← Quay lại trang sách

TRUYỀN THUYẾT dòng sông ❖ I ❖

MẤy ngày trưỚc khi mẤt, cha tôi luôn miệng nói ông đã nhìn thấy một dòng sông, dòng sông lớn, sáng lấp lánh từ trên trời cuồn cuộn chảy xuống, kèm theo cỏ dại và sỏi đá của thời gian, cả hình bóng của ông tôi. Cha tôi bảo ông tôi bao giờ cũng xuất hiện cùng với dòng sông, đầu ông đội mũ lông chim, miệng ông ngậm con dao găm, leo trèo trên vách đá ven sông như con sơn dương lanh lợi, dưới ánh mặt trời cơ bắp sau lưng ánh lên màu đồng đỏ.

Tôi không biết mặt ông tôi. Tôi sinh ra thì ông đã mất, tấm màn thời gian đã che mờ hình bóng ông. Ông tôi người Xipô, tôi mang một phần tư dòng máu của ông. Thời gian như một miếng thấu kính, để mọi dấu tích đều được nhìn như hiện tại. Thế thì cha ơi, con có thể bơi ngược dòng thời gian đến tận hình hài và tiếng nói của ông không? Tôi hỏi cha tôi.

Trước khi mất, cha tôi bỗng trở nên u uất và yếu đuối. Ông lúc nào cũng chìm trong dòng sông ký ức để tìm vớt những cánh hoa chuyện xưa cũ đã chìm xuống đáy nước, làm cho những tình tiết nhỏ cũng nổi lên như những tảng đá trên mặt sông. Bên tay ông đặt một số kỷ vật có thể làm người ta chìm trong ký ức, tôi nhớ rõ đó là con dao găm nạm hai miếng mã não xanh và một cái túi dết làm bằng lụa thêu hoa, mấy viên sỏi có hoa văn lạ, một bộ da thằn lằn, một đoạn mũi tên gãy bằng gang, một mảnh vỡ của đĩa sứ long phượng đời Minh và mấy tấm ảnh ố vàng. Trong ảnh không có ông tôi, chỉ có cha tôi cười trẻ trung, chất phác, cảnh phía sau là địa hình vùng tây bắc. Nhìn những kỷ vật, mắt cha tôi lại sáng lên rồi lại dần dần thâm trầm và ảm đạm. Rõ ràng là ông lại chìm vào suy nghĩ mông lung. Sau đó không lâu ông ho ra máu và tắt thở.

❖ II ❖

NhỮng chiẾc lá thỜi gian rơi lẢ tẢ tỪ những cành cây lịch sử, đường rơi vẽ nên những sự kiện. Qua kẽ hở của những cành cây rối bời trên không trung, bạn có thể thấy một đội ngũ lộn xộn, đang bước đi gấp gáp dưới bầu trời thảo nguyên như một con rắn đất đen sì đang vội vã bò đi.

Khi họ nhìn thấy pho tượng người bằng đá đứng trên dốc núi trước mặt là một sáng mùa thu đẫm sương. Cỏ trắng nghiêng ngả trong gió phát ra tiếng rú rít lanh lảnh khó chịu. Một chùm sáng chiếu vào mặt họ, bạn sẽ nhìn rõ, những người lưỡng quyền nhô cao, mắt hình tam giác trũng sâu, ngang lưng thắt đai vải đen, trên đai treo hai cái chuông đồng, bên trái và bên phải, tiếng chuông phát ra thánh thót và bi thương. Đàn ông cao lớn, đàn bà đội vòng hoa cỏ. Khi họ nhìn thấy bức tượng là lúc mặt trời đang lên, bình minh đang đến.

Một người trong số họ vung tay, mọi người quì một chân xuống, chỉ có ba người đứng, vẻ mặt kiên nghị. Họ như được đúc từ khuôn đồng, tay nắm chặt chuôi dao. Đó là ba anh em, ông tôi là anh cả.

Theo lời kể của cha tôi, đó là con đường di dân lớn của bộ lạc Trang của bộ tộc Xipô, họ đi hơn ba tháng, từ sông Elkuna đi về phía tây nam, mùa thu năm ấy khi đối mặt với pho tượng đá thảo nguyên thì đã chịu đủ gian nan, bộ lạc hơn hai trăm người thương vong quá nửa.

Không khí rung lên tiếng vọng của gươm đao, đến hôm nay tôi vẫn sờ thấy được và run rẩy toàn thân. Một sớm mùa thu năm 1937, ông tôi vung tay áo đen chạy mấy bước lên phía trước, lấy tay che trán người đá, tôi nghĩ bàn tay vuốt ve của ông nhất định sẽ làm đau khắp mình, hôm đó vẻ mặt ông kỳ lạ và từng trải, nước mắt rơi trên gò má.

Người đá thảo nguyên có đôi mắt lồi, trên bụng khắc chữ ngoằn ngoèo. Ông tôi cất giọng trầm trầm, hơn bảy chục con người cất lên tiếng hát. Tiếng hát trầm hùng như con cá khổng lồ nổi lên từ đáy biển sâu thẳm, như rừng cây trong bão tố. Họ nhìn về phía mặt trời đang từ từ ló ra và dâng lên trên mặt đất bao la. Họ đang hát những bài ca ngợi quê nhà. Là những người lãng du, họ ra đi từ những đống lửa, làn khói ấm, giấc mơ và những ngôi nhà gỗ với bếp lửa bên sông Elkuna, một phong cảnh hoàn toàn khác nơi đây vẫn khắc sâu trong lòng.

Cha tôi bảo, ông tôi dẫn bộ lạc Trang đi, trước khi đến thảo nguyên đó họ đã trải qua chín lần kịch chiến trên đường di chuyển. Họ đã giao chiến với người Liên Xô, Nhật Bản, Mông Cổ, Mãn Châu và liên quân kháng Nhật đông bắc của Bát lộ quân. Hôm đó họ đã cạn hết lương thực đạn dược, nhưng trong mắt vẫn cháy đỏ khát vọng. Nhiều năm sau mỗi lần nhớ lại tôi vẫn liên tưởng tới Môi-se (*) , họ đều dẫn dân mình rời khỏi quê hương.

Tiếng hát ngừng, đám người rối loạn, hai người đàn ông trung niên bị đẩy lên trước, vẻ mặt mỏi mệt. Họ có đặc trưng của người Xipô còn lưu lại trên mặt tôi hôm nay.

“Ba Hải Long, Ba Vũ Thanh, tại sao các người rời bỏ mọi người?” Ông tôi bỗng cúi đầu tay mân mê cái chuông đồng nơi thắt lưng..

“Ba Thiên Hỷ! Ông đưa cả bộ tộc đến thung lũng chết!” Ba Hải Long nhìn ông tôi gầm lên tức giận, “Tại sao phải bỏ sông Elkuna mà đi, tại sao phải bỏ nhà cửa vườn tược mà đi? Tại sao?”

“Để sống, để con để cháu được ra đời mà không bị giết, không bị đói”. Ông cười cay đắng, “Trói chúng nó vào tượng đá kia.”

“Tao sẽ giết mày trước!” Ba Hải Long và Ba Vũ Thanh ra sức vùng vẫy làm tuột dây trói, sấp ngửa lao vào ông. Dưới chân ầm ầm tiếng trống dồn dập, dao găm lấp loáng, bóng người đuổi bắt vật lộn vô cùng hỗn loạn. Thế rồi ông tôi vẫn đứng đó, hai người bị trói vào tượng đá. Mấy người lột quần áo họ, bôi đầy mật ong lên. Chẳng bao lâu đàn kiến lũ lượt bu lại.

Câu chuyện đã cách xa năm mươi năm nhưng tôi vẫn nghe tiếng kêu gào xé ruột của Ba Hải Long và Ba Vũ Thanh. Cha tôi bảo tâm trạng ông tôi lúc đó rất phức tạp, khi ông chết trong tay tên đại đội trưởng Quốc dân đảng chột mắt sau đó nhiều năm, ông không thể không nhớ lại ngày hôm đó. Hôm đó mọi người trong bộ lạc đều khóc, lặng lẽ nhìn hai người dần dần biến thành hai bộ xương trọn vẹn. Chim ưng bay lượn trên không cất tiếng kêu khàn khàn thê lương. Ba anh em ông tôi giương cung bắn, tiếng dây cung bật căng, bảy con chim ưng rơi xuống như bảy hòn đá đen.

Ông tôi cùng ông hai Ba Thiên Phúc và ông Ba Thiên Thọ gọi mọi người lại chôn hai bộ xương, mặt trời biến thành cánh chim trắng cất cánh bay lên không trung. Đoàn người tiếp tục đi. Tiếng bước chân kinh động lũ côn trùng, tiếng chuông đập vào dao kiếm vang đi bốn phía.

