KẾT THÚC
Một nhà thờ xây trên bờ biển Tây Ravka, phía Nam Os Kervo, sát mép Chân Hải. Nó là một chốn yên tĩnh, nơi sóng đánh gần dạt vào cửa.
Những bức tường bạc màu dán đầy vỏ sò, và mái vòm lơ lửng trên bệ thờ trông giống một cái giếng đại dương xanh thẳm hơn là vườn địa đàng.
Không có buổi đính hôn hoành tráng nào, không khế ước hay nỗi lo phản trắc. Người con trai và người con gái không có gia đình để rầy rà đến họ, để khoe mẽ họ đến tận thị trấn kế bên hoặc mở đại tiệc chúc mừng họ. Cô dâu không đội kokochinik, không váy áo bằng vàng. Nhân chứng duy nhất của họ là một con mèo cam cuộn mình giữa những hộp thiếc và một đứa trẻ, giờ đã mồ côi mẹ, giắt kiếm gỗ trên người. Nó phải đứng trên ghế để đặt vương miện gỗ lên đầu họ trong lời chúc phúc cất lên. Những cái tên họ đưa là giả, nhưng thề nguyện họ nói là thật.
Chiến tranh vẫn còn, và trẻ mồ côi vẫn nhiều, nhưng những tòa nhà mọc lên từ đống đổ nát là Keramzin ngày xưa không giống như những gì trước đó. Nó không phải ngôi nhà của Công tước, đầy những vật dụng không được chạm vào. Nó là một nơi cho trẻ con. Đàn piano trong phòng nhạc không bị đóng nắp. Cửa chạn thức ăn không bao giờ bị khóa. Đèn lồng luôn được thắp trong kí túc xá để đẩy lùi bóng tối.
Những nhân viên không hài lòng.
Đám học sinh quá ầm ĩ. Phung phí quá nhiều tiền cho đường bỏ vào trà, cho than sưởi mùa đông, cho những cuốn sách không có gì khác ngoài truyện cổ tích. Và vì sao mỗi đứa nhóc đều phải có giày trượt mới?
Trẻ măng. Giàu sụ. Hơi khùng. Đấy là những bàn tán xầm xì về cặp đôi đã mở viện mồ côi. Nhưng họ trả rất hậu, và người con trai dễ ưa đến mức khó mà giận cậu ấy được lâu, kể cả khi cậu từ chối đánh phạt đứa trẻ nghịch ngợm đã rải bùn khắp lối đi.
Nghe nói cậu là người họ hàng xa của Công tước, và dù cung cách dùng bữa của cậu cũng khá lịch thiệp, cậu vẫn hành xử theo lối con nhà binh. Cậu dạy học sinh săn mồi và đặt bẫy, và cách làm ruộng mới được Đức vua Ravka yêu thích. Bản thân Công tước đã đến ở nhà nghỉ mùa đông tại Os Alta. Những năm chiến tranh vừa qua đã khiến ngài nhọc mệt.
Người con gái thì khác, nhỏ bé và kỳ lạ, với mái tóc trắng tinh hơi buông xõa trên lưng như phụ nữ chưa chồng, dường như thờ ơ với những cái trừng mắt và tặc lưỡi ngao ngán của dàn giáo viên và nhân viên. Cô kể với học sinh những câu chuyện kì lạ về tàu bay và lâu đài dưới lòng đất, về con quái vật ăn đất đá, và con chim có đôi cánh lửa. Rất thường khi, cô đi chân trần trên hành lang, và mùi sơn còn ướt dường như chưa bao giờ phai nhạt, khi cô luôn bắt đầu một dự án mới, vẽ bản đồ trên tường phòng học hoặc lấp đầy trần nhà của ký túc xá nữ với tranh hoa diên vỹ.
“Không có khiếu nghệ sĩ cho lắm,” một trong những giáo viên khịt mũi.
“Nhưng rõ ràng rất có khiếu sáng tạo,” một người khác đáp lời, hoài nghi nhìn về phía con rồng trắng cuộn tròn người quanh lan can cầu thang.
