Chương 18
Aster Driver, ngay sát biển đến nỗi người ta có thể cảm nhận được đại dương trong không khí nhưng lại không thể nhìn thấy mặt nước từ trước nhà. Aster Driver có một khúc lượn dài êm ả và những ngôi nhà nằm ở khúc đường này quả là đẹp tuyệt vời. Trên phía hẻm núi, những tòa biệt thự lớn yên tĩnh với những dãy tường cao và cánh cổng thép đồ sộ, những tường rào kiểu cách và nếu người ta có thể lọt vào bên trong, cả một thiên đường của ánh nắng lặng lẽ uy nghiêm. Đó là những chốn cô tịch của tầng lớp thượng lưu.
Một người đàn ông vận chiếc áo chẽn kiểu Nga màu xanh sẫm, quần xà cạp đen óng ánh đứng bên cánh cổng hé mở. Đó là một chàng trai da ngăm ngăm, ưa nhìn, vai rộng, mái tóc sáng mượt mà, cái mũ chóp nhọn ngang tàng phủ một bóng râm êm dịu xuống đôi mắt. Anh ta ngậm trễ một điếu thuốc lá nơi khóe mép, hơi nghiêng đầu như thể thích thú làn khói thuốc tỏa ra đằng mũi. Một bàn tay đeo chiếc găng dài mềm mại màu đen, còn tay kia để trần. Một chiếc nhẫn nặng trên ngón thứ ba.
Không thấy có biển số, nhưng tôi đoán đây là nhà số 862. Tôi dừng xe, ngả người ra ngoài, hỏi anh ta. Một lúc lâu anh ta mới trả lời. Anh ta nhìn tôi chăm chú, nhìn kỹ chiếc xe của tôi.
Anh ta đến gần tôi, vừa đi vừa buông cẩu thả cánh tay không đeo găng sau hông. Cái kiểu cẩu thả ấy có ý nghĩa nhắc nhở.
Anh ta dừng trước tôi vài bước và lại nhìn tôi.
- Tôi tìm nhà Grayle, - tôi nói.
- Đây rồi. Nhưng mọi người đi vắng.
- Người ta đợi tôi mà.
Anh ta gật đầu, đôi mắt long lanh như có nước.
- Tên ông là gì?
- Philip Marlowe.
- Ông chờ đây.
Anh ta bước chậm rãi qua cổng và mở một cánh cửa thép chôn vào chiếc cột đồ sộ. Đó là phòng điện thoại. Anh ta nói nhanh vào thang máy, đẩy cánh cửa và trở lại chỗ tôi.
- Ông có giấy tờ chứng nhận gì không?
Tôi đưa cho anh ta xem bằng lái xe.
- Cái đó chả nói lên điều gì, - anh ta nói. - Tôi làm thế nào mà biết được nó là xe của ông?
Tôi rút chìa khóa ra khỏi ổ, đẩy cửa xe và bước ra ngoài. Tôi cách anh ta khoảng một bước. Anh ta thở nhẹ. Cuối cùng là mặt đối mặt.
- Cậu có xỉn không đấy? - Tôi nói.
Anh ta mỉm cười, cặp mắt dán vào tôi. Tôi nói:
- Nghe này, tôi sẽ nói chuyện với ông quản gia qua điện thoại và ông ta sẽ nhận ra giọng tôi. Như thế đủ cho tôi vào hay chưa, hay tôi phải nện lên lưng cậu?
- Tôi chỉ làm việc ở đây. - Anh ta nói nhẹ nhàng - Nếu tôi không... - Anh ta để câu nói lơ lửng trong không khí và vẫn mỉm cười.
- Cậu là một chàng trai khá, - tôi nói và vỗ vai anh ta. - Người ở Dartmouth hay Danemora?
- Lạy Chúa. Sao ông không nói ngay ông là cảnh sát?
Cả hai chúng tôi cùng cười. Anh ta vẫy tay và tôi đi qua cánh cổng hé mở.
Lối đi vòng vèo và bị che khuất bởi những hàng rào cây xanh sẫm cao lớn, dù nhìn từ phía nhà hay từ ngoài đường. Qua cánh cổng xanh lá, tôi thấy một người làm vườn da đen đang xén bãi cỏ rộng. Ông ta gạt cỏ đã xén ra khỏi tấm thảm thênh thang, vừa làm vừa mỉm cười. Rồi hàng rào cao lớn ấy cũng khép kín lại lần nữa và tôi không nhìn thấy gì trong khoảng cách một trăm bước. Bên kia hàng rào là một vòng cung rộng có khoảng nửa tá xe hơi đậu.
