← Quay lại trang sách

Chương 18

Họ đưa chúng tôi rời khỏi Vực Tối trên một con thuyền thủy tinh của Hắc Y. Zoya điều khiến con thuyền rệu rã dễ như trở bàn tay, thu hút sự chú ý của nhóm Soldat Sol tò mò trong lúc Tolya và Tamar đưa chúng tôi lên boong, ẩn dưới lớp áo khoác dày nặng và kefta gấp lớp. Xác của Hắc Y được bọc trong chiếc áo choàng xanh của một trong Tiết Hỏa Sư đã chết của anh ta. Tôi đã hứa với anh ta, và tôi sẽ giữ lời.

Nhóm Tiết Khí Sư - Zoya, Nadia, và Adrik, tất cả bọn họ đều còn sống và lành lặn như đã từng trước khi trận đấu bắt đầu - nổi gió căng buồm đen và đưa chúng tôi khỏi bãi cát trên nhanh nhất có thể.

Tôi nằm xuống cạnh Mal. Cậu ấy vẫn đang trong cơn đau nguy kịch, nửa tỉnh nửa mê. Tolya tiếp tục trị thương cho cậu, kiểm tra mạch đập và hơi thở.

Đâu đó trên thuyền, tôi nghe tiếng Nikolai trò chuyện, giọng gã khàn đặc và rã rời bởi sức mạnh ma quái đã xâm nhập gã. Tôi muốn đến chỗ gã, nhìn mặt gã, chắc chắn rằng gã không sao. Hẳn gã đã bị gãy xương sau cú ngã đó. Nhưng tôi mất quá nhiều máu, và tôi thấy mình dần thiếp đi, tâm trí nhọc mệt của tôi nôn nóng muốn lãng quên. Trong lúc mắt tôi dần sụp xuống, tôi kéo tay Tolya.

“Tôi đã chết ở đây. Anh có hiểu không?” Anh ta cau mày. Anh ta tưởng tôi mê sảng, nhưng tôi cần nói cho anh ta nghe. “Đây là sự tử vì đạo của tôi, Tolya. Hôm nay tôi đã chết ở đây.”

“Sankta Alina,” anh ta khẽ nói, và đặt một nụ hôn lên khớp tay của tôi, một cử chỉ nhã nhặn, như một quý ông ở sàn khiêu vũ. Tôi cầu nguyện với tất cả vị Thánh có thật rằng anh ta đã hiểu.

Cuối cùng, những người bạn của tôi đã loan tin báo tử rất tốt, và thậm chí còn làm tốt hơn với sự hồi sinh của Nikolai.

Họ đưa chúng tôi trở về Tomikyana và giấu chúng tôi trong một kho thóc, ẩn trong nhà máy nước ép phòng trường hợp nhóm Soldat Sol trở lại. Họ tắm rửa cho Nikolai, cắt tóc cho gã, cho gã uống trà đường và bánh mì. Genyda thậm chí còn tìm cho gã một bộ đồng phục Thượng Quân. Chỉ trong vòng vài giờ, gã đã tiến về Kribirsk, được cặp sinh đôi hộ tống, cùng với Nadia và Zoya, vận bộ kefta màu xanh lấy được từ người chết.

Câu chuyện họ dựng nên khá đơn giản: Gã bị Hắc Y bắt làm tù binh, định sẽ hành quyết trên Vực Tối, nhưng gã đã trốn thoát và, cùng với sự giúp đỡ của Tiết Dương Sư, đã đánh bại được Hắc Y. Chỉ một số ít người biết được sự thật đã xảy ra. Trận đấu là một sự hoang mang rối loạn trong bóng đêm, và tôi đoán đoàn Grisha lẫn quân của Hắc Y đang bận rộn lẩn trốn hay van nài sự tha thứ từ hoàng gia nên không thể phản bác được. Nó là một câu chuyện hay với cái kết bi kịch - Tiết Dương Sư đã đánh đổi mạng sống của cô ấy để cứu lấy Ravka và vị vua mới của họ.

Phần lớn thời gian trở về Tomikyana của tôi là một sự nhạt nhòa: Mùi táo. Tiếng chim bồ câu lạo xạo trên mái chìa. Tiếng Mal thở phập phồng bên cạnh. Có một lúc, Genya vào thăm chúng tôi, và tôi tưởng mình đang mơ. Vết sẹo trên mặt cô vẫn còn đó, nhưng phần lớn vệt đen đã biến mất.

“Vai của cô nữa,” cô ấy cười nói. “Vẫn còn sẹo, nhưng không đáng sợ như trước.”

“Còn mắt của cô?” tôi hỏi.

“Mất hẳn rồi. Nhưng tôi khá thích băng bịt mắt của mình. Tôi nghĩ nó đem lại cho tôi vẻ ngang tàng đặc biệt.”

Hẳn tôi đã thiếp đi vì lần tiếp theo tỉnh dậy, Misha đang đứng trước mặt tôi với bột lấm đầy tay.

“Em đang làm gì vậy?” Tôi hỏi, giọng còn hơi lè nhè.

“Bánh gừng.”

“Không phải bánh táo sao?”

“Em ngán bánh táo rồi. Chị muốn đánh kem không?” Tôi nhớ mình đã gật đầu, rồi ngủ thiếp trở lại.

#

Phải đến khuya hôm ấy Zoya và Tamar mới đến thăm chúng tôi, đem theo tin tức từ Kribirsk. Dường như sức mạnh của những bộ khuếch đại đã lan đến tận bến tàu. Vụ nổ đã quật ngã Grisha và những công nhân bốc xếp, và hỗn loạn vỡ òa khi ánh sáng bắt đầu phát ra từ tất cả otkazat’sya trong phạm vi gần đấy.

