy... em lấy cô ấy mất mấy ngàn, coi như bố mẹ cô ấy phang em một búa. Em lấy cô ấy về tự nhủ trong lòng, mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng, mấy ngàn mua được con vợ phải hành cho đến nơi đến chốn, không thì thiệt. Ngày đánh đập cô ấy, đêm hành hạ cô ấy. Mấy năm đầu mới  cưới, cô ấy suốt ngày mang thương tích, vậy mà cô ấy không kêu ca, cũng không cãi một câu, cả ngày lo cơm nước cho chồng, lo việc đồng áng, còn đẻ cho em hai đứa con trai. Em cảm thấy ân hận quá, định chuyến này kiếm ít tiền mua cho vợ cái máy khâu, đỡ vất vả. Trời ơi, vợ em nó tốt quá, em có tội với cô ấy nhiều lắm. Chẳng may em có làm sao, có dịp nào rỗi rãi thế nào anh cũng phải năng đến nhà em thăm vợ em, hai thằng con em... anh nhé...” Thọ khóc nấc lên như đứa trẻ. “Thọ ơi, cậu không chết được đâu, cậu cao số lắm đấy. Cố lên, nghe rõ chưa? cố hết hôm nay là khỏi thôi”. Tài nói mà nước mắt đầm đìa.

“Em chưa nói hết, em, cũng làm nhiều điều thất đức lắm. Cô Hoa vợ của Vương em cũng vụng trộm mấy lần. Anh Vương suốt ngày đi buôn cây thuốc, bỏ vợ ở nhà không trông nom, năm ngoái cô ấy nhờ em đi cắt lúa giúp mấy hôm, thế là nảy sinh tình ý. Một đêm em đến cưỡng bức cô ta. Sau đó em thấy có lỗi với anh Vương, có lỗi với vợ em, cô Hoa cũng không tố giác, chuyện rồi cũng qua đi. Trời ơi, em thật là...” Thọ lại khóc hu hu.

“Thôi, được rồi, Thọ ơi, ai chẳng làm đôi ba chuyện xấu trong đời? Cậu cũng đừng cầu toàn mà tự trách mình quá”. Nghĩa cũng nói xen vào: “Anh uống nước nhé? em lấy nước anh uống”. Cậu ta đưa bi đông vào miệng Thọ, Thọ uống mấy ngụm rồi lại nói: “Chưa hết đâu, con chó vàng nhà anh Tuấn em cũng đánh bẫy ăn thịt. Em ăn cắp dê của Hải, em...” Thọ không nói hết câu.

Mấy con chim đen trong bụi cỏ trước mặt bỗng vỗ cánh bay lên. Nghĩa chợt nghe tiếng động lạ. Tài vừa định nhấc chân thì thấy một con rắn to bằng bắp tay bơi đi ngay bên dưới, anh hoảng hốt lùi lại, lúc đó mới thấy vô số rắn đủ loại sặc sỡ, tụ tập thành một dòng suối rắn, từ từ bơi đi. Bầy rắn như những đợt sóng, lớp lớp tràn đi, chúng bơi đến đâu cỏ đổ rạp đến đó và một mùi hôi tanh tưởi bốc lên. Những cặp mắt rắn ánh lên cái nhìn coi khinh mọi thứ. Làn sóng rắn trôi đi đến mười lăm phút mới hết.

Liên tiếp gặp những chuyện quái gở làm cho Tài kinh ngạc mãi. Nhiều ngày nay, kể từ trận mưa ếch, anh ta cảm thấy luôn bị một sức mạnh vô hình bủa vây, cái chết của Hải và Tuấn càng chứng minh sự tồn tại của sức mạnh thần bí đó. Tài do dự một lát rồi móc túi lấy ra năm que diêm trong gói giấy dầu, anh ta xếp xuống đất thành một hình lạ, cầm một hòn đá giơ cao lên. Hòn đá rơi xuống, cả năm que diêm đều gãy! Tài buồn bã, rơi nước mắt.

Nghĩa hỏi: “Chú Tài, thế là thế nào?” Tài không trả lời, xốc Thọ lên vai và đi. Trời tối sầm, rồi mưa đổ xuống như trút nước, trên nền trời thỉnh thoảng luồng sét hình rễ cây màu đỏ xé tan không trung, cơn mưa dữ dội đổ xuống đầu xuống lưng ba người. Đôi lúc tiếng sấm vang lên chát chúa, tiếng sấm từ tầng tầng lớp lớp mây đen nổ tung và dội xuống, mùi  thuốc súng tràn ngập không khí. Họ rảo chân bước, tìm được một chỗ trũng, họ căng lều lên.

Thọ sốt cao, lại ngấm nước mưa, bệnh càng nặng, sùi bọt mép, không bao lâu anh ta bắt đầu nói mê: “Tôi... cưỡi con dê leo lên một cái cây, thấy cô tiên kiến, cô tiên kiến đẹp lắm, tôi mới đè xuống... Ông trời ơi, tôi không ăn cắp dê của Hải, không hái trộm thuốc lá của Kiệt, tôi... đang bay lên trời, nhiều chuồn chuồn cùng bay với tôi... tôi phải lên mặt trăng... tôi sắp thấy mặt trời rồi, mặt trời như đồng tiền vàng sáng chói, tôi đang bơi trong dòng sông mật ong, bơi mệt thì tôi uống mật. Đói thì tôi hái bánh mì trên cây ăn, vợ tôi cưỡi xe mô tô đến đón tôi, trên đầu cô ấy đầy những con bướm bằng vàng! vàng! đầy núi đầy đồng toàn là vàng! Các bạn thấy chưa, đâu đâu cũng là vàng, trứng vàng, cục vàng, đỗ vàng, nhặt đi mau lên, vàng nhiều quá! Lấy túi ra mau lên...” Thọ thở hồng hộc, hai mắt nhắm chặt, hoa chân múa tay. Tài và Nghĩa ngồi bên đành bó tay. Trời tối dần, đêm đó trong tiếng mưa ào ào xối xả, Thọ trút hơi thở cuối cùng.