Một trong mấy chiếc xe là chiếc Coupe hai chỗ ngồi. Có hai chiếc Buick tuyệt đẹp kiểu mới nhất, có thể lướt êm ả trên mọi ngả đường, một chiếc Limousine đen mạ kền sáng loáng. Một chiếc xe thể thao hai chỗ ngồi, mui trần. Đường xe chạy bằng bê tông ngắn nhưng rất rộng, từ đó đâm thẳng vào cửa chính tòa nhà.
Ra khỏi bên trái, sau bãi để xe là khu vườn chơi có bốn vòi phun nước ở bốn góc, cổng vào vườn cũng là những cánh thép uốn hoa mỹ, giữa vườn là pho tượng thần Ái tình có cánh. Những cột đèn lồng chạm trổ các tượng quái vật mình sư tử đầu chim và những ghế đá đặt trong các góc. Một bể nước hình chữ nhật với những đài phun nước hình hoa huệ bằng đá, trên lá của mỗi đóa hoa là một con cóc đá. Xa hơn nữa, những dãy cột đá dẫn đến một thứ giếng như bệ thờ, rào kín cả hai phía, không kín hoàn toàn vì ánh nắng vẫn tràn ngập trên các bậc đá của nó. Tận cùng bên trái là khu vườn hoang, một chiếc đồng hồ mặt trời gắn trên một góc tường trông đổ nát như một phế tích. Hoa nở khắp nơi, có tới cả triệu bông.
Tòa nhà nhỏ hơn Cung điện Buckingham, hơi xám so với California, và chắc chắc là ít cửa sổ hơn Chrysles Building.
Tôi đi tới cổng bên, nhấn chuông và đâu đó một tiếng chuông vang lên êm dịu và sâu xa như tiếng chuông nhà thờ.
Một người đàn ông mặc chiếc áo vest kẻ sọc có hàng khuy mạ vàng mở cánh cửa, cúi chào, cất mũ cho tôi. Sau lưng ông ta, trong bóng tối mờ, một người đàn ông nữa mặc chiếc quần là cứng, chiếc áo vest đen và cà vạt màu xám, kẻ sọc, nghiêng mái đầu hoa râm về phía trước nửa inch và nói:
- Ông Marlowe? Xin mời ông qua lối này.
Chúng tôi xuống phòng lớn. Đó là một gian phòng cực kỳ yên tĩnh, không có cả tiếng ruồi bay. Sàn phủ thảm phương Đông, những bức tường treo đầy tranh. Chúng tôi tới một góc và thấy một gian phòng lớn nữa. Một cửa sổ kiểu Pháp hé ra những tia sáng yếu ớt phản chiếu từ một mặt nước màu xanh lơ ngoài xa. Và tôi nhớ lại với một chút choáng váng là chúng tôi đang ở gần sát Thái Bình Dương và ngôi nhà này nằm ngay trên mép một trong những hẻm núi.
Viên quản gia giơ tay mở một cánh cửa cách âm rồi đứng sang một bên và tôi bước vào. Đó là một căn phòng đẹp với những trường kỷ lớn và những ghế bành rộng bọc da vàng nhạt kê xung quanh lò sưởi. Mặt sàn mài bóng láng, trải một tấm thảm mỏng như lụa. Trong góc, một bình hoa bằng đá đen lấp lánh, một bình hoa nữa đặt trên chiếc bàn thấp, trên tường treo những bức tranh cổ nét vẽ đã mờ, nơi này là tiện nghi, là tâm tình, là ấm cúng, nét hiện đại bên nét cổ kính, và ba người ngồi trong sự im lặng bồn chồn chờ tôi đến.
Một người là Anne Riordan, trông vẫn như lần gặp mới rồi, ngoại trừ một ly thủy tinh lóng lánh màu hổ phách trong tay. Người thứ hai là một người đàn ông cao và gầy, khuôn mặt buồn bã với chiếc cằm như tạc bằng đá, cặp mắt sâu thẳm không màu nhưng có một sắc vàng bệnh hoạn phảng phất. Ông ta khoảng sáu mươi tuổi hoặc hơn một chút, mặc bộ đồ sẫm cài một bông cẩm chướng đỏ, vẻ khuất phục.
