Chương 1
Tôi đứng trên ban công khắc đá, dang rộng hai tay, cả người run lẩy bẩy trong trang phục rẻ tiền, cố diễn tròn màn kịch hoàn hảo. Bộ kefta của tôi là một miếng vải chắp vá được may lại từ những mẩu vụn của chiếc áo choàng tôi mặc vào cái đêm trốn khỏi cung điện, cùng mấy tấm màn cửa sặc sỡ nghe nói được lấy từ một nhà hát đã sụp đổ đâu đó gần Sala. Áo được tô điểm bằng những chuỗi hạt trên chùm đèn treo trong hành lang. Họa tiết thêu ở tay áo gần sút chỉ. David và Genya đã cố gắng hết sức, nhưng tài nguyên bên dưới lòng đất thì có hạn.
Nhìn từ xa trông nó vẫn ổn, sắc vàng lung linh giữa ánh đèn như thể phát ra từ lòng bàn tay tôi, lan tỏa từng đợt lấp lánh rạng ngời trên khuôn mặt mê mẩn của đoàn môn đệ ở phía xa bên dưới. Khi đến gần, tất cả chỉ là những bó chỉ lỏng lẻo và nguồn sáng giả tạo. Giống như tôi. Thánh nữ xác xơ.
Giọng của Lão Tư Tế rền vang khắp Giáo Hội Trắng, và đám đông quay cuồng, mắt nhắm nghiền, tay giơ cao, một cánh đồng thuốc phiện, những cánh tay như cuống hoa nhợt nhạt đung đưa trong cơn gió vô hình mà tôi không thấy được. Tôi làm theo một chuỗi hành động được sắp đặt, cố ý di chuyển sao cho David và người Tiết Hỏa Sư phụ giúp anh vào sáng hôm đó có thể dõi theo cử động của tôi từ mật thất ngay phía trên ban công. Tôi chán ghét những buổi cầu nguyện sáng, nhưng theo lời lão linh mục thì, hình ảnh dối trá này rất cần thiết.
“Đấy là món quà cô tặng cho tín đồ của mình, Sankta Alina,” lão giải thích. “Là hy vọng”.
Trên thực tế, nó là một ảo vọng, một ám thị nhạt nhòa của ánh sáng một thời tôi từng nắm giữ. Quầng sáng màu vàng thật ra là lửa của Tiết Hỏa Sư, phản chiếu lại từ một chiếc đĩa gương tồi tàn được David tạo nên bằng những mảnh thủy tinh còn sót lại. Nó giống như thứ chúng tôi đã dùng khi cố cản đường tiến của đội quân Hắc Y ở Os Alta nhưng thất bại. Chúng tôi bị đánh úp bất ngờ; và năng lực của tôi, kế hoạch của chúng tôi, tất cả kỹ nghệ của David, kể cả sự tháo vát của Nikolai cũng không đủ để ngăn chặn cuộc thảm sát. Từ đó, tôi không thể triệu hồi nổi dù chỉ một tia nắng nhỏ nhoi. Nhưng hầu hết đám đông của Lão Tư Tế chưa bao giờ nhìn thấy khả năng thật sự của Thánh nữ mà họ tôn thờ, và hiện tại, trò lừa đảo này xem như tạm đủ.
Lão Tư Tế kết thúc bài giảng của mình. Đấy là tín hiệu chấm dứt. Người Tiết Hỏa Sư để luống sáng bừng lên quanh tôi. Nó nhấp nháy và rung rinh một cách cuồng loạn, cuối cùng mới mờ đi lúc tôi bỏ tay xuống. Chà, giờ thì tôi biết hôm nay ai là người trực chung với David rồi. Tôi quắc mắt nhìn về phía hang động. Harshaw. Hắn ta lúc nào cũng làm quá trớn. Sau trận chiến ở Tiểu Điện chỉ có ba Tiết Hỏa Sư còn sống, nhưng một người đã chết chỉ sau đó vài ngày vì vết thương của cô. Trong số hai người còn lại, Harshaw là kẻ uy lực và khó đoán nhất.
Tôi bước xuống bục, nôn nóng thoát khỏi sự hiện diện của Lão Tư Tế, nhưng chân tôi loạng choạng suýt ngã. Lão liền nắm lấy tay và đỡ tôi đứng vững.
“Cẩn thận đấy, Alina Starkov. Cô quá bất cẩn với an nguy của bản thân.”
“Cảm ơn,” tôi nói. Tôi muốn tránh xa lão, tránh xa mùi bùn đất và nhang trầm hôi thối lão mang trên người.
“Hôm nay cô có vẻ không khỏe.”
“Chỉ vụng về chút thôi.” Cả hai đều biết đấy là lời nói dối. Tôi đã khỏe hơn hồi mới đến Giáo Hội Trắng - những khớp xương đã lành lặn, tôi cũng không nôn hết thức ăn nữa - nhưng tôi vẫn còn yếu, cơ thể như bị đày đọa bởi những cơn đau nhức và mỏi mệt liên miên.
“Vậy thì, một ngày để nghỉ ngơi nhé.”
Tôi nghiến răng. Lại một ngày bị giam cầm trong buồng ngủ. Tôi cố nén giận và yếu ớt mỉm cười. Tôi biết lão muốn thấy điều gì.
“Tôi lạnh lắm,” tôi nói. “Vài ngày ở Kettle sẽ giúp tôi thấy ổn hơn.” Thành thực mà nói, đó là sự thật. Nhà bếp là nơi duy nhất không bị ẩm thấp trong Giáo Hội Trắng. Ngay lúc này, ít nhất một lò sưởi dùng cho buổi sáng sẽ được thắp lên. Hang động lớn hình tròn sẽ chìm trong mùi thơm của bánh mì đang nướng và cháo yến mạch ngọt ngào được đầu bếp nấu từ đậu khô dự trữ và sữa bột do đồng minh trên mặt đất cung cấp.
Tôi vờ run lên để tăng tính thuyết phục, nhưng câu trả lời duy nhất của lão linh mục chỉ là một chữ “hừm” vô thưởng vô phạt.
Tiếng di chuyển ở bên dưới hang động làm tôi chú ý: những người hành hương, tất cả đều mới đến. Tôi không thể ngăn mình nhìn họ bằng con mắt chiến lược. Một vài người mặc quân phục cho thấy họ là lính đào ngũ của Thượng Quân. Tất cả đều trẻ trung và khỏe mạnh.
“Không có cựu binh?” Tôi hỏi. “Hay góa phụ?”
“Cuộc sống dưới lòng đất là một hành trình khó khăn,” Lão Tư Tế đáp lại. “Nhiều người quá già hoặc quá yếu để chuyển đi. Họ thích sống thoải mái trong nhà mình hơn.”
Không thể nào. Những người hành hương chống nạng và gậy để đến đây, bất kể già nua hay bệnh tật. Dù sắp chết, họ vẫn đến đây vào những ngày cuối đời để được diện kiến Thần Mặt Trời. Tôi thận trọng ngoái nhìn sau vai. Tôi chỉ thoáng thấy qua cận vệ của Lão linh mục, những gã râu ria được trang bị vũ trang hiện đang đứng gác ở lối đi. Bọn họ là những nhà sư, những linh mục thông thái như Lão Tư Tế, và là những người duy nhất được phép mang vũ khí dưới đường hầm. Trên mặt đất, họ là người gác cổng, săn đuổi quân do thám và những kẻ vô thần, ban ơn trú ẩn cho những người họ nghĩ là xứng đáng. Gần đây, số lượng đoàn hành hương đang dần suy yếu, và những cá nhân gia nhập hàng ngũ của chúng tôi có vẻ nồng nhiệt hơn là ngoan đạo. Lão Tư Tế muốn những chiến binh tiềm năng, không phải những cái miệng đói ăn.