Năm 1990 tôi ngồi xe lửa đi qua Nội Mông, lòng buồn vô hạn. Dọc đường tôi thấy những pho tượng đá, họ đứng đó dưới bầu trời, vẻ mặt kiên nhẫn và thần bí. Đã bao nhiêu sóng gió của năm tháng vùi dập họ? Bên tai tôi chỉ thấy tiếng cát bay trong gió. Đúng vậy, chỉ có gió là vĩnh hằng, chỉ có gió mới có thể đưa hình ảnh và tiếng nói của họ năm mươi năm trước về cho tôi.

Chiều tối hôm đó, họ đi lên dọc theo triền núi. Qua ánh nắng sắp tắt họ nhìn thấy một dải băng ánh vàng lấp lánh.

Sông, đó là một dòng sông lớn, có người nói. Đón làn gió từ sông thổi tới, ông tôi lim dim đôi mắt nhìn xa xăm. Ta phải qua sông, ông nói, gió thổi làm ông giàn giụa nước mắt.

Sông, sông. Mọi người lắng nghe sóng vỗ bờ rì rào, và tiếng núi thầm thì. Những con chim trắng như những bông lau sà xuống rồi lại cất bổng lên trên mặt nước sông vàng đục. Họ đã đến Hoàng Hà.

❖ III ❖

Mùa hè năm 1959 cha tôi đỨng trên sưỜn dốc trong khu vực núi Trâu nằm phía nam sông, đăm chiêu nhìn lòng sông. Quanh miệng ông râu mọc xồm xoàm như cỏ dại, vóc dáng ông vừa trai trẻ vừa già nua. Ông bước lên mấy bước, những con châu chấu phát ra tiếng rung của dây đàn. Thung lũng phía xa, một dòng sông nhỏ uốn lượn như một dải băng lấp lánh ánh bạc. Bên sông có mấy lò gang bỏ hoang, không còn nhả khói, trông như những con mắt mù, than gỗ và xỉ đen xì xung quanh.

Đám cưới trước đó nửa tháng cũng không làm ông khuây khỏa được nỗi lòng cháy bỏng. Năm ấy ông hai mươi hai tuổi. Bây giờ tôi vẫn nhìn thấy rất rõ ông đứng trên triền núi, đau đớn nhìn cảnh sắc quê hương. Cuộc “đại nhảy vọt” những năm ấy làm cho những guồng nước bên sông quay tít rồi mãi mãi câm lặng. Một làng bên kia núi có một phần ba số dân chết đói.

Ngay hôm qua, khi đưa cô dâu mang lương thực về nhà bố mẹ, ông thấy một cụ già nằm chết trên tảng đá, hai mắt lồi ra, tay còn nắm chặt mấy cọng cỏ. Đúng lúc ông đi qua thì cái bụng trương phình của xác chết bỗng nổ tung, nội tạng bay tóe ra, ruồi nhặng bu đến. Cô dâu nôn thốc nôn tháo.

Năm 1959, đôi chân cha tôi lang thang khắp vùng núi non, từng đàn châu chấu bay đầy trời rồi sà xuống, đôi cánh mỏng của chúng lấp lánh báo hiệu một năm đại họa. Ông nghe rõ tiếng lép bép châu chấu bị dẫm nát dưới chân ông, một con lợn rừng gầy trơ xương hốt hoảng chạy rồi biến mất sau bụi cây lê gai. Ông cảm thấy cổ họng bỏng rát như khô cháy.

Một người mặt mũi thanh tú, mặc áo kép đen hấp tấp đi tới, ngang lưng đeo sợi dây thừng. “Tứ Tỏa”, tiếng cha tôi khô khốc và sốt ruột, “Thế nào rồi?”

“Quốc Khánh và chó đen đều đồng ý cả. Anh ạ, tôi còn lấy được chứng nhận của đại đội, tối mai ta đi.” Tứ Tỏa nói. Cha tôi và ba người đó là bạn thời tiểu học. Hôm đó cha tôi và Tứ Tỏa ngồi trên tảng đá thì thầm với nhau, những con nhặng bị gió đánh sái cánh rơi xuống cỏ. Lát sau, khuôn mặt vàng bủng của cha tôi thoáng một nét cười bí hiểm: “Thế nhá, ta về thôi.”

Khoảng hai mươi lăm năm sau, cha tôi kể lại lần nói chuyện với Tứ Tỏa thì thời gian đã xoá đi nhiều lắm. Cha tôi bảo, mùa hè năm 1959, một tin làm phấn chấn mọi người lan truyền khắp vùng núi này: Xa xôi vùng Tân Cương đâu đâu cũng tuyển lao động, ở đó ngày nào cũng có bánh hấp trắng, thịt lợn hầm mỳ sợi để ăn. Thế là một ý định nảy ra trong đầu mấy người bạn.

Tôi có thể đoán được cha tôi vào tối hôm trước khi đi xa tâm trạng rối bời trước mặt người vợ mới cưới. Một luồng sáng lọt vào buồng, chiếu sáng hình dáng người vợ nở nang, ông nồng nàn vuốt ve theo đường nét mềm mại của vợ, làn da mịn màng giần giật run lên dưới bàn tay chai sạn của ông. Trong khoảnh khắc mảnh đất này và da thịt người vợ yêu đã hòa làm một trong ảo giác của ông. Nhưng mùa hè năm đó đất đai chẳng còn bao nhiêu mầm xanh, vậy thì ai dám trông chờ vụ thu hoạch vào mùa thu? Bàn tay ông cứ trôi đi rồi bỗng nhiên trùm lên đôi vú tròn căng, trong lòng ông ngổn ngang trăm mối bất giác ông bóp quá tay, đôi vú trượt đi, ông nghe thấy một tiếng rên nhẹ của người vợ mới cưới. Ông thở dài nằm ngửa trên giường, đầm đìa mồ hôi. Nỗi cô đơn trống vắng xâm chiếm tâm hồn ông.

Chiều hôm sau, bốn chàng trai như bốn con cá chui vào chiếc xe khách đường trường rời khỏi vùng sơn địa, trong đầu họ chỉ toàn là ước mơ và những dự cảm sáng tươi đầy màu sắc. Mùi hôi thối của xác chết trộn lẫn hương thơm của lúa bay vào cửa xe, họ ôm mặt nhìn quê hương xa dần.

Sau khi ông đi được ba ngày, người vợ mới cưới nhảy xuống giếng tự tử. Cô không chịu nổi việc ngoảnh mặt đi bỏ rơi như thế. Tất cả những điều đó bao năm sau ông không hề biết.

Có lúc tôi đứng trên mỏm cao của thời gian mà nhìn về, tôi vẫn còn thấy cha tôi cùng các bạn mặc quần áo vải thô màu xanh đang lắc lư trên ô tô, buồn bã, ngơ ngác.

Sau đó họ lên xe lửa từ Tây An đi về phía tây. Trong toa xe tràn ngập những tâm trạng chung của một thời và không khí nồng nặc hôi hám. Trước đó bốn người chưa bao giờ ra khỏi vùng đất quê chu vi vài mươi dặm, bây giờ lần đầu tiên đối mặt với một thế giới rộng lớn và xa lạ ai cũng bồn chồn không yên. Trong âm thanh đơn điệu của bánh xe nghiến vào đường ray, ông dựa vào lưng ghế bằng gỗ, ngoẹo người ngủ thiếp đi.

Khi đến Lan Châu ông tỉnh dậy. Mấy người xa quê mở tròn mắt đăm đắm nhìn cảnh vật trôi về phía sau trong ánh sáng mờ ảo ban sớm. Mọi thứ đang biến đổi, trên đồng cỏ cây thưa thớt lộ ra những tảng đá như tấm da trâu đang thối rữa. Bỗng có người kêu: máu! Cha tôi lim dim mắt thấy Tứ Tỏa trào máu mũi, ông biết do không khí bên ngoài cửa quá khô làm mao mạch trong mũi vỡ ra. Ông cảm thấy đũng quần dính nhớp nháp vô cùng khó chịu. Lát sau chó đen bỗng lên cơn sốt đùng đùng.

Ngày 7 tháng 6 năm 1959 xe lửa đến đích: ga Veya. Họ xuống ga, đứng trơ giữa quang cảnh miền tây, tâm trạng rất lạ lẫm và sợ hãi, họ bị đoàn người dồn đẩy, xung quanh ồn ào toàn những người lam lũ bụi bặm như nhau. Ai cũng có vẻ phấn chấn và mê muội. Ra khỏi rào chắn họ thấy quang cảnh còn nhộn nhịp hơn nữa.