Khi Vực Tối bắt đầu tan biến, họ đã dám bước vào lãnh địa của nó và tham gia công cuộc tàn phá. Vài người trong số họ đã cầm súng theo săn bắn volcra, dồn chúng vào những góc tối ít ỏi còn sót lại của Vực và giết chết chúng. Nghe đồn vài con quái vật đã trốn thoát, đương đầu với ánh sáng để tìm bóng tối ở nơi khác. Giờ đây, giữa những công nhân, nhóm Soldat Sol, và những oprichiniki đã không di tản, tất cả những gì còn sót lại của Hư Hải là những làn khói lơ lửng trong không trung hoặc lần bò trên cát nhưng thú lạc bầy.

Khi tin đồn về cái chết của Hắc Y lan tới Kribirsk, doanh trại quân đội đã loạn cả lên - và Nikolai Lantsov xuất hiện. Gã chiếm đóng khu vực hoàng gia, bắt đầu tập trung đội trưởng Thượng Quân và thủ lĩnh Grisha, và cứ thế ra lệnh cho họ. Gã huy động toàn bộ đơn vị còn lại của quân đội để thắt chặt biên giới, báo tin đến bờ biển để tập hợp thuộc hạ của Sturmhorn, và có vẻ như gã đã làm được hết bằng ấy trong lúc thiếu ngủ và gãy hai xương sườn. Không ai có đủ khả năng làm thế, đừng nói là đủ can đảm - nhất là một nhị hoàng tử và một gã con hoang tin đồn. Nhưng Nikolai đã khổ luyện cả đời cho chuyện này, và tôi biết thiên phú của gã là hoàn thành những chuyện bất khả.

“Anh ta thế nào rồi?” Tôi hỏi Tamar.

Cô ấy khựng lại, rồi nói, “Ám ảnh. Ngài ấy hơi lạ, dù tôi không biết những người khác có nhận ra không.”

“Có thể,” Zoya phản đối. “Nhưng tôi chưa bao giờ thấy qua thứ gì như thế. Nếu anh ta trở nên hấp dẫn hơn nữa, có khi cả đàn ông lẫn phụ nữ sẽ bắt đầu nằm phục trên đường để được tân vương Ravka giẫm đạp lên. Cô đã cưỡng lại anh ta thế nào vậy?”

“Hỏi hay đấy,” Mal lẩm bẩm kế bên tôi.

“Hóa ra tôi không thích ngọc lục bảo cho lắm,” Tôi đáp.

Zoya đảo mắt. “Cũng không ưa dòng máu hoàng gia, sức hút chói lòa, của cải thịnh vượng…”

“Cô dừng được rồi đấy,” Mal bảo.

Tôi tựa đầu lên vai cậu. “Những thứ đó đều rất tốt, nhưng đam mê thật sự của tôi là những gã vô vọng.” Hoặc chỉ một mà thôi. Beznako. Gã khờ vô vọng của tôi, giờ đã lại tìm thấy.

“Tôi bị vây quanh bởi một lũ ngốc,” Zoya nói, nhưng cô ta đang cười.

Trước khi Tamar và Zoya quay lại nhà chính, Tamar kiểm tra vết thương của chúng tôi. Mal rất yếu, nhưng sau những gì cậu đã trải qua, chuyện đó cũng là tất nhiên thôi. Tamar đã chữa lành vết đạn bắn trên vai tôi, và ngoại trừ chút run rẩy cùng nhức nhối thì tôi thấy ổn. Ít nhất, đó là những gì tôi nói với họ. Tôi có thể nhận thấy cơn đau từ sức mạnh thiếu vắng vẫn quẩn quanh như một bóng ma.

Tôi gà gật trên chiếc đệm họ đã kéo vào kho thóc, và khi tôi tỉnh giấc, Mal đang nằm nghiêng, ngắm nhìn tôi. Cậu ấy trắng bệch, và đôi mắt xanh tựa hồ quá rực rỡ. Tôi vươn tay vuốt dọc vết sẹo chạy dài trên cằm cậu, vệt sẹo cậu có được từ Fjerda khi đang săn tìm con hươu đực lần đầu tiên.

“Bồ đã thấy gì?” tôi hỏi. “Khi…”

“Khi mình chết?”

Tôi xô nhẹ cậu ấy, và cậu nhăn mặt.

“Mình thấy Ilya Morozova cưỡi trên lưng con ngựa một sừng, chơi đàn balalaika.”

“Vui quá nhỉ.”

Cậu ấy nằm ngửa ra và cẩn thận luồn tay đỡ dưới đầu. “Mình không thấy gì cả. Tất cả những gì mình nhớ được là đau đớn. Con dao như được hun trên lửa, như thể nó đang moi tim mình khỏi ngực. Rồi không gì cả. Chỉ một màn đêm.”

“Bồ đã chết,” tôi run rẩy cất tiếng. “Và rồi sức mạnh của mình…” Tôi nấc nghẹn.

Cậu ấy giơ tay ra, và tôi gối đầu lên vai cậu, cố không đụng đến lớp băng trên ngực. “Mình xin lỗi,” cậu nói. “Có những lúc… có những lúc mình ước sức mạnh của bồ biến mất. Nhưng mình chưa bao giờ muốn chuyện này xảy ra.”

“Tạ ơn trời mình vẫn còn sống,” tôi nói. “Vực Tối đã biến mất. Bồ đã an toàn. Nó chỉ… đau quá.” Tôi thấy mình thật nhỏ mọn. Harshaw đã chết, cũng như một nửa nhóm Soldat Sol, bao gồm Ruby. Rồi còn những người khác: Sergei, Marie, Paja, Fedyor, Botkin. Baghra. Quá nhiều hy sinh cho trận chiến này. Danh sách cứ mãi dài thêm.

“Mất mát là mất mát,” Mal nói. “Bồ có quyền tiếc thương.”