“Tôi có thể đến chỗ người già và bệnh nhân,” tôi đề nghị. Tôi biết tranh cãi là vô ích, nhưng tôi vẫn lên tiếng. Đây là điều gần như được đoán trước. “Thánh nữ nên đồng hành cùng dân chúng, không phải lẩn trốn như chuột cống dưới hang.”
Lão Tư Tế mỉm cười - nụ cười nhân đức, khoan dung mà giáo dân ngưỡng mộ nhưng khiến tôi muốn thét lên. “Vào thời điểm khó khăn, nhiều loài động vật sẽ chui xuống lòng đất. Đấy là cách chúng sống sót,” lão nói. “Sau khi lũ xuẩn ngốc phát động chiến tranh, chuột cống sẽ là loài cai trị ruộng đồng và thị trấn.”
Và mở tiệc ăn mừng trên xác chết, tôi rùng mình nhủ thầm. Như thể đọc được ý nghĩ, lão linh mục nhấn một tay lên vai tôi. Những ngón tay dài và trắng nhợt, vươn khắp tay tôi như một con nhện sáp. Nếu đây là cử chỉ nhằm để an ủi thì lão thất bại rồi.
“Hãy kiên nhẫn, Alina Starkov. Chúng ta chỉ trỗi dậy đúng lúc chứ không sớm hơn.”
Kiên nhẫn. Nó luôn là đơn thuốc của lão. Tôi cố kiềm chế mong muốn được chạm vào cổ tay trơ trọi của mình, khoảng trống đáng ra sẽ đón nhận vòng xương của Hỏa Điểu. Tôi đã có vảy của Hải Long và sừng con hươu đực, nhưng mảnh ghép cuối cùng trong câu đố của Morozova vẫn mất tích. Chúng tôi đã có thể sở hữu bộ khuếch đại thứ ba nếu Lão Tư Tế chịu góp sức tìm kiếm, hoặc để chúng tôi quay lại mặt đất cũng được. Nhưng sự chấp thuận ấy phải trả bằng một cái giá.
“Tôi lạnh lắm,” tôi lặp lại, cố chôn vùi nỗi bực dọc của mình. “Tôi muốn đến Kettle.”
Lão cau mày. “Ta không thích cô túm tụm bên dưới đó với con bé kia…”
Đằng sau chúng tôi, bọn lính canh lao xao không ngừng, và tôi thoáng nghe được một từ. Razrusha’ya. Tôi hất tay Lão Tư Tế ra và giậm chân về phía lối đi. Đám cận vệ bắt đầu đứng nghiêm. Cũng như các huynh đệ khác của mình, bọn họ mặc áo nâu đính hình mặt trời, giống như biểu tượng trên áo choàng của Lão Tư Tế. Biểu tượng của tôi. Nhưng họ chưa bao giờ trực tiếp nhìn tôi, chưa bao giờ nói chuyện với tôi hoặc những Grisha tị nạn khác. Thay vào đó, họ im lặng đứng ở góc phòng và theo chân tôi khắp nơi như những bóng ma râu ria mang súng trường.
“Tôi cấm các người nói cái tên đó,” tôi lên tiếng. Họ nhìn thẳng về phía trước, như thể tôi không hề tồn tại. “Tên cô ấy là Genya Safin, và tôi vẫn còn là tù nhân của Hắc Y nếu không có cô ấy.” Không phản ứng. Nhưng tôi thấy họ cứng người khi mới nghe tên cô ấy. Những gã đàn ông cao lớn mang súng, rốt cuộc lại sợ hãi một cô gái sứt sẹo. Lũ ngốc mê tín.
“XIN HÃY NGUÔI GIẬN, SANKTA ALINA,” Lão Tư Tế cất lời, kéo khuỷu tay tôi và xua tôi băng qua lối đi đến phòng tiếp khách của lão. Viên đá có vân màu bạc trên trần nhà được chạm khắc thành hình hoa hồng, và những bức tường được vẽ hình các Thánh với vòng hào quang rực sắc vàng. Ắt hẳn chúng được tạo nên nhờ tay nghề của các Sáng Chế Gia, vì không bút mực bình thường nào có thể chống chọi trước giá lạnh và ẩm thấp trong Giáo Hội Trắng. Lão linh mục ngồi xuống một cái ghế gỗ thấp và ra hiệu cho tôi làm theo. Tôi cố giấu vẻ nhẹ nhõm khi ngồi xuống một chiếc ghế khác. Chỉ mỗi việc đứng quá lâu cũng đủ khiến tôi đứt hơi.
Lão nhìn tôi chằm chằm, lướt qua nước da tái xanh và quầng thâm bên dưới mắt tôi. “Ắt hẳn Genya có thể giúp cô nhiều hơn.”
Đã hơn hai tháng kể từ trận chiến với Hắc Y, và tôi vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Gò má tôi cắt ngang hai trũng sâu hoắm như những dấu chấm than giận dữ, và những sợi tóc bạc xơ xác trông y hệt tơ nhện. Cuối cùng tôi đã thuyết phục Lão Tư Tế cho phép Genya dùng bữa trong bếp cùng tôi, với lời hứa rằng cô ấy có thể sử dụng năng lực của mình và khiến tôi trông khá hơn. Đấy là mối giao tiếp thực sự duy nhất với những Grisha khác mà tôi có được trong vài tuần nay. Tôi sẽ trân trọng từng khoảnh khắc, từng chi tiết nhỏ nhoi nhất.
“Cô ấy đang cố gắng hết sức,” tôi nói.
Lão linh mục thở dài. “Ta đoán tất cả chúng ta đều phải kiên nhẫn. Theo thời gian, cô sẽ dần hồi phục. Bằng niềm tin. Bằng nguyện cầu.”
Cơn thịnh nộ chợt dấy lên trong tôi. Lão thừa biết cách duy nhất có thể giúp tôi lành lại chính là sử dụng năng lượng của bản thân, nhưng để làm điều đó, tôi cần phải trở lên mặt đất.
“Ông chỉ cần để yên cho tôi quay trở lại…”
“Cô quá quan trọng với chúng ta, Sankta Alina, và rủi ro thì lớn vô cùng.” Lão nhún vai ra chiều ăn năn. “Cô không để tâm đến an nguy của mình, nên ta phải làm thế.”
Tôi giữ im lặng. Đây là trò mà hai chúng tôi đã chơi từ lúc tôi bị đưa đến đây. Lão Tư Tế đã giúp tôi rất nhiều. Lão là lý do duy nhất mà đoàn Grisha của tôi có thể thoát khỏi trận chiến với lũ quái vật của Hắc Y. Nhưng càng ngày Giáo Hội Trắng càng giống một nhà tù hơn trại tị nạn.
Lão chụm mười đầu ngón tay vào nhau. “Đã mấy tháng trôi qua, vậy mà cô vẫn không tin tưởng ta.”
“Có chứ,” tôi nói dối. “Dĩ nhiên là có.”
“Thế nhưng, cô không để ta giúp cô. Một khi bắt được Hỏa Điểu, tất cả có thể sẽ thay đổi.”
“David đang nghiên cứu ghi chép của Morozova. Tôi đảm bảo câu trả lời ở trong đó.”