Học sinh học toán và địa lý, khoa học và nghệ thuật. Doanh nhân được đưa đến từ thị trấn và làng xá địa phương để tìm người ở học viện. Tân Vương mong sẽ xóa bỏ hoàn toàn chế độ quân dịch trong vài năm tới, và nếu gã thành công, mỗi người dân Ravka sẽ cần lấy một cái nghề. Khi trẻ con được kiểm tra sức mạnh Grisha, chúng có quyền chọn đến Tiểu Điện hay không, và chúng luôn được chào đón trở lại Keramzin. Vào buổi tối, chúng được dạy phải cầu nguyện cho vị Vua trẻ tuổi - Korol Rezni sẽ giữ Ravka hùng mạnh.
Dù người con trai và người con gái không phải là quý tộc, họ vẫn có bạn bè từ những chức vị cao. Quà cáp đến thường xuyên, thi thoảng được đóng mộc hoàng gia: Một bộ bản đồ mới cho thư viện, chăn len chất lượng, một cỗ xe trượt tuyết và một đôi bạch mã đi cùng để kéo nó. Lần nọ một người đàn ông đến thăm cùng một hạm đội thuyền đồ chơi, và lũ trẻ bắt đầu chơi đua thuyền nhỏ trên lạch. Dàn giáo viên để ý người lạ còn trẻ và đẹp trai, với mái tóc vàng và mắt màu nâu nhạt, nhưng chủ yếu rất quái gở. Anh ta ở chơi lâu đến bữa tối và chưa một lần tháo bỏ găng tay.
Mỗi mùa đông, trong ngày hội Sankt Nikolai, một cỗ xe tam mã sẽ vượt đường tuyết và ba Grisha sẽ xuất hiện với áo choàng lông thú và những bộ kefta bằng len dày - đỏ, tím, và xanh. Xe trượt tuyết của họ nặng trĩu những món quà: quả sung và mơ ngâm mật ong, găng tay viền lông chồn vizon, và giày bốt da mềm mịn. Họ ở lại trễ, rất lâu sau khi bọn trẻ đã lên giường, trò chuyện và cười đùa, kể chuyện, ăn mận ngâm và nướng xúc xích thịt cừu trên đống lửa.
Mùa đông đầu tiên ấy, khi đến lúc bạn của mình rời đi, người con gái ra ngoài trời tuyết để nói lời từ biệt, và Tiết Khí Sư tóc đen xinh đẹp tặng cô một món quà nữa.
“Một bộ kefta màu xanh,” giáo viên dạy toán nói, lắc đầu. “Cô ta sẽ làm gì với nó?”
“Có thể cô ta biết một Grisha đã chết,” đầu bếp đáp lời, nhận ra nước mắt dâng lên trong mắt người con gái. Họ đã không nhìn thấy mẩu giấy với dòng chữ: Cô sẽ luôn là một trong số chúng tôi.
Người con trai và người con gái đều đã nếm trải mất mát, và tiếc thương chưa từng rời bỏ họ. Thi thoảng cậu thấy cô đứng cạnh cửa sổ, ngón tay chơi đùa cùng ánh nắng chuyến xuyên qua lớp kính, hoặc ngồi trên cầu thang trước trại mồ côi, nhìn chằm chằm vào gốc cây sồi kế bên lối vào. Rồi cậu sẽ đến bên cô, ôm lấy cô, và dẫn cô đến hồ Trivka, nơi côn trùng rỉ rả và cỏ mọc cao vút, nơi những vết thương xưa cũ có thể được lãng quên.
Cô cũng nhìn thấy nỗi buồn nơi cậu. Dù rừng cây vẫn chào đón, giờ cậu đã tách khỏi nó hoàn toàn, liên kết ăn sâu vào xương máu đã lụi tàn vào giây phút cậu bỏ mạng vì cô.
Nhưng rồi thời gian dần trôi, và dàn giáo viên sẽ bắt gặp họ cười khúc khích nơi hành lang lờ mờ hoặc hôn nhau cạnh cầu thang. Chưa kể, hầu hết ngày tháng đều quá bận đến không còn thời gian mà u sầu. Dạy học, nấu ăn, viết thư. Khi màn đêm xuống, người con trai sẽ đem cho người con gái một tách trà, một miếng bánh vị chanh, một bông hoa táo nổi lềnh bềnh trong chiếc ly màu xanh. Cậu sẽ hôn lên cổ cô và thì thầm bên tai cô những tên gọi hoàn toàn mới: người đẹp, dấu yêu, báu vật, trái tim của mình.
Họ có một cuộc sống bình thường, ngập tràn những điều dung dị - nếu người ta có thể gọi tình yêu như thế.