Người thứ ba có mái tóc màu vàng hoe. Bà ta mặc bộ đồ đi phố màu nước biển ngả xanh lá cây nhạt. Tôi không để ý đến quần áo của bà. Đấy là việc của người đã vẽ kiểu cho bà và bà mặc nó đến với người đàn ông của mình. Bộ đồ làm cho bà trông như một thiếu nữ và cặp mắt màu cẩm thạch thành màu nước biển sẫm. Mái tóc màu vàng hoe, màu của những bức tranh cổ, được uốn xoăn vừa phải. Bà ta có những đường cong đầy đặn không ai có thể sửa được nét nào. Chiếc áo dài giản dị, ngoại trừ một chuỗi kim cương đeo trên cổ. Đôi tay không nhỏ nhắn nhưng thon thả và những móng tay có vô số hạt óng ánh của thuốc nhuộm. Bà ta ban cho tôi một nụ cười trông có thoải mái nhưng nhìn cặp mắt bình thản lại thấy vẻ ưu tư và chăm chú. Đôi môi đầy nhục cảm.
- Hân hạnh được ông tới, - bà nói - đây là chồng tôi. Mời ông Marlowe một ly đi!
Ông Grayle bắt tay tôi. Tay ông lạnh và hơi ẩm, đôi mắt buồn bã. Ông pha một ly Scotch soda và đưa cho tôi.
Rồi ông ngồi xuống một góc, im lặng. Tôi uống nửa ly, mỉm cười nhìn cô Riordan. Cô nhìn lại tôi với một vẻ xa vắng, như mải nghĩ tận đâu đâu.
- Ông nghĩ rằng ông có thể giúp chúng tôi chuyện gì đó? - Mái tóc vàng hoe hỏi một cách chậm rãi và nhìn ly rượu của mình. - Nếu ông cho là có thể, tôi rất vui mừng. Những mất mát coi như không đáng kể, nếu so sánh một cách không có gì cường điệu, với bọn kẻ cướp và những con người hung bạo.
- Tôi thực sự không biết nhiều về chúng, - tôi nói.
- Ồ, tôi hy vọng là ông có thể biết, - bà ta tặng tôi một nụ cười mà tôi cảm thấy cả ở tận xương hông.
Tôi uống nốt nửa ly còn lại. Tôi bắt đầu cảm thấy mỏi mệt. Bà Grayle rung cái chuông đặt trên tay ghế trường kỷ bọc da và một người hầu bước vào. Bà chỉ bâng quơ vào cái khay. Anh ta nhìn quanh và pha hai ly nữa. Cô Riordan vẫn ra vẻ uống ly của cô còn ông Grayle rõ ràng là không uống. Người hầu bước ra.
Bà Grayle và tôi nâng ly. Bà Grayle duỗi chân ra, khá thoải mái.
- Tôi không rõ tôi có thể giúp gì được cho bà, - tôi nói - tôi hoài nghi lắm, chúng ta tiếp tục làm những gì cho chuyện đó?
- Tôi chắc chắn là ông có thể làm, - bà ta lại tặng tôi một nụ cười nữa. - Lind Mariott tâm sự với ông đến đâu rồi?
Bà nhìn sang cô Riordan. Cô Riordan đúng là không nhận ra ý nghĩa cái nhìn ấy. Cô ngồi im trên ghế và nhìn đi chỗ khác. Bà Grayle nhìn chồng:
- Anh có thấy chán chuyện này không?
Ông Grayle đứng dậy và nói ông rất vui sướng được gặp tôi và ông phải đi ngả lưng một lát. Ông cảm thấy không được khỏe. Ông hy vọng là tôi sẽ tha lỗi cho ông. Ông thật lịch sự, tôi chỉ muốn đưa ông ra khỏi phòng để bày tỏ sự cảm kích của tôi.
Ông ra ngoài, khép cửa nhẹ nhàng như sợ đánh thức ai đó đang ngủ. Bà Grayle nhìn cánh cửa một lát rồi nụ cười trở lại trên gương mặt và bà nhìn tôi.
- Dĩ nhiên cô Riordan là người tin cẩn của ông.
- Không có ai là người hoàn toàn tin cẩn của tôi, bà Grayle ạ. Cô ấy được biết về vụ này chỉ những gì có thể biết được.
- Vâng. - Bà uống một ngụm hoặc hai ngụm cạn ly và đặt sang bên cạnh.
- Quỷ bắt cái thứ đồ uống lịch sự này đi, - bà nói bất ngờ - chúng ta cùng bàn chuyện chính nhé. Ông là người khá sành sỏi trong các câu chuyện rắc rối.
- Đó là một công việc khó chịu, - tôi nói.
- Tôi hoàn toàn không nghĩ như vậy. Tiền nong có khá không hay chuyện đó lạc đề?
- Không được bao nhiêu đâu. Có khá nhiều những nỗi buồn bực. Nhưng cũng vô số chuyện hay. Và lúc nào cũng đủ cơ hội làm những vụ lớn.