Ánh nhìn u ám của Lão Tư Tế xoáy sâu vào tôi. Lão ngờ rằng tôi biết được vị trí của Hỏa Điểu - bộ khuếch đại thứ ba của Morozova và chìa khóa để tháo gỡ nguồn năng lượng độc nhất có thể đánh bại Hắc Y và tiêu diệt Vực Tối. Và lão đoán đúng. Ít nhất đấy là điều tôi mong muốn. Manh mối duy nhất chúng tôi có đã bị chôn vùi trong ký ức tuổi thơ hiếm hoi của tôi, cùng hy vọng rằng những điêu tàn ám bụi của Dva Stolba che giấu nhiều thứ hơn vẻ bề ngoài. Nhưng dù đúng hay sai thì tung tích của Hỏa Điểu vẫn là một bí mật tôi muốn giữ. Tôi đã bị cách ly ở bên dưới lòng đất, gần như vô dụng, lại thêm bọn cận vệ theo dõi suốt ngày đêm. Tôi sẽ không từ bỏ lợi thế của mình dù chỉ là một chút.
“Ta chỉ muốn điều tốt đẹp nhất cho cô, Alina Starkov. Cho cô và những người bạn của cô. Số ít hiếm hoi còn sót lại. Nếu có gì xảy đến với họ…”
“Để họ yên,” tôi gầm gừ, quên mất phải giả vờ ngọt ngào, giả vờ ngoan ngoãn.
Cái nhìn của Lão Tư Tế trông đắc ý hơn những gì tôi muốn. “Ý ta chỉ là tai nạn thường xảy ra bên dưới lòng đất. Ta biết cô sẽ cảm nhận từng mất mát một cách sâu sắc, và cô thì vô cùng, vô cùng yếu đuối” Môi lão cong lên để hở lợi khi nói đến từ cuối cùng. Chúng đen ngòm như hàm sói.
Một lần nữa, cơn thịnh nộ chạy dọc khắp người tôi. Từ ngày đầu tiên ở Giáo Hội Trắng, những lời đe dọa đã phủ vây giữa không trung, làm tôi ngạt thở với sức ép vững vàng của nỗi sợ. Lão Tư Tế chưa bao giờ bỏ qua cơ hội nhắc nhở tôi về sự bất lực của bản thân. Gần như không suy nghĩ, từng đầu ngón tay giấu trong áo của tôi liền co quắp lại. Bóng tối nhảy vọt lên bốn bức tường trong phòng.
Lão Tư Tế ngả chồm về phía sau ghế. Tôi cau mày, giả vờ ngây thơ. “Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
Lão hắng giọng, hai mắt láo liên từ phải sang trái. “Không… không có gì,” lão lắp bắp.
Tôi liền để vầng tối rơi xuống. Phản ứng của lão đáng để bù lại cơn choáng váng ập tới mỗi lần tôi dùng mẹo vặt này. Và tất cả chỉ có thế. Tôi có thể khiến bóng tối nhảy nhót và múa may, nhưng ngoài ra thì không gì khác. Ấy là một vọng âm nhỏ bé đáng thương từ sức mạnh của Hắc Y, chút tàn dư còn sót lại sau cuộc đối đầu đã suýt giết chết hai chúng tôi. Tôi phát hiện ra nó khi cố triệu hồi ánh sáng, và tôi gắng gượng mài giũa nó thành thứ gì đó tuyệt vời hơn, thứ gì đó để giúp tôi chiến đấu. Kết quả là con số không. Những bóng đen như một hình phạt, những hồn ma của năng lượng quyền uy hơn, tồn tại chỉ để chế nhạo tôi, vị Thánh của bộ tịch và những chiếc gương soi.
Lão Tư Tế đứng dậy, cố lấy lại bình tĩnh. “Cô sẽ đến phòng lưu trữ,” lão dứt khoát cất lời. “Khoảng thời gian học tập và nghiền ngẫm trong yên lặng sẽ giúp cô xoa dịu tinh thần.”
Tôi nén tiếng rên rỉ. Đây quả thật là một sự ngược đãi - hàng tiếng đồng hồ tốn công vô ích để nghiên cứu những văn bản tôn giáo nhằm tìm kiếm thông tin về Morozova. Chưa kể đến phòng lưu trữ ẩm thấp, tồi tàn, và lúc nhúc bọn cận vệ của Giáo hội. “Ta sẽ hộ tống cô,” lão nói thêm. Tuyệt vời chưa kìa.
“Còn Kettle?” tôi hỏi, cố giấu nỗi tuyệt vọng trong giọng nói.
“Để sau. Razru- Genya sẽ đợi,” lão nói trong lúc tôi theo sau lão đi vào đường hầm. “Cô không cần phải gấp rút đến Kettle, cô biết chứ. Cô có thể gặp cô ấy ở đây. Trong riêng tư.”
Tôi liếc qua bọn cảnh vệ, những kẻ sớm đã dợm bước theo sau chúng tôi. Riêng tư. Thật nực cười. Nhưng ý nghĩ về việc bị cấm vào bếp thì không. Có thể hôm nay đường ống chính sẽ được mở lâu hơn vài giây. Một hy vọng mong manh, nhưng nó là tất cả hy vọng tôi có.
“Tôi thích Kettle hơn,” tôi đáp. “Ở đấy rất ấm.” Tôi cho lão thấy nụ cười nhu mì nhất của mình, để môi hơi run rẩy, rồi nói thêm, “Nó làm tôi nhớ nhà.”
Lão thích điều đó - hình ảnh một cô gái khiêm tốn, lom khom bên bếp lửa, áo xống lấm lem bụi tro. Một ảo ảnh khác, một chương khác trong cuốn sách Thánh nhân của lão.
“Được thôi,” cuối cùng lão nói.
Mất một lúc lâu để chúng tôi đi xuống từ ban công. Cái tên Giáo Hội Trắng bắt nguồn từ những bức tường thạch cao và hang động chính khổng lồ của nó, nơi chúng tôi hành lễ vào mỗi buổi sáng và tối. Nhưng nó còn hơn thế nữa - một mạng lưới hầm ngầm và hang động chằng chịt, một thành phố dưới lòng đất. Tôi căm ghét từng milimet nhỏ của nó. Hơi ẩm rò rỉ xuyên tường, nhỏ giọt từ trần cao, hợp thành từng cụm lấm tấm trên da tôi. Nỗi ớn lạnh chẳng thể nào xua tan. Những cây nấm độc và hoa nở về đêm mọc lên từ những vết nứt và kẽ hở. Tôi ghét cách chúng tôi ấn định giờ giấc: Lễ sáng, cầu nguyện trưa, lễ tối, ngày các Thánh, ngày ăn kiêng và nửa ăn kiêng. Nhưng trên hết, tôi ghét cảm giác thấy bản thân là một con chuột nhỏ, lông trắng mắt đỏ, cào cấu những bức tường mê cung bằng móng vuốt ửng hồng khẳng khiu của mình.
Lão Tư Tế dắt tôi xuyên qua những hang động ở phía Bắc của lòng trũng chính, nơi nhóm Soldat Sol tập huấn. Dân chúng nép mình vào đá hoặc vươn tay chạm vào tay áo hoàng kim của tôi lúc cả hai đi ngang. Chúng tôi thả bước chậm rãi, trang nghiêm - cần phải thế. Tôi không thể đi nhanh hơn mà không đứt hơi cho được. Đám đông của Lão Tư Tế biết tôi đang bệnh và cầu nguyện cho sức khỏe của tôi, nhưng lão sợ họ sẽ hoảng lên nếu phát hiện ra tôi mỏng manh - và giống người thường - đến chừng nào.