Bấy giờ Veya là một ga rất nhỏ, nằm gần nơi giáp ranh hai tỉnh Tân Cương và Cam Túc. Năm 1989 tôi qua đó, thò cổ ra ngoài ô cửa, tưởng tượng màu mây, bầu trời và những con người đi lại dưới bầu trời đó năm 1959, nhưng tất cả đều đã bị sa mạc Gôbi cát vàng xóa đi. Chỉ còn mấy ngôi nhà gạch đang chống chọi với gió cát, trên sân ga cô trực ban hai má đỏ rực vì gió, tay cầm cờ, đôi mắt vô cảm nhìn đoàn tàu lướt qua. Một vài bộ xương đà điểu rải rác bên đường tàu, chim ưng lượn lờ trên không. Những con người năm ấy, cả bóng dáng cũng đã bị sàng lọc qua thời gian và gió cát cuốn đi. Tôi nghĩ vậy và rời cửa sổ, quay vào trong toa.

Cha tôi nhìn quanh, đâu cũng là màu cỏ úa của lều bạt bộ đội, người mặc áo bông xanh đặt bàn trước lều, gọi mọi người đến.

Chó Đen không lê bước đi nổi, được Quốc Khánh và Tứ Tỏa dìu đi. Cha tôi cõng trên lưng rất nhiều đồ đạc, qua lăng kính thời gian trông ông khôi hài như một con lạc đà. Cha tôi kể hồi đó ông nhút nhát lắm thậm chí có ý định quay về quê.

“Này, sửa đường có làm không? có bánh hấp trắng, thịt lợn hầm mỳ sợi để ăn, làm không? Làm thì ghi tên đi!” Ánh sáng trong lều yếu ớt, một người trung niên có vẻ cán bộ ngồi sau bàn vồn vã mời chào cha tôi.

Cha tôi sững người một lát, muốn khóc nhưng kìm nén được. Ông quay lại, vẻ tội nghiệp bảo Tứ Tỏa và Quốc Khánh: “Ta ghi tên ở đây đi, có bánh hấp trắng, thịt lợn hầm mỳ sợi để ăn.”

Đêm đó Chó Đen vẫn sốt cao dẫn đến mê sảng. Anh ta gào thét, ba người bạn vây xung quanh. Nửa đêm Chó đ en giãy giụa gào thét, mặt ửng hồng rồi không động đậy nữa.

Sau này cha tôi bảo anh ta chết vì bệnh sốt thương hàn. Cái chết của Chó Đen làm cho cuộc tây du của họ trở nên tăm tối. Hôm sau có người giúp, họ chôn anh ta trên bãi cát cạnh nhà ga. Cha tôi bảo năm 1985 ông qua đó, chẳng còn gì cả, chỉ có gió, cát và xương lạc đà.

Cũng chiều hôm đó, ba người còn lại lên chiếc xe tải mui bạt đi Hami. Tất cả những người chiêu mộ đi Tân Cương đều tập trung ở đó để chỉnh đốn, sắp xếp lại. Cha tôi ngồi trong xe giữa cảnh chiều tà đỏ rực mà lòng trĩu nặng.

Khi xe đi qua ngôi thành đất đổ nát còn lại từ thời Tây vực cổ đại thì đàn bồ câu hoang dại cất cánh bay lên. Tứ Tỏa khóc không thành tiếng, cha tôi thẫn thờ nhìn trời đất mênh mang, chẳng nói một câu.

❖ IV ❖

HỌ dỪng lẠi bên mỘt dòng sông. Họ không nhớ đã gặp bao nhiêu con sông. Ông tôi phát hiện con sông khá rộng, đến năm mươi mét, nước lại nông, chỉ đến đầu gối, cá lấp lánh bơi.

Khi qua Hoàng Hà, đoàn người lại mất một nửa. Nét mặt hoảng loạn của họ khi chìm trong dòng nước Hoàng Hà vẫn còn hiển hiện trước mắt. Ông tôi bắt đầu nghi ngờ, phải chăng dẫn mọi người rời bỏ quê hương là một tội lỗi. Khi tiến vào vùng núi đối diện với dòng sông này thì ông thanh thản đôi chút. Ông đi xuống sông, nhìn bóng mình rồi cúi xuống uống một ngụm nước. Tôi thấy họ đã thay quần áo khác: áo có vạt của người trung nguyên. Một chiếc xe ngựa mui đen chứa đầy những đồ thay ra. Ánh mắt ông tôi thẫn thờ, ông tôi nheo mắt nhìn về phía xa nơi cuối sông, nhìn ánh chiều tắt dần rồi ông nói với hai ông em:

“Ta tách ra ở đây thôi. Các chú xem, ở đây có sông, có đường cái lớn, có đường nhỏ vào núi. Anh em ta có ba người chia ra ba hướng mà đi”. Nói xong nước mắt ông rơi xuống má như một sợi dây đen.

“Không, chúng ta hết đường rồi, chúng ta hãy chết bên nhau!” ông hai gầm lên, vung dao chém vào không khí tiếng xé gió như xé vải. Mọi người bàng hoàng. Mấy con chim chìa vôi nhảy tưng tưng trên những viên đá, tìm mổ ánh nắng.

Ông tôi bắt đầu nói, cuối cùng mọi người đồng ý chia làm ba cánh.

Hôm đó trước mắt ông tôi hiện ra ảo ảnh một đồng cỏ, họ chia cắt ước mơ của ông, ông cảm thấy đã thất bại. Ông lấy từ trong túi da ra một cái đĩa sứ làm rất tinh xảo, bẻ làm ba.

“Đây, mỗi người một miếng, sau này anh em ta ăn nên làm ra có ngày hội ngộ lấy cái này để nhận nhau.” Ông nói.

Trong tiếng hát trầm đục, hai tốp người đi về hai hướng, xa dần. Ông tôi đứng ngập chân trong cỏ, ngẩng đầu nghĩ một lát rồi dẫn tốp bảy, tám người đi theo con đường nhỏ vào núi.

Gió thổi cỏ giạt về phía núi, người đàn bà dệt vải cất tiếng hát đâu đây. Nơi vừa chia tay có một đàn kiến và một đàn rết gặp nhau. Hai bên đối mặt khá lâu, rồi đều rẽ phải tiếp tục đi.

Ông dẫn tốp người vào núi, bốn phía những cây hoa trắng, cây thông đỏ đứng sừng sững, im phăng phắc, ông có thể nghe thấy tiếng sâu ăn lá. Không khí trong núi ẩm ướt, nặng nề, tâm trạng ông bấn loạn.

Ông nghe thấy một tiếng rền như sấm trên trời. Ông ngẩng đầu thấy một con chim lớn màu xám bạc đang kêu và bay ngang trời mà không vẫy cánh. Ông lạ lắm nhảy lên như bị kim đâm ngón chân. Đó là lần đầu tiên ông nhìn thấy máy bay.

Ông không thể biết rằng, trong thời kỳ sôi động này ở vùng núi và đồng bằng cách đây không xa, có mấy thứ lính như những dòng sông đục ngầu đang xâu xé nhau đổ máu, thế giới cũng cực kỳ hỗn loạn.

Chiếc máy bay biến mất, tầm mắt ông lại đưa ngang. Ông thấy một ông già dắt theo một người đàn bà quần áo trắng tinh, khoác một cái làn, họ đang đi trong lòng núi, lưng đeo chuông kêu leng keng để dọa thú dữ, tiếng chuông như tiếng nước chảy rung nhẹ bầu không khí.

Chân ông như mọc rễ, ông đứng đó thờ thẫn nghe tiếng chuông đến gần. Ông  già dắt người đàn bà đi qua lạnh lùng đưa mắt nhìn. Ông ngây dại dán mắt vào người đàn bà. Nét mặt người đàn bà như bông hoa hàm tiếu, da ửng hồng, đôi mắt lườm chếch sang vừa giận dữ vừa thích thú. Khi đi qua chỗ ông, chị ta ngẩng đầu nhìn quét ngang, lập tức ông cảm thấy lục phủ ngũ tạng bốc cháy. Nhìn theo hai người xuống núi, ánh mắt ông trở nên mơ màng, cổ mỏi nhừ vì nhìn, tim đập như trống đánh. Ông lạ lắm, tại sao thấy chim lớn trên trời lại cùng lúc thấy người đàn bà đẹp?

Nhiều năm sau tôi đoán hôm đó trong lòng ông không thể nào yên. Năm ấy ông ba mươi tuổi, đúng thời kỳ sức vóc sung mãn, cô vợ ông lấy năm hai lăm tuổi đã bị Nhật giết trong một trận phục kích. Hôm đó, nhìn ông già áo xám và người đàn bà áo trắng biến mất trên triền núi, ông bảo: “Phải đuổi cho kịp.”