- Người ta làm thế nào để thành một thám tử tư? Sao ông không xích lại gần đây một chút? Và không đẩy cái bàn kia lại đây? Như thế tôi có thể lấy được ly tách.
Tôi đứng dậy và đẩy cái khay đặt trên giá qua mặt sàn nhẵn bóng đến cho bà. Bà pha hai ly nữa. Tôi vẫn còn nửa ly thứ hai.
- Phần lớn chúng tôi là những cảnh sát xuất ngũ, - tôi nói. - Đã có thời kỳ tôi làm việc cho Cục Điều tra. Tôi bị sa thải.
Bà nở nụ cười rất duyên:
- Tôi chắc không phải vì kém cỏi.
- Không, chuyện đó để nói sau. Bà có cuộc điện thoại khác nữa thì phải?
- À... - Bà ta nhìn Anne Riordan và chờ đợi cái nhìn đầy ý nghĩa.
Anne Riordan đứng dậy. Cô mang ly của cô vẫn đầy nguyên tới đặt xuống khay.
- Chắc bà có nhiều việc, - cô nói. - Nếu bà bận, tôi hết sức cảm ơn bà đã nói chuyện với tôi, bà Grayle. Tôi không quen như thế và đã nói với bà rồi.
- Trời đất, cô đừng có đi, - bà Grayle nói với nụ cười thường trực.
Anne Riordan cắn môi dưới giữa hai hàm răng một lúc như thể giữ hay nghiền nát ý nghĩ của mình.
- Rất tiếc, tôi sợ rằng sẽ phải đi. Tôi không làm việc cho ông Marlowe, bà biết đây. Chỉ là bạn thôi. Tạm biệt bà Grayle.
Mái tóc vàng hoe liếc nhìn cô.
- Tôi hy vọng cô sẽ ghé thăm tôi sớm. Một lúc nào đó. - Bà lắc chuông hai lần. Đó là tín hiệu gọi người quản gia. Ông ta mở cửa.
Cô Riordan đi nhanh ra và cửa đóng lại.
Bà Grayle nhìn cánh cửa một lúc với nụ cười bất biến sau khi cánh cửa khép chặt.
- Như thế này tốt hơn, ông có nghĩ thế không? - Bà nói sau một khoảng im lặng.
Tôi gật đầu.
- Chắc chắn là bà tự hỏi rằng tại sao cô ta lại biết nhiều thế nếu như cô ta chỉ là bạn tôi, - tôi nói - cô ta là một cô bé tò mò. Có vài điều cô ta tự tìm ra, như tìm ra bà là người có chuỗi hạt ngọc. Một vài điều ngẫu nhiên. Đêm qua. cô ta tới đúng nơi Mariott bị giết. Cô ta lái xe qua rồi ngẫu nhiên thấy một ánh đèn và đi xuống đó.
- Ôi! - Bà Grayle buông nhanh ly và ủ rũ nét mặt - Thật là kinh khủng khi nghĩ tới chuyên ấy, Lind khốn khổ! Ông ấy cũng khá là đê tiện. Phần lớn bạn bè là như vậy cả. Nhưng chết như thế thật là ghê gớm. - Bà rùng mình, cặp mắt mở lớn và sẫm lại.
- Về cô Riordan thì đúng là như vậy. Cô ta không nói ra. Cha cô là sếp cảnh sát ở đây một thời gian dài, - tôi nói.
- Vâng. Cô có bảo tôi thế. Ông không uống đi.
- Tôi đang uống ly mà tôi gọi.
- Ông với tôi, ta tiếp tục. Lind - ông Mariott - kể với ông vụ cướp xảy ra thế nào?
- Ở một nơi nào đó giữa đây và Trocadero, ông ta không nói chính xác. Có ba hoặc bốn người.
Bà gật cái đầu mạ vàng lấp lánh.
- Vâng. Ông ấy biết có cái gì đó khá là đùa cợt về vụ cướp này. Chúng vứt lại cho tôi một cái nhẫn, một cái khá đẹp.
- Ông ta kể với tôi như vậy.
- Tôi thấy buồn phiền vì chuỗi hạt ngọc bích. Dẫu sao, nó là một bảo vật, chắc chắn là không có mấy chuỗi như thế trên thế giới, một loại ngọc bích cực kỳ quý hiếm. Chúng giật nó trên cổ tôi. Tôi cho là chúng không biết giá trị chuỗi hạt ấy lớn đến thế nào, ông có nghĩ thế không?
- Chúng biết không phải lúc nào bà cũng đeo nó. Nhưng ai biết rõ giá trị chuỗi hạt?