Tôi nhìn lên cột gỗ trên trần kho thóc. Kể cả bóng đêm tôi từng ra lệnh đã rời bỏ tôi. Sức mạnh ấy thuộc về Hắc Y, và nó đã từ biệt thế giới này cùng anh ta.

“Mình thấy trống trải quá.”

Mal im lặng một lúc lâu, rồi nói, “Mình cũng thấy vậy.” Tôi chống khuỷu tay gượng dậy. Mắt cậu nhìn xa xăm. “Mình chưa thử dò đường nên không chắc, nhưng mình thấy khác. Mình từng biết tất cả. Thậm chí khi nằm đây, mình vẫn có thể đánh hơi được hươu trên đồng cỏ, chim nghỉ cánh trên cây, có thể là một con chuột đang đào hang. Mình chưa bao giờ nghĩ đến, nhưng giờ đây chỉ còn lại… thinh lặng.”

Mất mát. Tôi tự hỏi Tolya và Tamar đã hồi sinh Mal bằng cách nào. Tôi đã sẵn sàng gọi nó là phép màu. Giờ tôi nghĩ mình đã hiểu. Mal sở hữu hai sinh mạng, nhưng chỉ có một mạng thật sự thuộc về cậu. Mạng còn lại bị đánh cắp, một sự thừa kế từ merzost, bị tước đoạt từ quá trình sáng tác ở trung tâm thế giới. Đấy là sức mạnh đã thổi luồng sinh khí cho con gái của Morozova khi mạng sống con người của bà biến mất, sức mạnh đã vang vọng khắp xương tủy của Mal. Máu cậu thấm đượm nó, và mảnh vụn kiến tạo bị đánh cắp ấy đã biến cậu thành một người dò đường tài năng. Nó đã gắn kết cậu với toàn bộ vật sống. Tương đồng kêu gọi tương đồng.

Và giờ nó đã biến mất. Cuộc đời bị Morozova đánh cắp và trao ban cho con gái của mình đã đến hồi kết. Cuộc đời mà Mal được sinh ra - mỏng manh, giới hạn, tạm thời - giờ là của chính cậu. Mất mát. Đấy là cái giá mà thế giới yêu cầu để cân bằng. Nhưng Morozova đã không biết rằng kẻ khám phá bí mật của những bộ khuếch đại ông làm không phải là một Grisha cổ xưa đã sống qua hàng ngàn năm và chán nản sức mạnh của mình. Ông đã không biết rằng nó lại được lưu truyền cho hai đứa trẻ mồ côi ở Keramzin.

Mal nắm tay tôi, đan tay hai đứa vào nhau, và áp chúng lên ngực. “Bồ nghĩ mình sẽ hạnh phúc chứ?” Cậu ấy hỏi. “Với một gã dò đường hết thời?”

Tôi mỉm cười khi nghe cậu nói. Mal ngạo mạn, hấp dẫn, can trường, và nguy hiểm. Là sự nghi hoặc trong giọng nói của cậu đấy ư? Tôi hôn cậu một lần, thật dịu dàng. “Nếu bồ có thể hạnh phúc với một người đã đâm dao vào ngực bồ.”

“Mình đã giúp bồ. Và mình đã bảo mình có thể chịu đựng tâm trạng xấu của bồ mà.”

Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo hoặc mình phải trở thành người thế nào. Tôi không có gì hết, kể cả bộ quần áo đi mượn đang đặt dưới lưng. Vậy mà, khi nằm ngay đó, tôi nhận ra mình không hề sợ hãi. Sau tất cả những gì tôi từng trải qua - trong tôi không còn sợ hãi - u buồn, cảm kích, có thể thậm chí là hy vọng, nhưng nỗi sợ đã bị nuốt chửng bởi đau thương và thử thách. Thánh nữ đã biến mất. Tiết Dương Sư cũng vậy. Tôi trở lại là một đứa con gái tầm thường, nhưng sức mạnh của cô ấy không bị trói buộc bởi số phận hay cơ hội hay một vận mệnh cao cả. Tôi đã được sinh ra cùng sức mạnh; những điều còn lại là do tôi giành lấy.

“Mal, bồ phải cẩn thận. Chuyện về những bộ khuếch đại có thể bị phát tán. Mọi người sẽ nghĩ bồ vẫn còn sức mạnh.”

Cậu ấy lắc đầu. “Malyen Oretsev đã chết cùng bồ,” cậu ấy nói, từng lời vọng lại suy nghĩ của tôi, khớp đến mức khiến lông tay tôi dựng đứng. “Cuộc đời này chấm dứt rồi. Có thể kiếp sau mình sẽ thông minh hơn.”

Tôi khịt mũi. Để xem. Chúng ta phải chọn tên mới, bồ biết đấy.”

“Misha đã lên danh sách gợi ý rồi.”

“Ồ quỷ thần ạ.”

“Bồ có gì để phàn nàn chứ. Nghe đâu tên mình là Dmitri Dumkin.”

“Hợp với bồ đấy.”

“Mình nên báo trước với bồ là mình ghi nợ hết những lời sỉ vả của bồ để có thể đáp trả khi bình phục đó.”

“Thôi đe dọa nào, Dumkin. Có lẽ mình sẽ kể với lão Tư Tế về sự bình phục màu nhiệm của bồ, và lão cũng sẽ biến bồ thành một vị Thánh.”

“Lão cứ việc thử,” Mal bảo. “Mình không định lãng phí thời gian để mưu cầu thánh thần.”

“Thế à?”

“Ừ,” cậu nói trong lúc ôm tôi lại gần. “Mình phải dành cả phần đời còn lại để tìm cách làm hài lòng một cô gái tóc trắng nọ. Cô ấy rất cáu bẳn, thi thoảng sẽ bỏ phân ngỗng vào giày của mình hoặc cố giết mình.”

“Nghe mệt mỏi thật,” tôi thốt lên khi môi cậu ấy chạm vào môi tôi.