Cha tôi kể, ông tôi đuổi kịp hai người, ông cầu hôn luôn ngay hôm đó, nói với ông già muốn lấy con gái ông làm vợ. Ông già không bằng lòng, còn rút dao giấu trong gậy chống ra chém vào vai ông tôi.

Mấy ngày sau ông đạp tung cửa cái miếu cũ nơi người đàn bà nương náu xông vào, ném cái đầu đầm đìa máu lên giường và nói: “Bố cô bị tôi giết rồi, cô phải theo tôi thôi.”

Hôm đó ông như con báo vồ lấy người đàn bà còn đang ngái ngủ, cử chỉ của ông quá thô bạo, khi ông đâm sâu vào người đàn bà, bàn tay chị ta tuyệt vọng cào rách lưng ông thành năm rãnh máu, chị ta đau buốt thân mình và ngất đi.

Chị ta đã không hận ông giết cha mình, còn âu yếm ngọt ngào với ông.

Những người đời sau cảm thấy chuyện này ngoài sức tưởng tượng. Về sau ông tôi đã cắm rễ ở vùng núi phía nam tỉnh Hà Nam và người đàn bà đó là bà nội tôi.

❖ V ❖

...Cha tôi bẢo: NgưỜi ta sỐng Ở đỜi như cỎ dại trên đồng hoang, chẳng ai nhìn thấy nó lớn lên cả, nhưng nó vẫn lớn lên. Con đường xưa kia cỏ đã mọc xanh rì che lấp tất cả như không hề tồn tại.

Bây giờ tôi còn thấy rõ năm 1962, cha tôi ngồi trên chiếc xe ủi đất “Đông phương hồng”. Là một tay lái trẻ, mặt ông rạng rỡ nụ cười tuổi thanh xuân.

Bầu trời miền tây trong xanh, sáng sủa. Những đám mây trắng muốt lơ lửng trên không. Đó là một thời đại cất cao tiếng hát và phấn đấu tiến lên. Ánh mắt cha tôi cháy bỏng nhiệt tình. Những tấm ảnh ố vàng chứng thực điều đó. “Mỗi lúc khởi động chiếc máy ủi, hình ảnh ông nội con lại hiện ra trước mắt cha. Những lớp đất bị đẩy lên thành đống như sóng, cha cảm thấy như mình đang lái con tàu trên biển lớn. Thời gian đó mọi người như phát điên, thì cha lại một mình lái xe ủi dưới chân Thiên Sơn. Trước mắt cha là sa mạc Gôbi mênh mông và đàn dê chạy băng băng”...

Cha tôi nằm nhìn lên trần nhà lẩm bẩm, quá khứ lộn xộn hiện lên trước mắt ông.

Sau khi ông, Quốc Khánh và Tứ Tỏa chìm nghỉm trong đám người xây dựng Tân Cương năm 1959 thì ông không kể được rõ ràng về họ nữa. Quốc Khánh chết năm 1981 do một tai nạn. Anh đứng trên xe tải, tựa vào thành xe nhìn con đường phía sau vun vút lùi xa, suy nghĩ mông lung. Xe phóng nhanh qua gầm cầu thấp, gầm cầu đập vào đầu làm anh đổ vật xuống sàn xe chỉ kêu “hự” một tiếng.

Một giờ sau, người lái xe trèo lên mới phát hiện Quốc Khánh đã chết, hàng chục con chim bồ câu đang đậu trên người.

Năm 1960 Quốc Khánh làm việc ở cục hàng không dân dụng, chẳng bao lâu trong một chuyến bay đã làm quen một cô gái Pakistan và hai người yêu nhau.

Cha tôi bảo đời người như một thảm cỏ, những việc lớn thì nổi lên và lộ rõ như những tảng đá, nhất là tình yêu và cái chết.

Cô gái Pakistan có nước da bánh mật, đôi mắt to như lá anh túc đen, khuôn mặt tròn trĩnh, đeo đôi hoa tai to bằng bạc. Cô cười rất dịu dàng và thâm trầm. Cha tôi bảo Quốc Khánh chết mê chết mệt chính là vì nụ cười đó.

Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh Quốc Khánh đang đi với cô gái Trung Á đó. Dòng nước mưa mờ ảo ba mươi năm trước chảy ròng ròng, Quốc Khánh trong bộ đồng phục hàng không đang tươi cười, tay xách chiếc va li cho cô gái, đi về phía máy bay. Cô gái mặc bộ váy áo dân tộc Pakistan, che mặt bằng chiếc khăn sa thần bí. Cô đi dưới bầu trời u ám, chiếc “saly” cô choàng trên người càng trở nên kiều diễm lạ lùng và tôi cũng nhìn thấy cả hình dáng ngọn lửa trong trái tim Quốc Khánh. Một năm sau đó họ yêu nhau theo cách đặc biệt. Thời kỳ đó rất thiếu phi công, vỏn vẹn trong hai năm, Quốc Khánh từ nhân viên tiếp dầu trở thành lái phụ rồi lái chính. Anh có cái đầu quá thông minh, học đâu biết đó.

Mỗi lần anh lái máy bay từ Pakistan về, cô gái đều lên máy bay trong vai hành khách. Sau đó anh tìm cách giấu cô tại sân bay. Lần sau anh lái máy bay đi Pakistan thì cô lại lên máy bay để về nhà.

Một năm sau, cô gái không còn xuất hiện trên máy bay của anh nữa. Lòng anh như lửa đốt, đứng ngồi không yên, cuối cùng khi anh lái máy bay đi Pakistan, hành khách không biết rằng anh đã biến mất trong thành phố Istambul. Việc này trở thành một bí mật lớn thời đó. Anh theo địch phản bội tổ quốc chăng? Anh bị bắt hay bị ám sát? Mọi phỏng đoán chỉ như hoa trôi mặt nước, chẳng có gì chắc chắn. Hôm đó máy bay đành phải để phi công Pakistan lái trở về.

Điều này trở thành một sự kiện chính trị, thậm chí thành văn bản gửi đến cơ quan an ninh tối cao của quốc gia.

Một tháng sau, máy bay hàng không dân dụng lại hạ cánh tại Istambul. Hôm đó là một ngày mưa to, mọi người đều trông thấy Quốc Khánh chạy về phía máy bay, đầu tóc sũng nước, chiếc áo choàng đen bay trong gió như một con quạ trong bão.

Chờ đợi anh là những năm tháng sau chấn song sắt. Lúc đầu anh bị kết án tử hình, sau đổi thành án tù chung thân, thế là anh biến khỏi thời đại.

Tôi không rõ tâm trạng của Quốc Khánh mùa hè năm đó ra sao khi một thân một mình chạy ngược chạy xuôi giữa thành phố Istambul nóng lòng và tuyệt vọng gọi tên người yêu. Chắc chắn anh đã thất vọng ghê gớm khi tìm kiếm cả tháng trời. Tôi nhìn thấy anh mặc quần áo Pakistan đứng trên phố Istambul năm đó, ngẩng mặt nhìn vòng cung hình trăng non trên các nóc nhà kiểu Hồi giáo. Rồi anh đành thất thểu quay về tổ quốc của mình. Ngọn lửa trong tim đã bị trận mưa hôm đó dập tắt.

Năm 1979, một hôm Quốc Khánh xuất hiện tại nhà tôi, ông bắt tay cha tôi rồi khóc. Ông trở nên vừa già vừa gầy. Năm đó tôi chín tuổi, tôi ngẩng lên nhìn hai người mới trên bốn mươi mà trên đầu đã hai thứ tóc, đang khóc sụt sùi, cảm thấy kinh ngạc rồi buồn cười. Cái gì làm họ ủy mị như thế, chỉ trong hai mươi năm đã trở nên già nua, xấu xí và yếu đuối như vậy? Cái đầu óc trẻ con của tôi cứ suy nghĩ mãi.

Cha tôi bảo: Nếu Quốc Khánh không ngồi tù thì thế nào cũng có chuyện trong cuộc “Đại cách mạng văn hóa” năm 1966, vì anh là người thích nổi trội. Tái ông thất mã, ai biết được là họa hay là may? Về sau Quốc Khánh sống thêm mười mấy năm nữa. Năm 1978 được tha, cuộc lộn xộn đã yên trở lại, ông được truy lĩnh tiền lương, về già lại có phúc. Nhưng ba năm sau lại chết vì cái gầm cầu thấp. Cuộc đời con người ta lẽ nào chỉ là cỏ rác hay sao?