Lúc chúng tôi đến thì nhóm Soldat Sol đã bắt đầu tập huấn. Họ là những thánh kỵ sĩ của Lão Tư Tế, những chiến binh mặt trời xăm biểu tượng của tôi trên cánh tay và mặt. Phần lớn là lính đào ngũ của Thượng Quần, dù những người khác chỉ là những kẻ trẻ dại, nhiệt huyết, và sẵn sàng hy sinh. Họ đã góp phần cứu tôi thoát khỏi Tiểu Điện, và thương vong nghiêm trọng vô cùng. Thánh kỵ sĩ hay không, họ vẫn không địch lại bầy nichevoʼya của Hắc Y. Tuy nhiên, phục vụ Hắc Y vẫn có quân đội thường dân và Grisha, nên nhóm Soldat Sol bắt đầu tập huấn.
Nhưng bây giờ họ không làm thế với vũ khí thật, thay vào đó là kiếm giả và súng trường nhồi đạn sáp. Soldat Sol là một thể loại hành hương khác, họ đến thờ cúng Thần Mặt Trời vì lời hứa về sự thay đổi, nhiều người còn trẻ và cảm thấy mâu thuẫn trước Lão Tư Tế và đường lối cổ hủ của nhà thờ. Từ khi tôi xuống dưới lòng đất, Lão Tư Tế đã kiểm soát chặt chẽ hơn. Lão cần họ, nhưng lão không hoàn toàn tin tưởng họ. Tôi biết cảm giác đó.
Đội cảnh vệ đứng dọc tường, theo dõi sít sao cuộc tập huấn. Đạn của họ là thật, và kiếm lưỡi cong cũng vậy.
Trong lúc tiến vào khu vực tập huấn, tôi thấy một nhóm họp lại để xem Mal đấu với Stigg, một trong hai Tiết Hỏa Sư còn sống sót. Anh ta có cái cổ to bè, tóc vàng, và không chút khiếu hài hước nào - máu Fjerda ăn vào tận xương tủy.
Mal tránh được quầng lửa, nhưng áo cậu ấy bắt phải đợt phụt lửa thứ hai. Đám đông đứng xem liền thở dốc. Tôi tưởng cậu ấy sẽ lùi lại, nhưng thay vào đó cậu ấy xông lên. Cậu ấy cuộn người lao tới, lăn trên đất dập lửa và đánh cho Stigg hụt chân ngã nhào. Trong nháy mắt, cậu ấy đã đè được người Tiết Hỏa Sư nằm sấp xuống. Cậu giữ chặt cổ tay của Stigg, ngăn anh ta tấn công tiếp.
Nhóm chiến binh mặt trời đương dõi theo vỡ òa trong tiếng huýt sáo và vỗ tay tán thưởng.
Zoya hất mái tóc đen bóng của mình qua một bên vai. “Giỏi lắm, Stigg. Anh đã được trói lại và sẵn sàng để phết mỡ đem nướng.”
Ánh nhìn của Mal khiến cô ta im bặt. “Mất tập trung, mất vũ khí, mất lợi thế,” cậu nói. “Bí quyết chính là không được hoảng loạn.” Cậu nhỏm dậy và giúp Stigg đứng lên. “Anh không sao chứ?”
Stigg nổi quạu, nhăn nhó, nhưng vẫn gật đầu và chuyển sang đấu với một nữ binh trẻ đẹp.
“Coi nào, Stigg,” cô gái nhăn răng cười. “Tôi sẽ không mạnh tay với anh đâu.”
Khuôn mặt cô ấy trông khá quen, nhưng tôi phải mất một lúc mới nhớ ra - Ruby. Mal và tôi đã huấn luyện cùng cô ấy ở Poliznaya. Cô ấy ở cùng trung đoàn với cả hai. Tôi nhớ cô ấy hớn hở, hay cười khúc khích, loại con gái sôi nổi, ưa tán tỉnh luôn làm tôi bối rối và vô vọng dưới lớp vỏ của mình. Cô vẫn giữ được nụ cười thường trực ấy, bím tóc dài vàng rực ấy. Nhưng kể cả nhìn từ xa, tôi vẫn có thể thấy vẻ thận trọng trong cô, sự thận trọng có được từ chiến trận. Có một hình xăm mặt trời màu đen phía bên phải khuôn mặt cô. Thật lạ khi nghĩ rằng cô gái ngày nào từng ngồi đối diện tôi trong đại sảnh hỗn độn nay lại xem tôi như thần thánh.
Hiếm khi Lão Tư Tế hay cận vệ của lão dẫn tôi đến phòng lưu trữ bằng đường này. Hôm nay có gì khác? Lão đem tôi đến đây để tôi có thể nhìn những mảnh vụn còn lại từ đội quân của mình và nhớ đến cái giá phải trả cho sai lầm của bản thân? Để cho tôi thấy đồng minh của mình ít ỏi thế nào?
Tôi nhìn Mal bắt cặp những chiến binh mặt trời với Grisha. Có Tiết Khí Sư: Zoya, Nadia và em trai Adrik của cô. Cùng với Stigg và Harshaw, họ là những người cuối cùng trong đội Tiết Độ Sư của tôi. Nhưng tôi không thấy Harshaw đâu cả. Hắn ta chắc đã lăn vào giường trở lại sau khi triệu hồi lửa cho tôi trong buổi cầu nguyện sáng.
Về phía Tâm Y, những Độc Tâm Y duy nhất đứng trên sân tập huấn là Tamar và ông anh sinh đôi bự con của cô, Tolya. Tôi nợ họ mạng sống của mình, nhưng món nợ ấy tôi vẫn thấy không thỏa đáng. Họ thân cận với Lão Tư Tế, làm theo chỉ thị của nhóm Soldat Sol, và nói dối tôi hàng tháng liền ở Tiểu Điện. Tôi không biết phải làm gì với họ. Lòng tin là một xa xỉ phẩm mà tôi khó lòng sở hữu.
Những chiến binh còn lại phải chờ tới lượt đấu tập. Đơn giản vì có quá ít Grisha. Genya và David thích sống tách biệt, và đằng nào họ cũng chẳng mấy thích hợp để đấu tay đôi. Maxim là một Thiện Tâm Y và thích rèn luyện y thuật của mình trong phòng y tế hơn, dù cũng có một vài môn đồ của Lão Tư Tế đủ tin tưởng vào Grisha để đến nhờ anh chữa thương. Sergei là một Độc Tâm Y quyền năng, nhưng tôi nghe nói anh ta không thật sự ổn định để được phép ở gần học sinh. Anh ta đã xuất hiện trong thời khắc ác liệt nhất của cuộc chiến, khi Hắc Y mở đợt tấn công bất ngờ, đã chứng kiến người con gái mình yêu bị lũ quái vật xé xác. Chúng tôi đánh mất Độc Tâm Y duy nhất còn lại vì lũ nichevoʼya đâu đó giữa Tiểu Điện và nhà thờ.
Bởi vì mày, một giọng nói vang lên trong đầu tôi. Vì mày không thể bảo vệ họ.
Tôi được dời khỏi luồng suy tư ảm đạm bằng giọng của Lão Tư Tế. “Cậu ta đã đi quá giới hạn.”