“Cô ấy xứng đáng với điều đó. Và ngày nào đó có thể cô ấy sẽ để mình dắt cô ấy vào nhà thờ.”

Tôi rùng mình. “Mình không thích nhà thờ.”

“Mình đã từng bảo Ana Kuya rằng mình sẽ cưới bồ.”

Tôi bật cười. “Bồ còn nhớ sao?”

“Alina,” cậu nói và hôn lên vết sẹo trên lòng bàn tay tôi, “Mình nhớ hết tất cả.”

Đã đến lúc bỏ lại Tomikyana phía sau. Chúng tôi chỉ có một đêm để hồi phục, nhưng tin tức về sự hủy diệt của Vực Tối đang lan nhanh, và chóng thôi chủ nông trại sẽ trở về. Và dù tôi không còn là Tiết Dương Sư nữa, vẫn còn nhiều thứ tôi cần làm trước khi chôn cất Sankta Alina mãi mãi.

Genya đem quần áo sạch đến cho chúng tôi. Mal đi khập khiễng ra sau máy ép để thay đồ trong lúc cô ấy giúp tôi mặc một chiếc áo choàng kiểu đơn giản và sarafan khoác chồng lên. Chúng là trang phục thường dân, thậm chí không phải quân phục.

Cô ấy từng dệt vàng lên tóc tôi ở Tiểu Điện, nhưng giờ chúng tôi cần một sự thay đổi căn bản hơn. Cô ấy dùng một vại chứa chất hematit và một nhúm lông gà trống sáng bóng để đổi màu tóc trắng nổi bật một cách tạm thời, rồi cột khăn vuông quanh đầu tôi cho chắc ăn.

Mal quay lại sau khi mặc áo chẽn và quần dài cùng áo khoác đơn giản. Cậu ấy đội mũ len đen vành hẹp. Genya chun mũi. “Trông cậu y chang một nông dân.”

“Tôi từng trông tệ hơn nhiều.” Cậu ấy liếc nhìn tôi.

“Tóc bồ màu đỏ à?”

“Tạm thôi.”

“Và cô ấy trông khá hợp với nó,” Genya bổ sung, rồi rời khỏi kho thóc. Hiệu ứng sẽ mờ đi trong vài ngày thôi.

Genya và David sẽ đi riêng để tập họp với nhóm Grisha ở doanh trại quân đội trong Kribirsk. Họ đề nghị đem Misha theo, nhưng nó muốn đi cùng tôi và Mal. Nó bảo chúng tôi cần được chăm sóc. Chúng tôi bảo đảm rằng huy hiệu hình mặt trời của nó được cất giấu an toàn và túi áo nó chứa đầy phô mai cho Oncat. Rồi chúng tôi tiến vào bãi cát xám từng một thời là Vực Tối.

Thật dễ hòa vào đám đông đang đến và đi khỏi Ravka. Có những gia đình, những nhóm binh sĩ, quý tộc, và thường dân. Con nít trèo lên những chiếc tàu lướt cát hư hại. Dân chúng tập trung thành từng nhóm. Họ ôm hôn nhau, chuyền tay nhau những chai kvas và bánh mì chiên nhân nho khô. Họ chào nhau bằng tiếng hét “yunejhost!” Thống nhất.

Giữa những hò reo vẫn còn nỗi buồn phảng phất. Thinh lặng bao trùm tàn tích đổ nát của Novokribrisk ngày nào. Phần lớn tòa nhà đã tan thành cát bụi. Chỉ còn những khoảng không váng vất của những đường phố ngày xưa, và tất cả bị xóa tan thành một màu xám trắng. Vòi phun đá hình tròn từng đặt ở giữa thị trấn giờ trông như vầng trăng khuyết, bị ăn mòn bởi sức mạnh hắc ám của Vực Tối. Những cụ già chọt tay lên di tích quái gở và lẩm bẩm với nhau. Ngay cả góc bên kia thị trấn sụp đổ, những kẻ thương tiếc đặt hoa lên xác tàu, và xây bệ thờ nhỏ bên trong chúng.

Ở khắp nơi, tôi thấy dân chúng vận trang phục có hình hai con đại bàng, đem theo biểu ngữ, và phất cờ Ravka. Phụ nữ mặc màu xanh nhạt và thắt nơ vàng trên tóc, và tôi nghe tiếng thì thầm về sự tra tấn mà hoàng tử trẻ đã phải chịu dưới tay Hắc Y.

Tôi nghe cả tên tôi. Đoàn hành hương sớm đã tràn vào Vực Tối để thấy được phép màu từng xảy ra và cầu nguyện cho Sankta Alina. Một lần nữa, những người bán hàng rong bắt đầu đẩy xe chất đấy những thứ được họ tuyên bố rằng đấy là xương tay tôi, và khuôn mặt của tôi nhìn tôi chằm chằm từ những hình vẽ trên gỗ. Dù trông không giống tôi cho lắm. Đó là một cô gái xinh đẹp hơn, với gò má bầu bĩnh và đôi mắt nâu trong trẻo, vòng cổ sừng hươu đực của Morozova đeo trên cần cổ thanh mảnh. Alina vùng Vực Tối.

Không ai ngoái nhìn chúng tôi lần thứ hai. Chúng tôi không phải quý tộc. Chúng tôi không phải Hạ Quân. Chúng tôi không phải đội quân Tiết Độ Sư mới lạ này. Chúng tôi vô danh, chúng tôi là du khách.

Ở Kribirsk, tiệc tùng rầm rộ hết mức. Xưởng đóng tàu sáng ngời cùng bao hàng đèn lồng màu sắc. Dân chúng hát vang và uống rượu trên tàu lướt cát. Họ tập trung trên những bậc thang doanh trại và lục tung chiếc lều hỗn độn tìm thức ăn. Tôi thoáng thấy lá cờ màu vàng của Lều cung cấp tư liệu, và dù phần nào trong tôi mong mỏi được trở về, được hít hà mùi mực và giấy quen thuộc của nơi đó, tôi vẫn không thể mạo hiểm, sợ rằng một trong những người vẽ bản đồ sẽ nhận ra tôi.