Khi đã lớn, tôi và người cha già yếu như hai cái cây, một xanh tươi, một xơ xác vì sương gió, hay đứng trước cửa nhà để nhìn về quá khứ xa xăm đang khuất dần. Tôi thấy Thiên Sơn kéo dài vô tận về tây, thấy mây bay trên trời, những ngọn gió vĩnh hằng thổi mãi, bao nhiêu là cát bụi lắng đọng trong đôi mắt cha tôi?

❖ VI ❖

TrẢi qua bao nhiêu là phong ba bão táp từng ấy năm trời vậy mà ông bà tôi vẫn đầy sức sống, như những trái lê chín trên cái cây thời gian.

Những năm tháng ấy thế giới loạn lạc  nhưng trong núi thì yên ả, tiếng hát dân ca trầm bổng như lá bay, trong vắt và tươi mát.

Ông tôi, hậu duệ của những người săn bắn, vị tù trưởng cuối cùng của bộ lạc Trang đang chạy nhảy trong núi. Ông giỏi đánh nhau với thú dữ. Trong lưu vực sông Elkuna bàn chân ông dẫm khắp các cánh rừng của ngọn Đại Hưng An. Lịch sử của ông đầy những đâm chém máu me. Ông đã giết sói, hổ, báo, giết cả người Nga Sô, Nhật, Mông Cổ, đã giết người Hán, người Xipô. Khi về già những đốm máu ngấm sâu vào da thịt ông vẫn còn hiện rõ, như vết đốm của con hươu sao. Khi ông đã như con hươu sao thì bà không còn ưa ông nữa.

Năm 1942 gió lạnh thổi buốt giá. Ông cõng bà đi xuyên qua khói lửa chiến tranh, đi khắp vùng núi Trâu nằm như hai con nai. Những cây hạt dẻ, hoa, thông, cao su, sơn tra, bách hợp đung đưa, đàn quạ bay lượn trên không.

Cha tôi bảo: Bà nội vốn là cướp biển. Đến nay tôi vẫn nhận ra khuôn mặt của ông bà năm 1942: Một người kiên nghị, một người kiều diễm. Trước khi gặp ông, chồng bà là tướng cướp biển, nghe nói ông ta có bảy chiếc thuyền lớn trang bị  súng thần công và súng phóng lửa. Bảy chiếc xếp thành đội “một hai ba” chạy trên biển đông, cờ “đầu lâu xương chéo” phấp phới bay, gặp thuyền buôn qua lại là đánh.

Đến năm 1945 nội chiến lại nổ ra, bà tôi lại đi với ông ra biển, xuất phát từ đảo Sùng Minh, theo hải lưu về phía nam đến đảo Thạch Anh để vớt vàng bạc châu báu của chiếc thuyền Ấn Độ mà họ đánh đắm năm 1937.

Một ngày ảm đạm năm ấy, dưới bóng cây, bà kể với ông: năm 1937 khi chúng tôi đánh chìm thuyền Ấn Độ, hương thơm bay khắp mặt biển. Chất thơm chở trên tàu loang ra biển làm cá say phơi bụng trắng xóa mười mấy hải lý, có con rắn biển hàng chục mét bơi ngoằn ngoèo trên nước đỏ, nhe răng nhọn hoắt. Bà kể nhìn thấy con quái vật, to ngang cái thuyền của họ đau đớn quằn quại trong biển nhiễm nước thơm. Chiếc thuyền lật, đáy  gỗ trồi lên rồi nứt toác, bắn ra biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu lấp lánh, bọn cướp biển kêu lên kinh ngạc nhưng chẳng biết làm thế nào, đứng nhìn mọi thứ chìm xuống đáy biển.

Tôi tưởng tượng cuối những năm ba mươi, người chồng trước của bà là một gã chột mắt, có vóc dáng con hổ, bắp thịt cuồn cuộn, lẫm liệt đứng trên mũi thuyền, gió biển buốt giá quật vào da thịt, tấm áo đen bay phần phật.

Nhưng sai hết, cha tôi bảo, chồng trước của bà có dáng dấp thư sinh, thường mặc áo chùng xám, tay cầm chiếc quạt Tây Hồ tẩm trầm hương. Trong cuộc chiến ven biển Trung Quốc năm 1938 ông và chiếc thuyền lớn của ông chìm xuống đáy biển. Lúc đó hạm đội của Nhật đang theo Trường giang tiến vào nội địa Trung Quốc.

Sau khi chồng chết, bà tiếp quản bốn chiếc thuyền còn lại, tiếp tục tung hoành trên biển sáu tháng nữa, cho đến khi thuộc hạ sinh chuyện làm loạn, bốn chiếc thuyền, cái chìm cái cháy, mỗi người một phương chạy trốn cả. Bà tôi lúc đó trang điểm thành một mệnh phụ, quay về làng cá trên đảo Sùng Minh, cùng với bố chạy vào nội địa, đến tận trung nguyên. Những thành phố thôn làng suốt dọc đường họ đi qua, đâu đâu cũng tan hoang loạn lạc. Trên đường, người dân đói rách bị máy bay truy đuổi ném bom, chạy như nước lũ. Bom rơi xuống đất làm bay lên những nấm mây khí độc. Xác người nằm đầy đất, chó và sói chạy lông nhông.

Trời u ám đầy mây đen, người chết, người đói nằm la liệt, quần áo tả tơi giơ tay chới với bắt chuồn chuồn, những hình ảnh đã trở thành biểu tượng vĩnh hằng về những tháng năm đó.

Ông tôi đã giết ông bố vợ can đảm, cưỡng ép bà tôi trong cảnh nguy nan rồi trở thành đầu lĩnh vùng núi, tập hợp hơn hai trăm dân đói chạy loạn trong núi Trâu nằm đi cướp bóc.

Thời gian đó lúc nào ông cũng mơ thấy vô số những con chim to bay lượn trên trời và giấc mơ ấy cứ ám ảnh ông mãi.

Ông mơ tưởng mình chế tạo ra con chim to, bay trong không trung. Năm 1940 ông bà sinh con đẻ cái và bắt đầu thực hiện mơ ước đó.

Trước hết ông bảo bà tập hợp đàn bà con gái để dệt vải rồi khâu lại thành con chim, chân nó treo chiếc làn tre, ông ngồi trong đó, nhờ gió thổi để bay từ ngọn núi cao nhất xuống.

Con chim vải bay trong gió núi, lướt nhanh trên cánh rừng, ông ngồi trong làn tre vui sướng vô cùng, dưới chân là núi non di chuyển, sông ngòi lấp lánh, cây cối lướt qua vùn vụt, thấy ước mơ đã thành sự thực, ông gào lên sung sướng. Rất lâu về sau, người ta vẫn kể cho nhau về cảnh tượng đó, tiếng kêu gào của ông tôi vang động không trung và cánh rừng dậy sóng. Con chim lướt đi trên không, đung đưa theo gió núi rồi rơi bộp xuống mặt dốc chắn gió. Ông tôi mặt mũi sưng vù tím tái chui ra, gào tướng lên chào trời đất năm 1940.

Tôi biết giấc mơ bay của ông năm đó thật là vĩ đại, chân thành và cũng phí công vô ích. Năm 1980 tôi theo cha về quê thăm họ hàng. Lúc đó tôi mười tuổi lên ngọn cao nhất của núi Trâu nằm nhìn ra xung quanh, trên ngọn núi đâu đâu cũng có các lô cốt bằng đá, một cái miếu hoang tàn đã bị cỏ phủ đầy. Tôi phát hiện thấy trên vách đá khắc một bức họa cổ, vẽ cảnh sinh hoạt và giao hoan. Tôi cảm nhận được sức mạnh của thời gian và tôi đã khóc. Tôi thấy hiện lên khuôn mặt của ông, trầm mặc kiên nghị và tràn đầy ước mơ.

❖ VII ❖

CuỘc đỜi ba mươi năm Ở Tân Cương cỦa cha tôi bắt đầu xuất hiện màu hồng nhung. Làm một cánh chim tìm về nguồn, tôi theo làn gió thời gian để bay về quá khứ. Cha tôi đã đặt chân lên khắp vùng nam bắc Thiên Sơn rộng lớn, sa mạc, sông băng, và Gôbi bao la. Thân hình cha tôi gầy guộc như một con cá đen vất vả bơi suốt mấy chục năm trong nước cạn.

Cuộc “Đại cách mạng văn hóa” năm 1966 bắt đầu. Năm thứ tư thì tôi ra đời, lúc đó cha tôi là chàng lái xe ủi trẻ tuổi đã mười năm.

Những năm tháng đó, tràn đầy không khí sôi sục sẵn sàng bùng nổ. Màu đỏ lan tràn trên mặt đất. Người mặc quân phục như cỏ xanh trôi trên biển đỏ. Thế giới trở nên cực kỳ đơn giản nhưng cũng cực kỳ phức tạp.