Tôi dõi theo ánh mắt lão đến nơi Mal đang di chuyển giữa những chiến binh, trò chuyện với người này hay chỉnh lỗi cho kẻ khác. “Cậu ấy đang giúp họ tập luyện,” tôi nói.
“Cậu ta đang ra chỉ thị. Oretsev,” lão linh mục cất tiếng, vẫy tay bảo cậu lại gần. Tôi cứng người, nhìn Mal dần tiến đến. Tôi hầu như không được gặp cậu kể từ khi cậu bị cấm đến phòng ngủ của tôi. Ngoại trừ những lần tương tác được phân chia kỹ lưỡng của tôi với Genya, Lão Tư Tế cô lập tôi khỏi những đồng minh có tiềm năng.
Mal trông khác hẳn. Cậu ấy mặc tấm áo vải thường dân đã từng là đồng phục của mình ở Tiểu Điện, nhưng cậu gầy hơn, nhợt nhạt hơn bởi khoảng thời gian ở bên dưới mặt đất. Vết sẹo nhỏ trên cằm của cậu giờ trông nổi bật hơn.
Cậu dừng lại trước tôi và cúi chào. Đây là khoảng cách gần nhất chúng tôi được phép ở cạnh nhau suốt mấy tháng qua.
“Ở đây cậu không phải đội trưởng,” Lão Tư Tế nói. “Tolya và Tamar có cấp bậc cao hơn.”
Mal gật đầu. “Đúng vậy.”
“Thế tại sao cậu lại chỉ huy bài tập luyện?”
“Tôi không chỉ huy gì cả,” cậu đáp. “Tôi có thứ để dạy. Họ có thứ để học.”
Chính xác, tôi cay đắng thầm nghĩ. Mal đã trở nên thiện nghệ trong việc chiến đấu với Grisha. Tôi nhớ hình ảnh cậu bầm dập và đẫm máu, đứng trên một Tiết Khí Sư trong chuồng ngựa ở Tiểu Điện, ánh nhìn khiêu khích và khinh miệt trong mắt. Một ký ức nữa mà tôi không cần đến.
“Sao những thành viên mới kia vẫn chưa được đánh dấu?” Lão Tư Tế hỏi, hướng tay về phía nhóm trẻ đang tập với kiếm gỗ gần bức tường phía xa. Không ai trong số chúng có thể lớn hơn mười hai tuổi.
“Bởi vì chúng là trẻ con,” Mal trả lời, giọng nói như đóng băng.
“Đấy là lựa chọn của chúng. Cậu sẽ chặn đứng cơ hội được bày tỏ lòng trung thành nơi chúng vì chính nghĩa của chúng ta sao?”
“Tôi sẽ chặn đứng nỗi ân hận của chúng.”
“Không ai có được quyền đó.”
Thớ cơ ở quai hàm Mal co giật. “Nếu chúng ta thua trận, những hình xăm đó sẽ tố giác chúng là chiến binh mặt trời. Bọn trẻ bây giờ chẳng khác nào đang đăng kí để đối mặt với đội hành quyết cả.”
“Có phải vì thế mà cậu không xăm hình trên mặt? Vì lòng tin chiến thắng của cậu quá ít?”
Mal liếc sang tôi, rồi quay lại Lão Tư Tế. “Tôi dành niềm tin của mình cho Thánh Thần,” cậu công bằng giảng giải. “Không phải những gã đưa lũ trẻ vào chỗ chết.”
Lão linh mục nheo mắt.
“Mal nói đúng,” tôi chen vào. “Không cần đánh dấu lũ trẻ đâu.” Lão Tư Tế lại dò xét tôi bằng ánh nhìn u tối ấy. “Làm ơn,” tôi khẽ nói, “xem như là ban phước cho tôi vậy.”
Tôi biết lão thích giọng điệu ấy đến thế nào - dịu dàng, ấm áp, một giọng nói tựa lời ru.
“Thật là một tấm lòng nhạy cảm,” lão tặc lưỡi. Nhưng tôi có thể thấy lão đương hài lòng. Dù tôi đã phản đối ý nguyện của lão, nhưng đây mới là vị Thánh lão muốn tôi trở thành, một người mẹ hiền từ, niềm ủi an cho dân chúng. Tôi bấm chặt móng vào lòng bàn tay.
“Đó là Ruby, phải không?” Tôi hỏi, nôn nóng đổi chủ đề và chuyển sự chú ý của Lão Tư Tế sang hướng khác.
“Cô ấy vừa đến cách đây vài tuần,” Mal bảo. “Cô ấy cừ lắm - xuất thân bộ binh mà.” Dầu không cố ý, tôi vẫn có chút nhức nhối vì ganh tị.
“Trông Stigg có vẻ không vui,” tôi nhận xét, hất đầu về phía người Tiết Hỏa Sư đang trút giận lên Ruby. Cô ấy đang cố gắng cầm cự, nhưng rõ ràng đã bị áp đảo hoàn toàn.
“Anh ta không thích bị đánh bại.”
“Mình nghĩ thậm chí bồ còn chẳng đổ mồ hôi.”
“Ừ,” cậu ấy nói. “Đấy mới là vấn đề.”
“Tại sao?” Lão Tư Tế thắc mắc.
Mắt Mal lướt qua tôi trong thoáng chốc. “Ông học được nhiều hơn qua việc thua cuộc.” Cậu ấy nhún vai. “Ít nhất vẫn còn Tolya để đá đít tôi.”
“Ăn nói cẩn thận đấy,” Lão Tư Tế gắt lên.
Mal lờ lão đi. Một cách đột ngột, cậu ấy đặt hai ngón tay lên môi và huýt một tiếng sáo cao vót. “Ruby, cô đang để lộ sơ hở!”
Đã quá muộn. Bím tóc của cô ấy bừng cháy. Một chiến binh trẻ tuổi khác cầm xô nước chạy đến và đổ lên đầu cô.
Tôi nhăn mặt. “Cố đừng chiên giòn quá nhé.”
Mal cúi chào. “Moi soverenyi” Rồi cậu chạy bộ trở lại quân đoàn.
Danh xưng đó. Cậu ấy gọi nó không chút ác ý như hồi còn ở Os Alta, nhưng nó vẫn như một nắm đấm thụi vào bụng tôi đau điếng.
“Cậu ta không nên gọi cô như thế,” Lão Tư Tế phàn nàn.
“Tại sao không?”
“Đấy là danh xưng của Hắc Y và nó không phù hợp với một vị Thánh.”
“Vậy cậu ấy nên gọi tôi là gì?”
“Cậu ta không nên xưng hô trực tiếp gì với cô thì hơn.”
Tôi thở dài. “Lần tới tôi sẽ bảo cậu ấy viết thư nếu có gì muốn nói.”
Lão Tư Tế mím môi. “Hôm nay cô khá bồn chồn. Ta nghĩ thêm một giờ để khuây khỏa trong phòng lưu trữ sẽ tốt cho cô hơn.”
Giọng lão quở trách như thể tôi là một đứa trẻ cáu gắt đã thức quá giờ đi ngủ.Tôi buộc mình nhớ đến lời hứa về Kettle và cố nặn ra nụ cười. “Tôi chắc ông nói đúng.” Mất tập trung, mất vũ khí, mất lợi thế.