Bà ngẫm nghĩ. Theo dõi nét mặt bà ưu tư thật là đẹp. Bà vẫn duỗi cặp chân thoải mái:
- Tôi nghĩ là ai cũng biết.
- Nhưng chúng có biết đêm đó bà đeo chuỗi hạt hay không? Ai biết cái đó?
Bà nhún đôi vai. Tôi cố giữ mắt mình nhìn nguyên một chỗ.
- Người hầu gái của tôi. Nhưng cô ta có cả trăm cơ hội. Và tôi tin cậy cô ta.
- Tại sao?
- Tôi không biết. Tôi chỉ tin cậy vài người. Tôi tin cậy ông chẳng hạn.
- Bà tin cậy Mariott?
Gương mặt bà chợt thoáng đăm chiêu. Đôi mắt bà nhíu lại:
- Có vài điều không. Những cái khác thì có. Có mức độ - Bà ta có một lối nói chuyện khá hay, nửa lạnh lùng nửa gian ngoan và không tàn nhẫn. Bà ta vòng vo khôn khéo.
- Được rồi, còn bên cạnh cô hầu gái? Người lái xe chẳng hạn?
Bà lắc đầu
- Lind lái xe cho tôi đêm đó, chính xe của ông ấy. Tôi không nghĩ George có liên quan. Thứ Năm phải không nhỉ?
- Tôi không biết điều đó, Mariott nói là bốn hoặc năm ngày trước khi ông ta kể cho tôi nghe. Thứ Năm nghĩa là cả một tuần lễ từ đêm hôm qua.
- Đúng, hôm ấy là Thứ Năm.
Bà với tay lấy ly của tôi, những ngón tay của bà chạm vào những ngón tay tôi một chút, sự đụng chạm nhẹ nhàng.
- George nghỉ tối Thứ Năm: Thứ Năm là ngày bình thường, ông biết đấy. - Bà rót một ly Scotch chín mọng cho tôi và làm bắn ra mấy giọt rượu kêu xèo xèo. Nó là loại rượu người ta nghĩ có thể uống vô tận, uống thả giàn khỏi lo lắng gì hết. Bà cũng rót cho mình một ly như thế.
- Lind có nói tên tôi với ông không? - Bà hỏi khẽ, đôi mắt vẫn ưu tư.
- Ông ấy cẩn thận không nói.
- Chắc ông ta cũng nói dối ông một chút về thời gian. Để xem chúng ta có những gì rồi. Cô hầu gái và người lái xe loại ra. Ngoài khả năng họ là tòng phạm, tôi định nói thế.
- Tôi không loại họ ra ngoài.
- Được, ít nhất tôi cũng cố gắng - bà ta cười lớn. - Rồi có Newton, viên quản gia. Ông ta có thể thấy tôi đeo chuỗi hạt đêm đó. Nhưng tôi đeo hơi thấp, lại mặc cái áo choàng lông buổi tối màu trắng nữa: không, ông ta không thể thấy nó được.
- Tôi đánh cuộc là bà đã thấy một giấc mơ - tôi nói.
- Ông không bị căng thẳng quá đấy chứ?
- Tôi đã được biết để tỉnh rượu hơn.
Ba ta ngả đầu ra đằng sau, cười rũ. Tôi chỉ biết bốn người đàn bà trong đời tôi làm như thế mà trông vẫn cứ đẹp. Bà ta là một.
- Newton thì được - tôi nói - loại người ấy không cặp với lũ lưu manh. Mặc dù đấy chỉ là cảm tưởng. Người hầu lúc nãy thì thế nào?
Bà ta ngẫm nghĩ, nhớ lại và lắc đầu.
- Anh ta không thấy tôi.
- Ai yêu cầu bà đeo chuỗi hạt?
Đôi mắt bà đột nhiên có vẻ cảnh giác hơn.
- Ông đừng gạt tôi đến chỗ kết tội - bà nói.
Bà đưa tay ra với lấy ly của tôi để rót rượu. Tôi để mặc bà rót, mặc dù trong ly vẫn còn tới một inch. Tôi ngắm những nét thật dễ thương trên cổ bà.
Khi bà đã rót đầy cả hai ly và chúng tôi lại cầm lên, tôi nói:
- Chúng ta xem lại mọi chi tiết rồi tôi sẽ nói với bà vài điều. Bà hãy tả lại tối hôm đó.
Bà xem đồng hồ ở cổ tay, kéo tay áo lên một chút:
- Tôi phải...
- Để ông ta chờ.
Mắt bà lóe lên. Tôi thích cái ánh chớp ấy.