Một đêm khuya năm 1966, tiếng súng chát chúa đã làm cha tôi tỉnh giấc. Ông kinh ngạc ngồi dậy, bật đèn, thấy kính cửa sổ vỡ do đạn bắn lên trần nhà, dưới đất phủ đầy xác nắc nẻ. Cha tôi lắng nghe rất lâu. Là người sống độc thân cho nên ông ngủ ngay nhà đại đội bộ của đại đội sửa đường. Hôm sau, ông và các bạn phát hiện xác đại đội trưởng ở phòng bên.

Cha tôi bảo đại đội trưởng là người tốt, năm đó ông đã hơn năm mươi tuổi, thuộc phái bảo hoàng cho nên bị phái tạo phản giết hại. Ông nằm trên mảnh đất ấm áp, nét mặt còn lưu lại nụ cười trong giấc mơ đẹp, hai mắt mở, như đang nghe trái tim của đất đang đập, chỉ có điều bụng dưới ông vỡ toác, máu chảy đầm đìa.

Trong thành phố là cả một khung cảnh hỗn loạn, chim chóc cũng không còn, trên cây treo đầy xác mèo, mùi thối nồng nặc khắp nơi.

Cha tôi thấy máu sợ quá, “Về sau cha không tham gia vào cuộc đấu võ của bất cứ phái nào, cha chỉ có mấy đồ đệ đang học lái máy ủi. Cái cảnh khó quên nhất là tòa nhà của phái tạo phản bị đánh chiếm, lửa khói phụt ra từ các cửa sổ, một cô gái mặc quân phục hô to khẩu hiệu và rơi từ mái nhà như chiếc lá đất, cha lạnh cả người.”

Tôi biết mùa đông năm 1967 ông được giao nhiệm vụ đi Thiên Sơn ủi tuyết. Đối với ông đấy là một cuộc đi trốn tránh cách mạng. Tuy vậy ông vẫn hăng hái dẫn mười một tay lái, khởi động mười chiếc xe ủi rầm rộ tiến sâu vào Thiên Sơn.

Họ đi sáu ngày mới đến đèo Lakusk. Đèo là khoảng giữa của con đường vắt qua hai bên sống núi. Ở đây cứ mỗi mùa đông đến, tuyết lở từ trên trượt xuống lấp kín hết con đường ô tô qua lại.

Cha tôi bảo ấn tượng của ông những năm ấy ngoài giá lạnh là cái chết. Đội xe ủi của ông từ từ tiến trên đường núi, theo sau là dãy dài các xe tải, có lúc tận mắt nhìn thấy chiếc xe ầm ầm lăn xuống khe núi ngập tuyết, tiếng nổ và ngọn lửa bùng lên làm mọi người hồn xiêu phách lạc. Có khi những con chim ưng đen lượn vòng trên không rồi bỗng rơi độp xuống vì rét, nằm chết rải rác trên tuyết trắng.

Có khi trên đường tuyết lấp dày đến hai mét. Nhiều khi ủi tuyết thấy cả xác người, xác dê. Năm ấy phát hiện hơn hai trăm xác dê và mười lăm xác người bị tuyết lở đè chết, các xác người đều cứng đơ, có bộ mặt hoảng hốt và trắng như tờ giấy.

Các tấm ảnh của cha tôi thể hiện rõ một quãng đời trong những năm tháng đó. Trên bức ảnh ố vàng, cha tôi đứng trên xe ủi, mỉm cười dưới nắng, bên cạnh là một chàng trai trẻ hơn. Cha tôi bảo anh ấy tên Cường, anh ấy cùng với ba người nữa đã rơi xuống sông băng và chết, khi đang ủi tuyết. Cha tôi nói trong nước mắt.

Tôi có thể tưởng tượng hình ảnh chiếc xe ủi rơi xuống vách núi băng, xe nặng, rơi rất nhanh, một tiếng động lớn, tuyết trên các ngọn cây rơi lả tả và bao con người kinh hãi.

Một con báo tuyết đứng trên đỉnh núi băng nhìn ra xa, lát sau nó vươn mình lao đi, màu khoang nâu đỏ biến vào trong tuyết trắng.

Mùa đông năm ấy ánh nắng ban mai và hoàng hôn chiếu trên tuyết trắng làm cha tôi xúc động, ánh nắng màu hồng nhung sẫm và màu đỏ tươi phản chiếu trên tuyết tích tụ ngàn đời, hương thơm bay trong gió núi. Ông đi giày lông da lộn, mặc áo chẽn bằng da, quần da, khoác ngoài một áo choàng lông, bước đi chầm chậm lạo xạo trên băng tuyết. Ông đi về phía mặt trời, tâm tư trĩu nặng mà trống rỗng.

Một hôm ông đứng sững trước mỏm núi.

Mặt bên này của mỏm núi dịch dần ra khỏi lớp rèm của thời gian, chắn trước mặt ông, chùm nắng màu hồng nhung chiếu sáng, gió thổi tuyết bay vào cổ áo ông, ẩm ướt và ấm áp.

Trên đá vẽ rất nhiều người đang nhảy múa, chắc chắn đó là những người dân vùng biên ải mấy ngàn năm trước, ông nghĩ vậy. Rất nhiều hình vẽ mô tả cảnh hoan lạc và giao cấu. Đời sống hoan lạc của người cổ xưa làm cha tôi mê đắm và đau buồn, ông nghĩ rất nhiều, ông nghĩ về quê hương và cuộc sống trồng trọt cấy hái, ông nghe thấy tiếng vó ngựa lóc cóc từ con đường núi trước mặt dội đến, ông quay lại thấy một con ngựa đốm trắng đi tới.

Trên ngựa là một cô gái kiều diễm, người dân tộc, mũi cao, mắt sâu, có thể là người Kadắc, Uygua hay Tatgich. Cô vung nhẹ roi, con ngựa nhẹ nhàng như trôi bồng bềnh đến chỗ ông đứng.

“Anh ơi, doanh trại các anh ở đâu? Em đói rồi, có thịt dê khô và nước nóng không?” Cô nói và nhẹ nhàng xuống ngựa, đến bên cha tôi. Khăn lụa choàng đầu của cô màu đỏ hồng nhung như ngọn lửa. “Sao anh đứng ngây ra thế?” Cô gái hơi giận, “Anh không biết nói à?”

Lúc đó cô mới phát hiện ông đang xem bích họa, cô cũng nheo mắt nhìn bức tranh, rồi quay mặt lại, hai luồng mắt gặp nhau, cha tôi luống cuống.

“Anh đỏ mặt kìa. Này, em hỏi doanh trại anh ở đâu? Đưa em đến được không?” Kiểu cách và giọng nói của cô làm ông giật mình, choáng váng.

❖ VIII ❖

Mùa xuân năm 1943, không khí tanh lỢm. Ông tôi đã sống lặng lẽ bốn năm trong vùng núi Trâu nằm. Bà tôi đẻ ba năm ba người con, trong đó có cha tôi. Bà tôi lúc nào cũng trùm cái khăn trắng, đôi mắt u buồn, lầm lũi đi trong núi như con voi nặng nề.

Họ ở trong núi săn bắn và trồng ngũ cốc để sống. Ở phòng giữa, ông tôi treo đầy những da hổ, đầu sói, chân gấu, xương sọ lợn lòi. Chân trái ông có một vết sẹo lớn, trong sẹo còn cấy một cái răng lợn lòi, thỉnh thoảng lại ánh lên trong bóng tối. Thời gian đó ông tôi đã có thể lái con chim gỗ lượn bay trong núi, nó được sửa lại từ con chim bằng vải. Ông ngồi trong cái làn, hai tay cầm lái và bay lượn, vui thích như trẻ con.

Một buổi chiều cuối xuân, ở trên con chim ông thấy con đường vào núi cuồn cuộn bụi vàng như những đám mây, ông lo sợ và cuống cuống, lướt nhanh trong thung lũng và nhìn rõ cơ man là đầu người nhấp nhô, rõ rồi, đó là dân đói kéo nhau đi như nước lũ.

Đúng như vậy, họ là dân chạy loạn trong năm tai họa, họ có bộ mặt của con châu chấu, trong mắt lấp lánh những mảnh vỡ. Nơi họ đến, những lúa non, quả xanh, gié lúa, lá cây tất cả bị họ ăn rào rào sạch trơn, cả chuột trong hang cũng bị đào lên ăn hết. Có lúc họ đổi con cho nhau để ăn, da thịt trẻ con cuồn cuộn sôi trong các thùng đặt ngay bên đường, cứt đái bê bết khắp nơi. Ông tôi nhìn mà lạnh người, không hiểu ngoài kia chuyện gì đã xảy ra. Mấy ngày bay sau đó ông phát hiện đội quân đói như châu chấu đó đang di chuyển nhanh về sơn trại của ông.