Nhà thổ và quán rượu trong thị trấn đang làm ăn phát đạt. Một điệu nhảy ngẫu hứng diễn ra ở quảng trường trung tâm, dù ngay cuối đường đang có một đám đông đang tập trung ở một nhà thờ cổ để đọc những cái tên được viết trên tường và thắp nến cho người chết. Tôi dừng lại thắp một ngọn nến cho Harshaw, rồi một ngọn nữa, một ngọn nữa. Hắn thích lửa lắm mà.

Tamar đã tìm được một phòng cho chúng tôi tại một quán trọ tươm tất hơn. Tôi để Mal và Misha ở lại cùng lời hứa sẽ quay về vào buổi tối. Tin tức từ Os Alta vẫn còn là một mớ bòng bong, và chúng tôi vẫn chưa nghe ngóng gì về mẹ của Misha cả. Tôi biết thằng bé đang hy vọng, nhưng nó không nói lời nào về việc đó, chỉ nghiêm nghị thề rằng sẽ trông chừng Mal trong lúc tôi vắng mặt.

“Đọc truyện ngụ ngôn kinh thánh cho anh ấy nhé,” tôi thì thầm với Misha. “Anh ấy thích chúng lắm.”

Tôi suýt đã không đỡ được cái gối Mal ném từ bên kia phòng.

Tôi không đến thẳng doanh trại hoàng gia, nhưng men theo lộ trình dẫn tôi ngang qua nơi chiếc lều tơ lụa của Hắc Y từng tồn tại. Tôi những tưởng anh ta sẽ cho xây lại nó, nhưng cánh đồng trống rỗng, và khi tôi đến căn cứ của Lantsov, tôi nhanh chóng hiểu rõ lý do. Hắc Y đã chiếm đóng ở đó. Anh ta treo cờ hiệu màu đen trên cửa sổ và hình khắc hai con đại bàng phía trên cửa đã được thay bằng mặt trời khi nhật thực. Giờ công nhân đang tháo dỡ những tấm màn đen và thay thế chúng bằng màu xanh vàng của Ravka. Một tấm vải bạt được căng ra để đỡ gạch đá trong lúc một binh sĩ cầm búa lớn đập vào huy hiệu bằng đá trên cửa, khiến nó tan thành tro bụi. Tiếng hò hét vang lên từ phía đám đông. Tôi không thể chia sẻ nỗi phấn khích ấy cùng họ. Sau tất cả những tội lỗi của anh ta, Hắc Y vẫn đã yêu thương Ravka, và anh ta khao khát tình thương của nó đáp lại.

Tôi tìm thấy một vệ sĩ gần lối vào và hỏi Tamar Kir- Bataar. Gã cúi xuống nhìn tôi, không thấy gì hơn ngoài một con bé thường dân gầy gò, và trong phút chốc tôi nghe Hắc Y nói, giờ cô chẳng là gì hết. Con bé ngày xưa có lẽ sẽ tin anh ta. Cô gái là tôi bây giờ thì không có hứng nghe.

“Ngươi còn đợi gì nữa?” Tôi quát. Tên lính chớp mắt và rời đi. Vài phút sau. Tamar và Tolya chạy xuống bậc thang để gặp tôi.

Tolya nhấc bổng tôi lên trong vòng tay khổng lồ của anh ta.

“Em gái của chúng tôi,” anh ta giải thích với tên lính tò mò.

“Em gái chúng ta?” Tamar rít lên trong lúc chúng tôi bước vào doanh trại hoàng gia. “Cô ấy trông chẳng giống chúng ta chút nào. Nhớ nhắc em đừng bao giờ để anh nghĩ có nhé.”

“Anh có nhiều thứ hay hơn để làm ngoài chuyện xì xầm qua lại,” anh ta đường hoàng đáp trả. “Hơn nữa, cô ấy là em gái của chúng ta.”

Tôi nuốt cục nghẹn trong cổ họng rồi nói, “Tôi đến không đúng lúc à?”

Tamar lắc đầu. “Nikolai kết thúc buổi họp sớm để mọi người có thể tham dự…” cô ấy bỏ dở câu nói.

Tôi gật đầu.

Họ dẫn tôi xuống cuối một hành lang treo đầy vũ khí chiến tranh và bản đồ Vực Tối. Những hình vẽ ấy giờ phải thay đổi. Tôi tự hỏi trên bãi cát chết ấy liệu có thứ gì mọc lên hay không.

“Cô sẽ ở lại với anh ta chứ?” tôi hỏi Tamar. Hẳn Nikolai rất muốn có những người gã tin tưởng ở cạnh.

“Một thời gian thôi. Nadia muốn vậy, và vẫn còn vài thành viên của trung đoàn Hai mươi hai còn sống.”

“Nevsky?”

Cô ấy lắc đầu.

“Stigg có thoát khỏi Guồng Quay Tơ không?”

Cô ấy lại lắc đầu. Vẫn còn những người phải hỏi tên, những danh sách thương vong tôi ghét phải đọc, nhưng việc ấy phải chờ.

“Tôi có thể ở lại,” Tolya bảo. “Tùy vào…”

“Tolya,” Tamar gắt lên.

Tolya đỏ mặt và nhún vai. “Tùy tình thế thôi.”

Chúng tôi chạm mặt một cánh cửa đôi nặng trịch, tay nắm cửa là đầu hai con đại bàng gào thét.

Tamar gõ cửa. Căn phòng tối om, chỉ được thắp sáng bởi đốm lửa trong lò sưởi. Tôi mất một lúc mới thấy Nikolai trong ánh lửa. Gã ngồi trước bếp lò, đôi bốt sáng bóng của gã gác trên một cái ghế đẩu nhồi đệm. Một đĩa thức ăn đặt bên cạnh gã, kế bên là một chai kvas, dù tôi biết gã thích brandy hơn.