Trong lúc quay xuống đường hầm dẫn tới phòng lưu trữ, tôi ngoái lại đằng sau. Zoya đã lật ngã một chiến binh và đang xoay anh ta như rùa, tay cô lười nhác đảo vòng trong không khí. Ruby đang nói chuyện với Mal, nụ cười rạng rỡ, biểu cảm khao khát. Nhưng Mal đang dõi theo tôi. Trong ánh sáng mờ ảo của hang động, mắt cậu rực lên màu xanh thẳm sâu và kiên định, màu xanh ở trung tâm một ngọn lửa.
Tôi quay đi và theo sau Lão Tư Tế, bước chân dồn dập hơn, cố làm dịu buồng phổi khò khè của mình. Tôi nghĩ đến nụ cười của Ruby, bím tóc đơn của cô ấy. Một cô gái tốt. Một cô gái bình thường. Đấy là những gì Mal cần. Nếu bây giờ cậu ấy chưa hẹn hò với người nào khác, thì sau này cậu ấy sẽ làm thế. Và ngày nào đó, tôi sẽ là một người đủ tử tế để chúc phúc cho cậu. Chỉ là không phải hôm nay.
Chúng tôi bắt gặp David trên đường đến phòng lưu trữ. Anh ta vẫn bê bối như thường lệ - tóc chĩa tứ tung, tay áo vấy mực. Một tay anh cầm ly trà nóng và nhét trong túi áo là một mẩu bánh mì nướng.
Mắt anh ta đảo từ Lão Tư Tế đến bọn cảnh vệ.
“Thêm thuốc mỡ?” Anh hỏi.
Lão Tư Tế khẽ nhếch môi khi nghe câu đó. Thuốc mỡ là điều dược của David dành cho Genya. Cùng với nỗ lực của riêng cô, nó đã giúp mấy vết sẹo nghiêm trọng nhất của Genya mờ dần, nhưng vết thương do nichevoʼya gây ra sẽ không bao giờ lành lại hoàn toàn.
“Sankta Alina đến đây để dành trọn buổi sáng của mình cho việc nghiên cứu,” Lão Tư Tế tuyên bố bằng vẻ nghiêm trọng tột cùng.
David khẽ giật người tựa một cái nhún vai trong lúc luồn qua cửa. “Nhưng chốc nữa cô sẽ đến Kettle chứ?”
“Ta sẽ cho cận vệ đến hộ tống cô trong hai giờ tới,” Lão Tư Tế nói. “Genya Safin sẽ đợi cô.” Mắt lão quét qua khuôn mặt hốc hác của tôi. “Nhớ bảo cô ta phải chú tâm vào công việc của mình hơn.”
Lão cúi người thật sâu và biến mất cuối đường hầm. Tôi nhìn quanh phòng và thở một hơi dài chán nản.
Phòng lưu trữ đáng lẽ là một nơi tôi yêu thích, mùi mực thơm nồng trên giấy, tiếng lách tách khẽ của bút lông chim. Nhưng đây là hang ổ của bọn cảnh vệ - một mê cung mờ sáng gồm những cánh cửa tò vò và những cây cột chạm khắc từ đá trắng. Khoảng khắc tôi gần được chứng kiến David nổi giận nhất chính là lần đầu tiên anh nhìn thấy những hốc nhỏ có mái vòm này, một số chúng được đẽo sâu vào trong tường, tất cả đều được chất đầy sách cổ và bản thảo, những trang giấy đen đúa mục ruỗng, gáy sách phồng to vì hơi ẩm. “Cô không… cô không thể cất giữ ghi chép của Morozova ở đây được,” anh ta đã thực sự rít lên. “Chỗ này là một cái đầm lầy.”
Giờ David dành cả ngày và hầu hết buổi đêm trong phòng lưu trữ, nghiền ngẫm bút ký của Morozova, chép lại những học thuyết và phác họa vào sổ tay của mình. Cũng như phần lớn Grisha khác, anh ta tin rằng ghi chép của Morozova đã bị phá hủy sau sự ra đời của Vực Tối. Nhưng Hắc Y sẽ không đời nào để những tri thức như thế biến mất. Anh ta đã giấu kín các ghi chép ấy, và dù chưa bao giờ nhận được một câu trả lời rõ ràng từ Lão Tư Tế, tôi vẫn ngờ rằng lão đã tìm ra chúng ở Tiểu Điện bằng cách nào đó, rồi đánh cắp chúng khi Hắc Y bị ép phải rời Ravka.
Tôi ngồi sụp xuống chiếc ghế đẩu đối diện David. Anh ta đã kéo một bộ bàn ghế về phía khô ráo nhất trong hang, và chất lên kệ một lượng dầu dự trữ để thắp đèn giấy, cùng thảo dược và mỡ bôi để làm thuốc mỡ cho Genya. Bình thường, anh ta sẽ khom lưng nghiên cứu vài công thức hay hàn xì chút đỉnh và chả buồn ngẩng đầu lên suốt mấy tiếng liền, nhưng hôm nay dường như anh ta chẳng ở yên được, nào rề rà với lọ mực, nào loay hoay với đồng hồ bỏ túi mình để trên bàn.
Tôi sốt ruột lật giở từng trang trong một cuốn sổ tay của Morozova. Tôi bắt đầu ghét phải nhìn thấy chúng - vô dụng, khó hiểu và, quan trọng hơn hết, dở dang. Ông miêu tả giả thuyết của mình về những bộ khuếch đại, những manh mối khi lần theo con hươu đực, hành trình dài hai năm trên tàu săn cá voi để tìm kiếm Hải Long, học thuyết về Hỏa Điểu, và rồi… không gì cả. Hoặc những ghi chép này còn thiếu sót, hoặc Morozova đã bỏ dở công trình của mình.
Viễn cảnh tìm kiếm và sử dụng Hỏa Điểu đã rất nản lòng. Nhưng nếu ý nghĩ rằng nó không tồn tại, và tôi có thể phải đối mặt với Hắc Y một lần nữa mà không có nó? Ý nghĩ ấy quá kinh hoàng, nên tôi chỉ gạt đi.
Tôi buộc mình lật sang trang khác. Phương tiện duy nhất để tôi canh giờ là chiếc đồng hồ của David. Tôi không biết anh ta tìm thấy nó ở đâu, làm nó hoạt động như thế nào, hoặc múi giờ được cài đặt có tương quan với trên mặt đất hay không, nhưng tôi trừng mắt nhìn mặt đồng hồ và ước gì kim phút chạy nhanh hơn.
Cận vệ của Lão Tư Tế đến và đi, luôn theo dõi tôi hoặc cắm mặt vào văn bản của họ. Nhiệm vụ của họ là tô màu bản thảo, học ngôn ngữ thánh, nhưng tôi đoán phần lớn không chỉ có vậy. Mạng lưới gián điệp của Lão Tư Tế trải dài xuyên suốt Ravka, và những gã đàn ông này cho rằng mình có bổn phận gìn giữ nó, giải mã mật thư, tập họp tình báo, xây dựng một giáo phái thờ Tân Thánh. Thật khó để không so sánh họ với nhóm Soldat Sol của tôi, phần lớn đều non nớt và mù chữ, bị khóa kín khỏi những thần bí cổ xưa được những gã đàn ông này canh giữ.
Khi tôi không thể chịu thêm bất kì lời lải nhải nào của Morozova nữa, tôi xoay người trên ghế, cố vặn khớp trên lưng. Rồi tôi lấy xuống một quyển tuyển tập hầu như chỉ có những cuộc tranh luận về cầu nguyện, nhưng không ngờ lại bao gồm một phiên bản khác về sự tích tử vì đạo của thánh Ilya.