Khi ông về báo cho mọi người biết thì hơn hai trăm con người lớn bé già trẻ ai cũng kinh hãi. Ta không chờ chết, phải chặn họ lại. Bà tôi nói kiên quyết.

Bà tôi dẫn tất cả đàn bà con trẻ vào núi lấy một loại cây gọi là hoàng quyển, và bắt những con rết đầu đỏ, dài bằng gang tay. Đàn ông bắc nồi đun, cho hoàng quyển, rết và phân vào đun, một mùi rất lạ bốc lên. Bà lại cho mọi người ngậm lá địa linh để trừ độc. Hơi trong nồi bốc lên trời, bao nhiêu diều hâu, quạ, chim sẻ, chim ưng theo nhau rơi xuống. Sau đó người ta đổ các thứ vừa đun vào cái thùng có cửa xả trên con chim gỗ của ông rồi ông bay lên theo gió núi.

Tôi thấy lờ mờ hình ảnh ông bay trên trời vào những ngày cuối xuân đầu hạ, ánh mắt ông lạnh lùng và điên dại. Ông bay đến đám người đói và kéo cái cửa xả. Những giọt mưa đen rơi xuống thì lập tức dưới đất dội lên tiếng kêu gào. Người ta bị cái chất dịch đó dính vào thịt là nát thịt và chất độc ngấm toàn thân chết ngay. Khi ông bay đến lần thứ tư thì suốt dọc con đường núi đã la liệt những xác chết đen sì, nhưng ông thấy những người đói vẫn lũ lượt kéo vào.

Cuối cùng ông kêu lên tuyệt vọng. Ông đau buồn nhận ra một điều là con người chẳng còn ý nghĩa và giá trị gì, con người chỉ như loài sâu bọ, bò lúc nhúc trên mặt đất mà chẳng hay biết gì về tai họa đang lơ lửng trên đầu.

Bà tôi đứng bên gốc cây thông ngàn tuổi, tư thế như một nhân vật truyền thuyết, tay đặt trên lông mày, nhìn xuống núi. Cả vùng núi tràn ngập một không khí chết chóc, tiếng nhai lạo xạo như châu chấu gặm lá vẫn văng vẳng đâu đây. Bà thấy rõ bóng ma rùng rợn của cái chết đang kề bên. Kế hoạch tấn công từ trên không của bà rõ ràng chẳng có mấy kết quả, bởi vì dân đói đã xóa sạch mọi thứ, bây giờ họ lại như vô số con rết nhiều chân bò về phía sơn trại.

Sáng tinh mơ ngày thứ bảy, cuối cùng đám dân đói tuyệt vọng đã ùa vào sơn trại. Họ nhe hàm răng sắc nhọn cắn xé mọi loài động vật thực vật. Sau khi chống trả yếu ớt, quá nửa số cư dân bị đánh chết. Ông tôi lợi dụng sự hỗn loạn trèo nhanh lên ngọn cây dâu lớn nấp trong tổ chim ưng, lấy vải rách nhét miệng bít tai cha tôi đang còn nhỏ, ngồi im thin thít.

Cha tôi bảo, ông ôm cha suốt sáu ngày, tận mắt chứng kiến dân đói vét sạch lương thực của ông tích trữ bao năm, ăn thịt những xác người còn hơi ấm. Trong sáu ngày hai cha con ăn trứng chim rồi ông nhai cả sâu để mớm cho cha tôi. Vậy là sống sót.

Sau bảy ngày, dân đói bỏ sơn trại. Màu đỏ máu của hoàng hôn nhuộm đỏ núi đồi. Ông vô cùng đau đớn nhìn đám dân đói khuất dần rồi leo xuống gọi bà tôi, chẳng có hồi âm. Sơn trại trống không, những cuốc xẻng bê bết máu và xương người rải rác. Ông không bao giờ tìm thấy bà nữa.

❖ IX ❖

SuỐt nhỮng năm tháng lỚn lên, tôi ngày càng thấy lạ là không có một cái ảnh nào của mẹ tôi, cũng không có ai nói về mẹ trước mặt tôi, trong ký ức của tôi cũng không có hình bóng mẹ. Sự hiện diện của mẹ như trăng in đáy nước, như hoa trong sương, lúc ẩn lúc hiện, như có như không. Nhưng tôi có khuôn mặt tròn vành vạnh, đôi mắt trũng sâu và bộ râu rậm rì của người Ba Tư, những đặc điểm đó là dấu tích người dân tộc khác của mẹ tôi.

Bao nhiêu năm tháng đã qua đi, tôi vẫn thấy mùa đông năm 1967, cha tôi  đứng xem bích họa trên đèo băng tuyết Thiên Sơn và cười ngượng nghịu.

Hình ảnh người nguyên thủy sinh hoạt, giao phối ca hát nhảy múa trên bức họa đã gây ấn tượng cho cha tôi. Khi đó khắp đất nước Trung Quốc đang nổi lên cơn bão đỏ nhưng ông đang dẫn một tốp người đi ủi tuyết mở đường tận biên giới cho nên tâm trạng ông phẳng lặng như nước hồ. Tôi đoán chừng ông hoài nghi sâu sắc đối với thực trạng đất nước.

Kể từ ngày cô gái dân tộc đến chơi doanh trại, cuộc sống buồn tẻ của mười mấy chàng trai có thay đổi, họ như cảm thấy hương hoa trong khi thời cuộc và thời tiết đều giá lạnh.

Cô gái nói với cha tôi, cô là người Uy-gua, tên là Ainul.

“Ainul nghĩa là gì?” Cha tôi vừa cho than vào lò vừa dè dặt hỏi.

“Là trăng, là vầng trăng đẹp.”

Ainul nhảy cho mọi người xem, cô thanh thoát uốn lưng như con rắn. Đã qua hai mươi năm nhưng tôi vẫn nghe máu chảy trong huyết quản cha tôi.

Câu chuyện không thể tránh khỏi cái kết cục phải có. Trên dốc núi, ngay dưới bức họa đầy sức sống, trên hai chiếc áo choàng lông trải rộng, thân thể cha tôi và Ainul hòa làm một, minh họa thêm cho bức tranh cổ. Biết được những điều này, tôi hẫng hụt chán chường, mẹ tôi là Ainul ư? Đúng vào mùa đông năm đó, tôi trở thành một hạt giống, bắt đầu được nuôi dưỡng và lớn lên trong lòng Ainul.

Cuộc đời của cha tôi bừng sáng, càng làm cho ông nghĩ xa xôi hơn, người dân tộc miền biên ải đã sống và ca hát, đã làm bạn với hổ báo, đi lại trong núi như thế nào. Bầu máu nóng tuổi thanh xuân của ông trào sôi trong những năm tháng đó.

Nhưng khi mùa xuân đến Ainul biến mất trong trùng điệp núi rừng. Tháng tư năm đó cha tôi dẫn đoàn xe ủi xuống núi trong tâm trạng rối như tơ vò, ông rầu rĩ ngước nhìn ngọn núi băng hiu hắt ánh nắng chiều.

Về sau cha tôi mới biết Ainul là một thành viên của bộ tộc người Đaolan của dân tộc Uy-gua. Cách sống của người Đaolan gần như người Digan ở châu Âu, họ lang thang khắp nơi. Họ đi từ thôn làng này đến thôn làng kia, thành phố này đến thành phố khác. Họ đi như nước chảy, xuyên rừng xuyên núi, vượt qua sa mạc, xuất hiện rồi biến mất tại các cộng đồng người định cư, đem lại nguồn vui ngắn ngủi và mới lạ cho mọi người.

Về chuyện tôi sinh ra ở dưới cầu, sau này tìm được chứng cứ. Tình yêu giữa cha tôi và mẹ Ainul của tôi vi phạm tục lệ của người Đaolan là du cư và không được ăn nằm với người khác tộc, cho nên việc biến mất của Ainul đối với người khác là quá đột ngột. Cha tôi cũng không biết tôi đã bắt đầu lớn lên trong bụng mẹ một cách vẻ vang và đầy mưu toan.

Một hôm cha tôi nhận được mảnh giấy với nét chữ xiêu vẹo: “Con anh ở dưới cầu cống ngầm, mang nó về mau lên.”

Ông kinh ngạc, vội chạy đi. Ông thấy một cái túi da dê, bên trong là một cái khăn lụa Nêpan rất quen thuộc bọc một bé trai đỏ hỏn. Nó nhíu mày vì gió lạnh và khóc oe oe, như buồn cho số phận của mình. Thằng bé đó là tôi.