“Chúng thần sẽ ở ngoài,” Tamar nói.

Sau tiếng cửa đóng, Nikolai cất lời. Gã nhảy bật dậy và cúi chào. “Thứ lỗi cho ta,” gã nói. “Ta đang mải suy nghĩ.” Rồi gã nhăn răng cười và nói. “Hoàn cảnh khác lạ.”

Tôi tựa vào cửa. “Anh không cần làm thế.”

“Nhưng ta thích.” Nụ cười của gã phai dần. Gã đưa tay về cái ghế cạnh lò sưởi. “Ngồi với ta nhé?”

Tôi băng qua phòng. Chiếc bàn dài rải rác những văn kiện và chồng thư được đóng mộc hoàng gia.

Một cuốn sách mở ra trên ghế. Gã đẩy nó sang bên và chúng tôi ngồi xuống.

“Anh đang đọc gì thế?”

Gã liếc nhìn tựa đề. “Một trong những chương lịch sử của quân đội Kamenski. Thật đấy, ta chỉ muốn nhìn chữ thôi.” Gã lướt ngón tay lên bìa sách. Tay gã chằng chịt những vết trầy xước. Dù vết sẹo của tôi đã mờ đi, Hắc Y đã đánh dấu Nikolai theo một cách khác. Những lằn đen mờ nhạt vẫn chạy dài trên ngón tay gã - nơi móng vuốt đã xuyên thủng da để mọc ra. Gã sẽ phải vờ rằng chúng là dấu vết của đòn tra tấn gã phải chịu trong thời gian làm tù nhân của Hắc Y. Một cách nào đó, chuyện đó là sự thật. Ít nhất những dấu vết còn lại của Hắc Y dường như đã phai nhạt. “Ta không thể đọc,” gã tiếp tục. “Khi ta bị… ta đã nhìn thấy những biển tên trên cửa hiệu, chữ viết trên sọt đựng hoa quả. Ta không hiểu chúng, nhưng ta vẫn biết rằng chúng có ý nghĩa hơn những vết cào trên tường.”

Tôi ngồi lún xuống ghế hơn. “Anh còn nhớ gì nữa?”

Đôi mắt nâu đỏ của gã nhìn xa xăm. “Quá nhiều. Ta… ta vẫn còn cảm thấy bóng tối ở bên trong. Ta cứ nghĩ rằng nó sẽ biến mất, nhưng…”

“Tôi biết,” Tôi nói. “Giờ đã khá hơn, nhưng nó vẫn còn đó.” Như bóng ma kề cạnh trái tim. Tôi không biết đấy là ẩn ý gì về sức mạnh của Hắc Y và tôi không muốn nghĩ đến nữa. “Có thể sau này nó sẽ mờ dần.”

Gã đưa tay day lên sống mũi. “Đây không phải thứ dân chúng cần ở một vị vua, thứ họ mong chờ ở ta.”

“Hãy cho bản thân anh cơ hội phục hồi.”

“Mọi người đang dõi theo. Họ cần được an lòng. Sẽ không lâu trước khi nước Fjerda hoặc Shu cố tiến đánh ta.”

“Anh sẽ làm gì?”

“Hải quân vẫn nguyên vẹn, tạ ơn Thánh thần và Privyet,” gã nói, ý bảo người sĩ quan mình đã trao quyền khi rũ bỏ lớp vỏ bọc Sturmhond. “Họ có thể kiềm chân Fjerda một thời gian, và tàu tiếp tế đã đợi sẵn ở bến cảng để vận chuyển vũ khí. Ta đã gửi lời đến toàn bộ tiền đội quân sự. Chúng ta sẽ cố gắng hết sức để bảo vệ biên giới. Ngày mai ta sẽ đến Os Alta, và ta có những mật phái đang trên đường đưa quân dân trở về dưới lá cờ của Vua.” Gã khẽ cười. “Cờ của ta.”

Tôi mỉm cười. “Hãy nghĩ đến những cái cúi chào và nhún chân trong tương lai của anh.”

“Vua Cướp Biển vạn tuế.”

“Thuyền trưởng.”

“Sao phải né tránh? ‘Đức vua nghiệt chủng’ nghe giống hơn.”

“Thật ra,” tôi nói, “dân chúng đã gọi anh là Korol Renzi? Tôi đã nghe họ thì thầm trên đường phố Kribirsk: Đức vua sứt sẹo.

Gã ngẩng phắt lên. “Cô có nghĩ họ biết không?”

“Tôi không nghĩ vậy. Nhưng anh đã quen với tin đồn rồi, Nikolai. Và đây có thể là chuyện tốt.”

Gã nhướng mày.

“Tôi biết anh thích được yêu thương,” tôi nói, “nhưng một chút sợ sệt cũng không ăn nhằm gì.”

“Hắc Y đã dạy cô thế à?”

“Và anh. Tôi nhớ mang máng câu chuyện về ngón tay của một thuyền trưởng Fjerda và một con chó săn đói khát.”

“Lần tới nhớ báo trước với ta khi cô chăm chú lắng nghe. Ta sẽ nói ít lại.”

“Giờ anh mới biết à.”

Nét cười thoáng hiện trên môi gã. Rồi gã cau mày. “Ta nên cảnh cáo cô - tối nay lão Tư Tế sẽ có mặt.”

Tôi ngồi thẳng dậy. “Anh tha tội cho lão à?”

“Ta phải làm vậy. Ta cần lão ủng hộ.”

“Anh sẽ ban cho lão một chức vụ trong triều ư?”

“Chúng ta đang thương lượng,” gã cay đắng đáp lời.