- Cái đó có chút gì bộc lộ quá chăng? - Bà nói.
- Không phải việc tôi. Bà tả lại buổi tối. Hoặc là để tôi vứt tất cả mọi chuyện ra ngoài tai. Hoặc thế này hoặc thế kia. Làm cho cái đầu óc dễ thương của bà hoạt động lên một chút.
- Ông nên ngồi xuống đây, bên cạnh tôi.
- Tôi nghĩ rằng sẽ phải làm thế lâu đấy, - tôi nói. - Kể từ khi bà duỗi chân, nói một cách chính xác.
Bà kéo áo dài xuống.
- Những kiểu kết tội như thế lúc nào cũng lởn vởn xung quanh ông.
Tôi ngồi xuống cạnh bà trên chiếc trường kỷ bọc da màu vàng.
- Ông đâu phải là một kẻ vội vàng hấp tấp? - Bà hỏi khẽ.
Tôi không trả lời.
- Ông có hay thế này không? - Bà hỏi với một cái liếc mắt.
- Thực tiễn thì không. Tôi là một thầy tu Tây Tạng trong lúc rỗi rãi.
- Ông chỉ không có lúc nào rỗi thôi.
- Chúng ta cùng xem xét, - tôi nói - xem vấn đề gì đã thỏa thuận xong, hoặc đối với tôi là xong. Bà định trả tôi bao nhiêu?
- Ồ, vấn đề là thế. Tôi nghĩ ông định lấy lại cho tôi chuỗi hạt. Hoặc cố lấy lại.
- Tôi phải làm theo cách của tôi. Cách này này. - Tôi lấy ly rượu trước mặt và ngửa cổ làm một hơi, ly rượu gần như dính vào miệng tôi. Tôi nuốt một ít không khí.
- Và điều tra kẻ giết người, - tôi nói tiếp.
- Cái đó có gì mà làm? Tôi định nói đó là một vụ thuộc quyền cảnh sát, phải không?
- À, chỉ có gã khốn khổ trả tôi một trăm đô để trông nom săn sóc gã và tôi làm không xong. Nó làm tôi cảm thấy có tội, làm tôi muốn khóc. Tôi khóc được chứ?
- Uống nữa đi, - bà rót ra hai ly Scotch nữa. Rượu chẳng ảnh hưởng gì đến bà, cứ như nước đổ đầu vịt.
- Được, chúng ta tới đâu rồi? - Tôi nói, cố gắng giữ ly whisky trong tay như thể chất lỏng ấy sẽ còn mãi trong ly.
Không có cô hầu, không có người lái xe, không có viên quản gia, không có gã phục vụ. Tiếp theo là chúng ta sẽ tự giặt ủi lấy đồ của mình. Vụ trấn lột xảy ra thế nào? Câu chuyện của bà có thể cung cấp những chi tiết Mariott không cung cấp cho tôi.
Bà ngả người về phía trước và chống cằm lên lòng bàn tay, nghiêm trang nhưng không có cái vẻ đờ đẫn.
- Chúng tôi tới dự tiệc ở Brentwood Heights. Rồi Lind đề nghị tôi với Trocadero làm vài ly và nghe vài bản nhạc. Vậy là chúng tôi tới. Người ta đang sửa chữa gì đó ở phố Hoàng Hôn và chỗ đó rất bụi bặm. Rồi quay trở lại, Lind ghé xuống Santa Monica. Chúng tôi qua một khách sạn tồi tàn là Hotel Indio, nơi mà tôi ngẫu nhiên ghi nhớ vì một vài lý do vớ vẩn. Xế bên kia đường là một quán bia và một chiếc xe hơi đậu trước cửa quán.
- Chỉ có một chiếc xe đậu trước cửa quán?
- Vâng. Chỉ có một. Chỗ đó rất dơ dáy bẩn thỉu. Chiếc xe nổ máy đi theo chúng tôi, dĩ nhiên tôi nghĩ là chẳng có vấn đề gì. Không có lý do để nghi ngờ. Trước đó, chúng tôi định đến chỗ Santa Monica, rẽ vào Đại lộ Arguello, Lind nói: "Mình đi con đường khác" và vòng lên một vài phố có nhà ở. Rồi hoàn toàn bất ngờ, chiếc xe vượt chúng tôi, quệt vào thanh chắn và dừng lại. Một người mặc chiếc áo khoác, quàng khăn, mũ sụp xuống mặt, quay lại để xin lỗi. Chiếc khăn quàng cổ màu trắng thu hút mắt tôi. Thực sự đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy ở hắn, ngoại trừ hắn cao và gầy. Ngay khi hắn tới sát và tôi nhớ lại sau cùng là hắn không hề bước vào trong ánh đèn pha đầu xe...