Cha tôi nghĩ phải chăng Ainul chỉ là vầng trăng, lơ lửng trên không trung, ánh sáng từ rất xa, rất xa chiếu xuống, lạnh lẽo nhưng sáng trong.

Rất nhiều năm về sau tôi kiếm được một ít tư liệu về người Đaolan. Nghe nói họ sống ở trung tâm sa mạc Tramacan. Họ đi ngang dọc giữa các thôn làng, thành phố nam bắc Thiên Sơn, mang lại sự vui vẻ cho những người sống khô cứng trong thế giới này. Thế thì người đàn bà trong những người hát hay múa giỏi, có đôi mắt to của người Ba Tư, đầu trùm khăn lụa Nêpan, Ainul, mẹ tôi, con làm thế nào tìm đường đến với mẹ được?

Mối tình ngắn ngủi năm 1960 gây ra vết thương đau đớn thầm kín trong cuộc đời cha tôi. Khi về già ánh mắt ông lúc nào cũng trống rỗng, ngày trăng tròn là ông một mình lang thang trên phố. Năm 1970 trong một ngày mưa ảm đạm, ông cưới một người đàn bà di cư người Tứ Xuyên. Trên tấm ảnh, người đàn bà cười phúc hậu bế tôi vài tháng tuổi và bố tôi với dáng điệu lúng túng, trong phong cảnh buồn bã những năm xa xưa.

❖ X ❖

Ông tôi ôm cha tôi bẢy ngày trên cây, khi bọn người châu chấu đói đi hết mới leo xuống, mặt ông phù nề, ánh mắt lờ đờ mỏi mệt, đi lại như trôi trên không, cả sơn trại tan hoang, đâu đâu cũng thấy xương người, củi cháy. Ông tôi bỏ vải nhét miệng bít tai cha tôi ra, bộ mặt đỏ ửng vì ngạt của cha tôi đẫm nước mắt, cha tôi bật khóc giận dữ, tiếng khóc vang lên khắp sơn trại xơ xác, tức tối nhìn xung quanh, thôn làng như bị gió quét sạch, cảnh tượng này ghi lại trong mắt cha tôi một ấn tượng tuổi thơ không bao giờ xóa nổi.

Khuôn mặt trai trẻ của ông tôi trở nên già nua u buồn và mệt mỏi sau trận cướp bóc ấy. Ông ngồi trên tảng đá ôm cha tôi, chìm sâu vào ký ức xa xưa, xúc động và khổ đau, nhớ đến hai người em chia tay mấy năm trước, bây giờ ở đâu? Chắc rằng cũng xanh xao như ngọn cỏ.

Cha tôi bảo, năm 1943 ông bế cha tôi đi sang phía đông bắc tìm về quê. Ông đi trong vùng núi Trâu nằm loanh quanh thế nào bảy ngày sau lại quay về sơn trại. Ông nghĩ chắc là ông trời bảo đừng đi.

“Sau đó ông bắt đầu dựng lại sơn trại. Ông lấy vợ, tức là mẹ kế của cha, bà là người bó chân, con nhà nông làm nghề dệt vải nhà trong thung lũng. Ông người Xipô học được ở bà nghề trồng lúa, xe sợi dệt vải, lại sinh con đẻ cái. Ban ngày ông lên núi săn thú, tối về học dệt vải, nhặt thóc, cuộc sống êm đềm, no ấm, cho đến một ngày bị quyến rũ bởi một mùi hương kỳ lạ.”

Câu chuyện xảy ra và biến mất cũng thật lạ kỳ, một ngày mùa hè năm đó, trên không trung xuất hiện một sắc màu, ông đang cuốc cỏ trong bãi ngô mơ hồ cảm thấy trên không đang có cái gì.

Ông ngẩng lên nhìn, vô số bướm màu bay rợp trời thành đàn thành cụm hình thù kỳ ảo.

Đàn bướm mỗi lúc một đông thêm thành những đám mây sặc sỡ, rồi thành con rồng lớn theo gió bay xuống núi. Một mùi thơm mê đắm lan ra, ông mê mẩn và đi xuống. Ông lảo đảo đi đến một cái hang, bướm vẫn theo nhau bay vào hang.

Trong hang nước chảy róc rách, ếch kêu ồm ộp, ánh nước hắt lên vách hang rung rinh những đường vân sáng. Bướm vẫy cánh không một tiếng động. Mặt ông đầm đìa mồ hôi, ông có dự cảm sẽ xảy ra chuyện gì.

Ông lội nước theo đàn bướm đi sâu vào hang.

Bóng đen trong hang nuốt chửng ông.

Nước mỗi lúc một sâu thêm rồi lại nông dần. Bướm vẫn dẫn ông đi. Vách động có chút ánh sáng, trước mặt là một rừng thạch nhũ tuyệt đẹp, ánh nước sóng sánh. Đàn bướm tụ lại bay lượn, ông bơi theo và dưới ánh sáng mờ ảo ông nhìn thấy một vật nổi trên mặt nước. Đó là một chiếc thuyền lớn bằng gỗ màu nâu đỏ, ông trèo lên.

Tôi không thể nào biết được tâm trạng ông lúc đó thế nào. Ông mò mẫm và thấy mấy thi thể đã chết khô nhiều năm, ông lật xem thì quần áo họ đã thành tro bụi bay lên, ông dọn dẹp thuyền và chèo đi theo dòng sông ngầm.

Từ đó ông rời xa vùng núi Trâu nằm một mạch bốn năm trời, đến tận năm 1947 ông mới xuất hiện trở lại trước mặt bà, lúc đó cha tôi đã cao đến ngực ông. Lúc chèo thuyền đi chắc ông đau buồn và xúc động lắm, ông muốn chèo ra tận biển để tìm châu báu trên con thuyền Ấn Độ bị đánh đắm như bà nội tôi đã kể. Không phải ông thích châu báu mà ông mê muội trong hoang tưởng. Thậm chí ông nghĩ linh hồn bà chỉ lối cho ông, bảo ông đi ra biển. Năm đó ông chèo thuyền trên dòng nước ngầm như chèo xuyên qua thời gian, làm sao mà đến nơi được? Ông có thể tìm được châu báu và giấc mơ đã chìm sâu đáy biển năm 1937 chăng? Ông tôi chắc cũng như chính tôi, chẳng thể nào biết được.

❖ XI ❖

Cha tôi đỨng bên mỘt sa mẠc cẰn khô, qua lớp cát bụi nhìn tôi lớn lên như mùa xuân trông chờ mùa thu lúa chín. Cuối những năm 1970, hình ảnh cha tôi không còn rõ nét. Ông là một người cẩn thận, ông không bao giờ xốc nổi làm điều gì mù quáng. Cuối những năm 70, bầu trời Trung Quốc phủ đầy mây đen, tiếng sấm ầm ì trong lớp lớp mây mù. Động đất lớn và ba vĩ nhân từ trần, thời kỳ thần thoại chấm hết.

Mùa xuân năm 1977, tuyết tích tụ suốt mùa đông tan thành dòng nước đen ngòm, chim hót và chuồn chuồn bay khắp nơi, một trận mưa ếch kỳ lạ rơi xuống thành phố, ếch kêu inh ỏi trong đêm. Hàng đàn sơn dương đen, sơn dương trắng đi quanh phố, đến bãi chăn thả mùa hè xa tít đâu đó. Một hôm mặt đất mọc đầy những cây nấm sặc sỡ, một vật lạ bay tới, làm nổ tung một ngôi mộ cổ trên cánh đồng ngoài thành phố. Những bức tường cổ  đêm đến là kêu rào rào, chui ra vô số chuột, gián, muỗi. Cùng với những sự kiện lạ lùng như thế, một đêm cha tôi bừng tỉnh giấc, ngoài cửa sổ một vầng trăng sáng vằng vặc lơ lửng trên trời, trái tim ông đập rộn lên. Ông quyết định làm một việc.

Năm 1977 cha tôi ra đi biệt tích.

Bấy giờ tôi đang thời trai trẻ, đã trải qua tình yêu điên rồ và nồng cháy cho nên khi biết chuyện thì tôi tin và hoàn toàn hiểu được. Qua làn sương của thời gian tôi nhìn thấy cha ánh mắt kiên nghị và si mê, len lỏi qua sa mạc Gôbi, qua băng tuyết, núi rừng. Ông phải đi tìm Ainul, vầng trăng đẹp, mẹ đẻ của tôi. Có khi ông hoài nghi sự tồn tại của bà, phải chăng người đó chỉ có trong mơ, trong ảo tưởng. Ông như một tín đồ đêm ngày bươn chải vượt chông gai đi về phía nam Tân Cương.

Sau này ông kể lại, trong lòng ông chỉ c?