Tôi có thể nói cho gã tất cả thông tin tôi biết về lão Tư Tế, nhưng tôi đoán thứ có ích nhất là vị trí của Giáo Hội Trắng. Không may thay, Mal là người duy nhất có thể dắt chúng tôi trở về, và tôi không chắc điều đấy còn khả dĩ hay không.

Nikolai biếng nhác quay chai rượu kvas.

“Vẫn chưa quá trễ,” gã nói. “Cô có thể ở lại. Cô có thể quay lại Đại Điện cùng ta.”

“Và làm gì?”

“Dạy học, giúp ta khôi phục lại Hạ Quân, vui cảnh điền viên bên bờ hồ?”

Đây là thứ đã lôi kéo Tolya. Anh ta đã mong tôi sẽ trở về Os Alta. Chỉ nghĩ đến thôi đã thấy đau.

Tôi lắc đầu. “Tôi không phải Grisha, và tôi chắc chắn không phải quý tộc. Tôi không thuộc về hoàng triều.”

“Cô có thể ở với ta,” gã khẽ nói. Gã lại quay chai rượu lần nữa. “Ta vẫn cần một Hoàng hậu”.

Tôi nhổm dậy khỏi ghế và đẩy chân gã ra, cuối cùng ngồi xuống ghế đẩu để nhìn thẳng vào gã.

“Tôi không còn là Tiết Dương Sư nữa, Nikolai. Tôi thậm chí còn không phải Alina Starkov. Tôi không muốn quay về triều đình.”

“Nhưng cô hiểu… thứ này.” Gã gõ lên ngực.

Tôi hiểu. Merzost. Bóng tối. Gã ghét bỏ và khao khát nó cùng một lúc.

“Tôi sẽ chỉ là một gánh nặng. Sức mạnh là đồng minh,” tôi nhắc gã.

“Ta thật thích khi cô trích dẫn lời ta.” Gã thở dài. “Phải chi ta không thông minh kiệt xuất như vậy.”

Tôi đút tay vào túi và đặt viên ngọc gia truyền Lantsov lên đầu gối Nikolai. Genya đã trả nó cho tôi khi chúng tôi rời Tomikyana.

Gã nhặt nó lên, xoay xoay nó. Viên đá lóe màu xanh dưới ánh lửa. “Một công chúa nước Shu vậy? Một cô gái Fjerda ngực bự? Con gái một ông trùm nước Kerch?” Gã giơ chiếc nhẫn ra. “Giữ nó đi.”

Tôi nhìn gã chằm chằm. “Anh đã uống bao nhiêu chai kvas rồi?”

“Không một giọt. Làm ơn. Cứ giữ nó đi.”

“Nikolai, tôi không thể.”

“Ta nợ cô, Alina. Ravka nợ cô. Chiếc nhẫn này và hơn thế. Làm từ thiện hoặc đặt xây một nhà hát opera hoặc cứ lấy nó ra và nhìn nó đắm đuối khi cô nghĩ về chàng hoàng tử đẹp trai mà cô có thể biến thành chồng của mình. Nói cho cô biết, ta thích lựa chọn cuối cùng hơn, tốt hơn nó nên đi kèm với hai hàng nước mắt và những bài thơ dở tệ đọc thuộc lòng.”

Tôi bật cười.

Gã cầm tay tôi và ấn chiếc nhẫn vào đó. “Cầm lấy nó và xây thứ gì mới đi.”

Tôi xoay nhẫn trong tay. “Tôi sẽ cân nhắc.”

Gã đảo mắt. “Cô có ác cảm gì với hai từ đồng ý à?”

Tôi thấy mắt mình rơm rớm và phải chớp mắt để giấu chúng. “Cảm ơn.”

Gã ngả người xuống ghế. “Chúng ta từng là bạn, đúng chứ? Không chỉ là đồng minh.”

“Đừng có tinh tướng, Nikolai. Chúng ta vẫn là bạn.” Tôi gõ mạnh lên đầu gối gã. “Giờ, tôi và anh phải giải quyết vài thứ về Hạ Quân. Và rồi chúng ta sẽ nhìn tôi bị thiêu rụi.”

Trên đường đến cảng tàu, tôi lẻn đi và tìm thấy Genya. Cô ấy và David đang ở trong lều của Sáng Chế Gia ở phía tây doanh trại. Khi tôi đưa cô ấy lá thư đóng dấu hai con đại bàng của Ravka, cô khựng lại, ngần ngại cầm lấy nó, như thể tờ giấy nặng trĩu quá nguy hiểm để chạm vào.

Cô ấy miết ngón cái trên con dấu sáp, ngón tay hơi run rẩy. “Đây là…?”

“Là thư ân xá.”

Cô ấy xé toạc lá thư rồi ôm siết nó.

David không ngẩng lên khỏi bàn làm việc khi cất tiếng, “chúng ta phải vào tù sao?”

“Chưa đâu,” cô ấy đáp. Cô ấy gạt nước mắt. “Cảm ơn cô.” Rồi cô ấy cau mày khi tôi đưa cô ấy lá thư thứ hai. “Cái gì đây?”

“Thư mời làm việc.” Phải tốn công thuyết phục một chút, nhưng cuối cùng Nikolai đã nhận ra lý lẽ trong lời đề nghị của tôi. Tôi hắng giọng. “Ravka vẫn cần những Grisha của đất nước, và Grisha vẫn cần một nơi trú thân trên thế giới. Tôi muốn cô lãnh đạo Hạ Quân, cùng với David. Và Zoya.”

“Zoya? Cô đang trừng phạt tôi đấy à?”

“Cô ấy rất mạnh, và tôi nghĩ cô ấy có tố chất làm lãnh đạo tốt. Hoặc cô ấy sẽ biến đời cô thành địa ngục. Có thể là cả hai.”