- Cái đó là tất nhiên. Không ai thích nhìn vào đèn pha. Một ly nữa nào. Lần này để tôi rót.
Bà ngả người về phía trước, hàng lông mày đẹp như vẽ, không có nét chì, nhíu vào nhau như suy nghĩ căng thẳng. Tôi rót hai ly. Bà tiếp tục:
- Ngay khi hắn tới sát phía Lind ngồi, hắn giật chiếc khăn che lên mũi, và một khẩu súng sáng loáng chĩa vào chúng tôi: “Giơ tay lên, - hắn quát. - Câm mồm và ngồi đâu yên đó”. Rồi một tên khác đến ở phía bên kia.
- Ở Beverly Hills - tôi nói - đó là chỗ tốt nhất để kiểm soát bốn dặm vuông trong California.
Bà nhún vai.
- Nó xảy ra đúng như thế. Chúng đòi tôi nữ trang và túi xách. Người đàn ông quàng khăn nói, còn tên ở phía bên tôi im như thóc. Tôi đưa qua phía Lind và người ấy ném trả lại tôi túi xách và một cái nhẫn. Hắn nói là đừng vội kêu cảnh sát hay hãng bảo hiểm. Chúng sẽ cho chúng tôi một vụ giao dịch mềm mỏng tử tế. Hắn nói là chúng tìm ra cách làm dễ dàng hơn là làm việc theo một tỉ lệ phần trăm thẳng thừng.
Hắn thủng thẳng như là có tất cả thì giờ trên thế gian. Hắn nói là chúng có thể làm việc qua hãng bảo hiểm nêu chúng phải làm, nhưng như thế có nghĩa là một kẻ láu cá sẽ chen ngang vào, và hắn đề nghị không làm thế. Hắn nói như một người có một chút giáo dục.
- Có thể là Eddie-Trấn-Lột lừng danh ở Chicago đấy, -tôi nói. - Chỉ có điều là hắn bật bãi khỏi Chicago thôi.
Bà nhún vai. Chúng tôi cạn ly. Bà tiếp tục:
- Rồi chúng đi và chúng tôi về nhà, tôi bảo Lind đừng có nói gì với ai hết. Hôm sau, tôi có điện thoại gọi. Chúng tôi có hai máy điện thoại, một cái có đăng ký danh bạ và một trong phòng ngủ, không đăng ký. Cú gọi là ở máy này. Dĩ nhiên là nó không đăng ký.
Tôi gật đầu:
- Người ta có thể mua một số điện thoại chỉ vài đôla. Lúc này cũng vậy. Ở một vài bộ phim, tôi thấy người ta thay đổi số điện thoại xoành xoạch hàng tháng.
Chúng tôi cạn ly:
- Tôi bảo người đó gọi điện để thảo luận với Lind, ông ấy sẽ đại diện cho tôi và nêu các điều kiện không đến nỗi quá vô lý, chúng tôi có thể thương lượng. Hắn nói được, và từ đó tôi thiết tưởng chúng dư thời gian theo dõi chúng tôi. Cuối cùng, như ông đã biết, chúng tôi thỏa thuận mức chuộc tám ngàn đôla.
- Bà có thể nhận ra được kẻ nào trong bọn chúng không?
- Tất nhiên không.
- Randall biết tất cả những điều này rồi?
- Tất nhiên. Chúng ta có nên nói về chuyện đó nữa hay thôi? Nó làm tôi chán ngắt.
- Ông ta có bình luận gì không?
- Chắc là có. Tôi quên rồi, - bà ngáp.
Tôi ngồi lặng yên, cầm chiếc ly rỗng suy nghĩ. Bà lấy ly ra khỏi tay tôi và rót đầy ly.
Tôi lấy lại cái ly đầy, chuyển nó sang tay trái, cầm bàn tay trái của bà bằng bàn tay phải của tôi. Bàn tay bà mềm mại, nhẹ nhàng, ấm áp và an ủi. Nó xiết chặt tay tôi, những cơ tay mạnh mẽ. Bà là người đàn bà có bản lĩnh và không màu mè.
- Tôi nghĩ là ông có một ý tưởng, - bà nói. - Nhưng ông không nói ra.
- Ai mà chẳng có ý tưởng về bất cứ cái gì.
Bà chậm rãi quay đầu lại nhìn tôi. Rồi bà gật đầu:
- Ông có thể quên chuyện đó được không?
- Bà gặp ông ấy lâu chưa?