Thọ mang theo giấc mộng vàng, bay vào không trung như một làn khói.

Sáng sớm hôm sau, ánh nắng rực rỡ, trời trong vắt không một gợn mây. Tài và Nghĩa lần thứ ba làm lễ an táng và mặc niệm kể từ ngày đặt chân trên con đường “hành hương”. Lại một người bạn ngã xuống, trái tim họ bị vò xé thành đám bùn nhão đặc sệt. Một nấm đất vàng đánh dấu sự kết thúc một cuộc đời khốn khổ, một dấu chấm hết của một đời người.

Họ ăn một bữa cháo bột rang, nghỉ nửa ngày rồi lại lên đường. Đi hành hương! Đến Kakaxili đầy vàng! Trên đồng hoang mênh mông, hai bóng người, một cao một thấp, mệt mỏi và cũng vô cùng rắn rỏi bước đi. Gió mỗi lúc một mạnh lên, bóng họ khuất dần rồi mất hẳn  trong màn sương mờ ảo bồng bềnh.

❖ IX ❖

TrỜi vỪa tang tẢng sáng hai ngưỜi đã tỉnh giấc, họ ngồi dậy ngáp dài nhìn xung quanh, vẫn là một thế giới hồng hoang. Ánh nắng ban mai rất đẹp nhuộm cả thế gian một màu vàng cam. Bóng dáng bé nhỏ và chênh vênh của họ hiện lên đồng cỏ hoang vắng, như những con thằn lằn thở dốc, mệt mỏi và cô đơn bơi trong biển cát sa mạc dưới trời nắng cháy.

Nghĩa hỏi: “Chú Tài ơi, tại sao mãi không đến nơi?”

Tài nói: “Sắp rồi, qua mấy cái đồi này là gần đến rồi”.

Gió buổi sáng lạnh như cắt da, cái rét làm mất hẳn cơn buồn ngủ. Họ đứng lên cuốn lều nhóm lửa nấu ít đậu và xào mì, ăn ngon lành.

“Nghĩa này, bao giờ cậu cưới vợ?” Tài hỏi.

“Đãi được vàng thì em về cưới, nếu không có vàng thì mất vợ”. Làn da vốn trắng trẻo của Nghĩa bây giờ bong từng mảng, môi nổi mụn sưng vều.

“Thời nay ở nông thôn lấy vợ khó lắm. Lấy vợ chẳng qua là tìm chỗ ở cho cái cu. Đàn bà thì thực ra chẳng cần mà cũng chẳng là gì. Tại sao cứ phải cưới vợ đẻ con? Cái thế giới này người nhiều quá rồi, Trung Quốc hơn một tỷ người rồi, khó sống lắm. Nước sắp hết rồi phải không?”

“Còn hai bình lớn. Hôm qua ở chỗ suối nước nóng em lấy đủ rồi”.

“Ta đi tiếp đi”.

Hai người đứng dậy, Tài huơ tay: “Khoan đã, ta vái Hải, Tuấn, Thọ một vái đã”. Hai người quay lại phía sau khấn vái một hồi rồi lên đường.

Xa xa đàn dê chạy như bay trên đồng hoang, bụi cuồn cuộn bốc lên như thiên binh vạn mã đang hành tiến. Nắng dịu sáng long lanh, bóng họ xa dần.

Chẳng mấy chốc họ phát hiện lạc mất đường một phần do nhiều mây, không định hướng theo mặt trời được, một phần do đi vào vùng đồi núi địa hình quá phức tạp, loanh quanh mất hướng.

Hai người cảm thấy họ đã nằm trong bàn tay của tai họa rồi. Tài quyết định đi về phía đồi thấp.

Trong vùng cao nguyên mênh mông vô tận của miền tây Thanh Hải, họ như hai con kiến trèo đèo lội suối, vượt núi băng ngàn, tiếng bước chân rơi trong hoang vắng. Hình như thế giới này chỉ còn hai người, xung quanh là những địa tầng, vách đá trải qua gió bào mưa xối từ thuở hồng hoang, họ cảm thấy mình như là người của lịch sử.

Trên đường đi, đói thì ăn chuột, ăn rắn, ăn thỏ để sống và để có sức mà đi, làm cho họ có đủ can đảm, nghị lực và lòng tin. Thật ra có đến được Kakaxili hay không, Tài cũng không quá hy vọng, chỉ hy vọng và hơn nữa tin rằng mình có thể đi một cách gan góc. Có thể khả năng trở về nhà cũng chẳng còn, nhưng giờ đây, có một sức mạnh giành giật lấy sự sống chế ngự họ, họ tin rằng cuối cùng chuyến đi của họ có thể thực hiện được một điều gì đó.

“Nếu gặp được người thì tốt quá”. Nghĩa sờ nắn đôi chân sứt sẹo, nhìn những đám mây trôi qua trên đầu, than thở.

“Đ