Trong phiên bản này, Ilya là một thợ nề, và cậu bé hàng xóm bị ngựa đè chết - chi tiết này mới. Thường thì, cậu bé sẽ bị lưỡi cưa chém đứt. Nhưng kết thúc vẫn như cũ: Ilya đem cậu bé trở lại từ ranh giới sống chết, và để trả ơn ông, dân làng đã xích chân ông lại và quăng xuống sông. Vài câu chuyện bảo ông không hề chìm xuống mà lại trôi ra biển. Số khác thề rằng xác của ông đã nổi lên ở một bãi cát vài ngày sau, hoàn toàn nguyên vẹn và nức hương hoa hồng. Tôi biết hết chứ, và không một câu chuyện nào trong số chúng có đề cập đến Hỏa Điểu hay ngụ ý rằng Dva Stolba là nơi thích hợp để bắt đầu tìm kiếm.
Toàn bộ hy vọng tìm thấy Hỏa Điểu của chúng tôi đặt vào một bức tranh minh họa: Thánh Ilya bị xiềng xích, vây quanh là con hươu đực, Hải Long, và Hỏa Điểu. Có thể thấy được những dãy núi phía sau ông, cùng một con đường và một vòng cung. Vòng cung ấy đã đổ nát từ lâu, nhưng tôi nghĩ mình vẫn có thể tìm thấy tàn tích của nó ở Dva Stolba, không xa khu dân cư mà Mal và tôi được sinh ra. Ít nhất, đấy là những gì tôi tin tưởng vào những ngày lạc quan. Hôm nay, tôi không mấy chắc chắn về chuyện Ilya Morozova và thánh Ilya là một. Tôi không thể nhìn đến những bản sao của Istorii Sankt’ya nữa. Chúng nằm lại trong đống ẩm mốc của góc nhỏ bị lãng quên, chẳng khác nào mấy cuốn sách thiếu nhi lạc hậu thay vì điểm báo về một vận mệnh vĩ đại.
David cầm đồng hồ lên, đặt nó xuống, lại vươn tay cầm lấy nó, hất đổ một lọ mực rồi luống cuống dựng nó lên.
“Hôm nay anh làm sao thế?” Tôi hỏi.
“Không có gì,” Anh ta đáp vội.
Tôi chớp mắt. “Môi anh chảy máu kìa.”
Anh ta đưa tay quẹt ngang, máu vẫn chảy tiếp. Hẳn anh ta đã cắn môi. Rất mạnh.
“David…”
Anh ta gõ khớp tay lên bàn, và tôi suýt nhảy dựng. Có hai cận vệ ở phía sau. Đúng giờ và khiếp đảm như mọi khi.
“Đây,” David nói, đưa cho tôi một hộp thiếc nhỏ. Trước khi tôi kịp cầm lấy, một tên cận vệ đã giật lấy nó.
“Ngươi làm gì vậy?” Tôi tức tối hỏi. Nhưng tôi hiểu rõ. Không thứ gì được truyền đi giữa tôi và những Grisha khác mà không được khám xét chặt chẽ. Dĩ nhiên, đấy là vì an toàn của tôi.
Gã cận vệ tảng lờ tôi. Gã di tay phía trên và dưới đáy hộp, mở nó ra, ngửi mùi bên trong, xem xét nắp đậy kỹ càng. Tôi kéo nó khỏi tay gã.
“Cảm ơn,” tôi chua chát nói. “Và cảm ơn anh, David.”
Anh ta sớm đã vùi đầu trở lại vào quyển sổ ghi chép, trông như mê mẩn với những gì đang đọc. Nhưng anh ta siết chặt cây bút đến nỗi tôi tưởng nó sẽ vỡ đôi.
Genya đang đợi tôi ở Kettle, hang động khổng lồ tròn vạnh dùng để tiếp tế lương thực cho tất cả người dân trong Giáo Hội Trắng. Dãy tường cong vòng của nó được đóng lò sưởi đá, một lời nhắc nhở về quá khứ cổ xưa của Ravka mà những nhân viên trong bếp hay phàn nàn rằng chúng không tiện nghi bằng lò nướng hay lò gạch ở trên. Những xiên nướng thịt khổng lồ được làm riêng để quay thú lớn, nhưng đầu bếp hiếm khi tìm được thịt tươi. Nên thay vào đó họ phục vụ thịt heo muối, rễ cây hầm, và một loại bánh mì kì lạ làm từ bột mì thô màu xám có vị từa tựa anh đào.
Những người đầu bếp đã gần quen với Genya, hoặc chí ít không còn nhăn nhó và cầu nguyện mỗi khi thấy cô ấy nữa. Tôi bắt gặp cô đang sưởi ấm cạnh một lò sưởi ở một bức tường phía xa trong Kettle. Nơi đây đã trở thành địa điểm của chúng tôi, và đầu bếp để cho cả hai một nồi súp nhỏ ở đó mỗi ngày. Trong lúc tôi đến gần cùng hai gã hộ tống mang vũ khí của mình, Genya để khăn choàng rơi xuống, và cận vệ hai bên liền khựng lại. Cô ấy đảo con mắt còn lại của mình và rít một tiếng như mèo kêu. Bọn họ lùi về sau, lảng vảng quanh lối vào.
“Hơi quá ư?” cô ấy hỏi.
“Vừa đủ,” tôi đáp lời, ngạc nhiên bởi thay đổi nơi cô. Nếu cô ấy có thể cười trước phản ứng đối với mình của lũ đần kia, đấy là một dấu hiệu rất tốt. Dù một phần là nhờ thuốc mỡ chữa thẹo do David chế tạo, tôi vẫn chắc rằng công đầu thuộc về Tamar.
Sau khi đến Giáo Hội Trắng được mấy tuần, Genya vẫn từ chối ra khỏi phòng. Cô ấy chỉ nằm đó, trong bóng tối, không chịu nhúc nhích. Dưới sự canh gác của bọn cận vệ, tôi bắt chuyện, đã chọc ghẹo, đã cố làm cô cười. Tất cả đều vô ích. Cuối cùng, chính Tamar là người dụ cô ấy ra ngoài, yêu cầu cô ít nhất phải học lấy cách tự vệ.
“Cô quan tâm làm gì?” Genya đã lẩm bẩm như thế, đoạn kéo chăn lên.
“Tôi không có. Nhưng nếu cô không thể chiến đấu, cô chỉ là của nợ mà thôi.”
“Tôi chẳng quan tâm nếu mình bị thương đâu.”
“Tôi có,” tôi phản bác.
“Alina cần phải tự bảo vệ mình,” Tamar nói. “Cô ấy không thể trông chừng cô.”
“Tôi chưa bao giờ yêu cầu cô ấy làm thế.”
“Nếu mọi yêu cầu đều được đáp ứng thì tốt quá nhỉ?” Tamar đáp lời. Đoạn cô ta cấu nhéo, đâm chọt và quấy rối đủ kiểu, cuối cùng Genya đã hất tung chăn và đồng ý tham dự một buổi học đấu tay đôi - trong riêng tư, tránh xa những người khác, chỉ có cận vệ của Lão Tư Tế là khán giả.
“Tôi sẽ đè bẹp cô ta,” cô ấy càu nhàu với tôi. Nỗi hoài nghi của tôi hẳn đã hiện lên rất rõ, vì sau đấy cô ấy thổi bay lọn tóc đỏ lòa xòa trước vầng trán đầy sẹo và nói, “Được rồi, thế thì tôi sẽ chờ cô ta ngủ rồi biến cô ta thành đồ mũi heo.”