“Sao lại là chúng tôi? Hắc Y…”

“Hắc Y đã biến mất, và Tiết Dương Sư cũng vậy. Giờ Grisha có thể tự dẫn dắt nhau, và tôi muốn mọi thứ đều có lớp lang thứ tự: Tâm Y, Sáng Chế Gia, và cô - Tiết Độ Sư.”

“Tôi không phải là Tiết Độ Sư thật sự, Alina.”

“Khi có cơ hội, cô đã chọn màu đỏ. Và tôi mong những cấp bậc ấy sẽ chẳng nghĩa lý gì mấy nếu đoàn Grisha tự dẫn dắt lẫn nhau. Mọi người đều rất mạnh. Mọi người đều hiểu cám dỗ từ sức mạnh hoặc địa vị hoặc tri thức là thế nào. Hơn nữa, tất cả đều là người hùng.”

“Họ sẽ theo sau Zoya, thậm chí có thể cả David…”

“Hử?” anh ta lơ đãng hỏi.

“Không có gì. Anh sẽ phải đi họp nhiều hơn.”

“Tôi ghét họp hành,” anh ta càu nhàu.

“Alina,” cô ấy nói, “Tôi không chắc họ sẽ nghe lời tôi.”

“Cô buộc họ phải nghe lời cô.” Tôi chạm vai cô ấy. “Dũng cảm và bất khuất.”

Cô chậm rãi nở nụ cười. Rồi cô ấy nháy mắt. “Và phi thường.”

Tôi nhăn răng. “Thế là cô đồng ý?”

“Tôi đồng ý.”

Tôi ôm cô thật chặt. Cô ấy bật cười, rồi kéo một sợi tóc rơi ra từ khăn vấn của tôi.

“Bắt đầu nhạt màu rồi,” cô ấy nói. “Tôi có nên chỉnh lại cho cô không?”

“Ngày mai.”

“Ngày mai,” cô ấy đồng ý.

Tôi ôm lấy cô lần nữa, rồi chuồn ra ngoài nhìn ánh sáng ngày tàn.

Tôi đi xuyên qua doanh trại, theo đám đông băng ngang cảng tàu và ra bãi cát một thời từng là Hư Hải. Mặt trời đã gần lặn, nhưng ai cũng thấy giàn thiêu, một đống gỗ khổng lồ, củi cành đan vào nhau như những cánh tay trắng nhợt.

Cơn rùng mình chạy dọc người tôi khi nhìn thấy cô gái nằm phía trên nó. Mái tóc của cô bung xõa quay đầu thành vòng hào quang tinh khôi. Cô mặc bộ kefta màu xanh và vàng, và chiếc vòng Morozova quấn quanh cổ, sừng của con hươu đực màu xám bạc tương phản trên da. Những sợi cước của Sáng Chế Gia ghép mấy mảnh vỡ lại với nhau không thể nhìn ra được.

Mắt tôi đảo quanh khuôn mặt cô ấy - khuôn mặt của tôi. Genya đã hoàn thành một kiệt tác. Hình dạng vừa đúng, dáng mũi, góc cằm. Hình xăm trên má cô ấy đã biến mất. Không còn gì của Ruby ở lại, chiến binh Soldat Sol đã có thể trở thành Tiết Dương Sư nếu không phải bỏ mạng trên Vực Tối. Cô ấy đã chết như một người bình thường.

Tôi đã do dự trước ý định dùng cơ thể của cô ấy theo cách này, phiền lòng nghĩ đến việc gia đình cô sẽ không có xác để chôn. Tolya là người thuyết phục được tôi. “Cô ấy đã tin, Alina. Dù cô không tin, cũng hãy để cô ấy thực hiện nghĩa cử đức tin cuối cùng.”

Bên cạnh Ruby, Hắc Y nằm trong bộ kefta màu đen.

Ai đã sửa soạn cho anh ta? Tôi tự hỏi, cảm thấy đau đớn dâng lên nơi cuống họng. Ai đã chải xước mái tóc đen của anh ta khỏi trán thật gọn ghẽ? Ai đã đặt đôi bàn tay thanh nhã của anh ta xếp trên ngực?

Ai đó trong đám đông đang phàn nàn rằng Hắc Y không có quyền dùng chung giàn thiêu với Thánh nữ. Nhưng tôi thấy thế là đúng, và dân chúng cần được thấy kết thúc của mọi chuyện.

Nhóm Soldat Sol còn lại đã tập trung quanh giàn thiêu, lưng và ngực trần của họ được vẽ đầy hình xăm. Vladim cũng ở đó, đầu cúi xuống, vết sẹo xăm được ánh lửa chiếu sáng. Xung quanh họ, dân chúng khóc thương. Nikolai đứng ngoài biên, vận đồng phục Thượng Quân trắng toát, lão Tư Tế đứng bên cạnh. Tôi kéo khăn lên.

Nikolai thoáng liếc qua tôi từ phía bên kia vòng tròn. Gã ra hiệu. Lão Tư Tế giơ tay. Nhóm Tiết Hỏa Sư đánh đá lửa. Lửa bùng lên thành vòng tròn rực cháy, vây phủ và bổ nhào quanh đống gỗ như những chú chim thoăn thoắt, liếm nhẹm vào vải nhóm đến khi nó ầm ỉ rồi bắt lửa.

Lửa cháy to hơn, rực sáng chói mắt, tựa những phiến lá xào xạc của cây cổ thụ vàng. Xung quanh tôi, tiếng rên rỉ và khóc than của đám đông ầm ĩ hơn.

Sankta, họ hét. Sankta Alina.

Mắt tôi cay xè vì khói. Mùi lửa bốc lên ngọt đến buồn nôn.

Sankta Alina.

Không ai biết tên của anh ta để nguyền rủa hay ca tụng, nên tôi gọi nó khẽ khàng, tựa như tiếng thở.

“Aleksander,” tôi thì thầm. Tên của một cậu bé, bị chối bỏ. Gần như lãng quên.