Nhưng cô ấy đã đến buổi học ấy và buổi tiếp theo, và theo những gì tôi biết, Tamar chưa từng thức dậy với một cái mũi heo hay hai mi mắt bị dính chặt vào nhau.
Genya tiếp tục che mặt và dành phần lớn thời gian trong phòng ngủ của mình, nhưng cô ấy không khom lưng nữa, và cô không tránh mặt những người ở đường hầm nữa. Cô ấy tự làm một miếng bịt mắt bằng lụa đen từ vải lót áo khoác cũ, và tóc cô đỏ lên trông thấy. Nếu Genya có thể sử dụng năng lực để chuyển màu tóc, thì có thể thói hợm hĩnh ngày xưa phần nào đã trở về, đó là một tiến bộ.
“Bắt đầu thôi,” cô nói.
Genya quay lưng lại với căn phòng, đối diện ngọn lửa, rồi kéo khăn trùm qua đầu, giữ cho phần tua rua viền quanh giăng rộng để tạo nên tấm màn che chắn chúng tôi khỏi những ánh mắt tò mò. Lần đầu tiên chúng tôi làm vậy, bọn cận vệ đã chạy đến ngay lập tức. Nhưng ngay khi thấy tôi bôi thuốc mỡ lên mấy vết sẹo của Genya, họ đã lùi ra xa. Họ cho rằng những vết thương cô ấy có được từ bầy nichevo’ya của Hắc Y là một phán xét thiêng liêng nào đó. Vì cái gì thì tôi không chắc. Nếu tội của Genya là đồng lõa với Hắc Y, thì hầu hết chúng tôi đều phạm phải nó vào lúc này hay lúc khác. Rồi họ sẽ nói gì về vết cắn trên vai tôi? Hay cách tôi khiến những bóng đen cuộn tròn?
Tôi lấy hộp thiếc ra khỏi túi và bắt đầu bôi thuốc mỡ lên vết thương của cô. Nó có mùi lá cây hăng hắc làm mắt tôi chảy nước.
“Tôi chưa bao giờ nhận ra việc phải ngồi yên một chỗ thật lâu lại khó chịu thế này,” cô ấy phàn nàn.
“Cô đâu có ngồi yên. Cô đang cựa quậy nè.”
“Ngứa quá.”
“Tôi lấy đinh bấm đâm vào cô nhé? Như thế có làm cô quên đi cơn ngứa không?”
“Cô chỉ cần nói khi nào thì xong thôi, đồ con gái khó chịu.” Cô ấy cẩn thận quan sát tay tôi. “Hôm nay không may mắn gì sao?” cô thì thầm.
“Không hẳn. Chỉ có hai lò nướng hoạt động, và lửa nhỏ quá.” Tôi chùi tay lên một cái khăn bẩn dùng làm bếp. “Đấy,” tôi nói. “Xong rồi.”
“Đến lượt cô,” cô ấy bảo. “Trông cô…”
“Kinh khủng. Tôi biết.”
“Dùng từ đó cũng được.” Nỗi buồn trong giọng nói của cô không lẫn đi đâu được. Nó làm tôi muốn tự đá mình một cái.
Tôi vươn tay chạm lên má cô. Làn da chen giữa những vết sẹo mịn màng và trắng nõn tựa bức tường thạch cao. “Tôi là đồ tồi.”
Khóe môi cô ấy khẽ nhếch lên. Gần như một nụ cười. “Thi thoảng,” cô đồng tình. “Nhưng tôi là người khơi chuyện. Giờ im lặng cho tôi làm việc.”
“Chỉ làm vừa đủ để Lão Tư Tế để chúng ta tiếp tục tới đây thôi. Tôi không muốn cho lão một vị Thánh nhỏ xinh để khoe khoang đâu.”
Genya bèn thở dài một cách điệu bộ. “Đây là hành vi xâm phạm đến những nguyên tắc cốt lõi nhất của tôi, và sau này cô sẽ phải đền bù.”
“Bằng cách?”
Cô ấy nghiêng đầu sang bên. “Tôi nghĩ cô nên để tôi đổi tóc cô thành màu đỏ.”
Tôi đảo mắt. “Không phải kiếp này, Genya.”
Trong lúc cô ấy chậm rãi bắt đầu quá trình chỉnh sửa khuôn mặt, tôi đưa tay nghịch chiếc hộp thiếc. Tôi định đậy nắp lại, nhưng có gì đó tụt ra dưới lớp thuốc mỡ. Tôi dùng đầu ngón tay nhấc nó lên - một chiếc đĩa mỏng bằng sáp. Genya nhìn thấy nó cùng lúc với tôi.
Phía sau mặt đĩa, chỉ có một từ được viết bằng nét chữ nguệch ngoạc khó đọc của David: hôm nay.
Genya giật lấy nó từ tay tôi. “Ôi, Thánh thần ơi. Alina…”
Đấy là lúc chúng tôi nghe thấy tiếng giậm thình thịch của những đôi ủng nặng trịch và tiếng chen lấn bên ngoài. Một cái nồi rơi xuống sàn với tiếng keng ầm ĩ, và một trong những đầu bếp hét lên khi thấy cận vệ tràn vào phòng, súng trường giương cao, đôi mắt dường như tóe lửa.
Lão Tư Tế lao vào ngay sau họ, dải áo màu nâu xoay tít. “Giải tán cả phòng,” lão rống lên.
Genya và tôi đứng phắt dậy trong lúc bọn cận vệ thô bạo lùa nhóm đầu bếp ra khỏi phòng trong sự phản kháng hoang mang và những tiếng la hốt hoảng.
“Chuyện này là sao?” tôi gặng hỏi.
“Alina Starkov,” Lão Tư Tế lên giọng, “cô đang gặp nguy hiểm.”
Tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi cố giữ giọng bình thản. “Nguy hiểm từ đâu?” tôi hỏi, liếc về phía mấy cái nồi đương sôi sùng sục trong lò nướng. “Bữa trưa?”
“Một âm mưu,” lão tuyên bố, chỉ về phía Genya. “Những kẻ yêu cầu tình bạn của cô sẽ tìm cách hủy diệt cô.”
Thêm vài gã hầu cận râu ria của Lão Tư Tế hành quân vào phòng qua cánh cửa ở sau lão. Khi họ tách hàng, tôi nhìn thấy David, mắt anh mở to và sợ hãi.
Genya thở dốc và tôi đặt một tay lên cánh tay cô để giữ cô không nhào về phía trước.
Những người tiếp theo là Nadia và Zoya, cổ tay cả hai đều bị trói lại để ngăn họ triệu hồi năng lượng. Một tia máu chảy xuống từ khóe miệng Nadia, và da cô trắng bệch dưới lớp tàn nhang. Mal đi cùng với họ, mặt cậu ướt đẫm máu. Cậu ấy đang siết chặt hông như thể ôm lấy xương sườn bị gãy, vai cậu sụp xuống vì đau. Nhưng tệ hơn cả là cảnh tượng của hai cận vệ kèm cặp cậu - Tolya và Tamar. Tamar đã mang rìu trở lại. Thực tế, bọn họ đều trang bị vũ trang kĩ càng như cận vệ của Lão Tư Tế. Họ không nhìn vào mắt tôi.
“Khóa cửa lại,” Lão Tư Tế ra lệnh. “Chúng ta sẽ giải quyết sự vụ thảm hại này trong riêng tư.”