- Nhiều năm rồi. Ông ấy thường làm phát thanh viên ở đài phát thanh K.F.D.K của chồng tôi. Ở đó, tôi đã gặp ông ấy, cũng là nơi tôi gặp chồng tôi.
- Tôi biết điều đó. Mariott sống như là ông ấy có nhiều tiền. Không giàu có lắm, nhưng dư dả.
- Ông ấy tham dự vào một số công việc của đài phát thanh.
- Bà có biết một vài công chuyện kiếm tiền của ông ấy hay không, hay nghe nói đến không?
Bà nhún vai và xiết chặt tay tôi.
- Hoặc là công chuyện đó không mang lại được bao nhiêu và ông ấy có thể hoàn tất chóng vánh, - tôi xiết lại tay bà
- Ông ấy có vay mượn bà không?
- Ông có hơi cổ lỗ quá không đấy? - Bà nhìn xuống bàn tay tôi đang nắm lấy.
- Tôi vẫn đang làm việc. Và rượu Scotch của bà đang giữ tôi nửa tỉnh nửa say. Không phải là tôi đã uống...
- Vâng, - bà rút tay khỏi tay tôi và chà xát lòng bàn tay.
- Ông cần phải có một cái tổ ấm đúng nghĩa cho những thời gian rỗi rãi. Lind Mariott là một gã tống tiền cao cấp, dĩ nhiên rồi. Cái đó rõ ràng. Ông ấy sống bằng đàn bà.
- Ông ta có chuyện gì với bà không?
- Tôi sẽ kể cho ông nghe nhé?
- Chắc điều đó không phải là khôn ngoan.
Bà cười lớn.
- Tôi sẽ kể, dù sao đi nữa. Tôi bị kẹt một chút ở căn nhà trước kia của ông ấy và rồi cũng qua được. Ít khi tôi bị như thế. Ông ấy có một số bức ảnh chụp tôi, quần áo kín đến cổ.
- Đồ chó đểu, - tôi nói. - Bà có bức nào ở đây không?
Bà ta phẩy tay và nói khẽ:
-Tên ông là gì?
- Phil. Còn bà?
- Helen. Hôn tôi đi.
Bà ngã nhẹ nhàng vào lòng tôi và tôi cúi xuống trên khuôn mặt bà, ngấu nghiến. Bà chớp chớp hàng mi và táp những cái hôn kiểu bươm bướm đập cánh trên má tôi. Khi tôi tìm đôi môi bà, chúng hé mở và cháy bỏng, lưỡi tôi như một con rắn lách vào giữa những chiếc răng.
Cửa mở ra và ông Grayle bước nhanh vào phòng. Tôi đang ôm lấy bà và không chuồn đâu cho thoát. Tôi ngước mắt lên nhìn ông ta. Tôi cảm thấy lạnh toát người như những bước chân quỷ nhập tràng của Finnegan(*), vào ngày người ta khâm liệm anh ta.
(*) Chi tiết trong tiểu thuyết “Finnegan’s Wake” của văn hào James Joyee.
Mái tóc vàng hoe trong vòng tay tôi không nhúc nhích, ngay cả khi đôi môi hé mở đã khép. Trên gương mặt bà có vẻ nửa mơ màng nửa giễu cợt.
Ông Grayle hắng giọng khẽ khàng và nói:
- Tôi đợi lời xin lỗi của ông, nhất định thế.
Rồi ông đi nhanh ra khỏi phòng. Phảng phất một nỗi buồn vô tận trong đôi mắt ông.
Tôi đẩy bà ra, đứng dậy và lấy khăn tay lau mặt.
Bà nằm nghiêng xuống khi tôi đẩy ra, người duỗi dài dọc theo trường kỷ, làn da phô ra một đường cong khêu gợi phía trên chiếc tất dài.
- Ai thế? - Bà ta hỏi, giọng trầm xuống.
- Ông Grayle.
- Quên ông ấy đi.
Tôi rời xa bà, ngồi xuống chiếc ghế tôi đã ngồi lúc mới vào phòng.
Một lúc sau, bà duỗi thẳng người, ngồi dậy và nhìn tôi điềm tĩnh.
- Phải như vậy. Ông ấy hiểu. Ông ấy còn chờ cái quỷ gì nữa?
- Tôi tưởng ông ấy biết.
- Tôi bảo với ông là phải vậy thôi. Thế không đủ sao? Ông ấy là một người đàn ông yếu ớt. Cái quỷ gì...
- Đừng léo nhéo với tôi. Tôi không ưa những người đàn bà léo nhéo.
Bà mở túi xách bên cạnh người, lấy ra chiếc khăn tay và lau đôi môi, rồi soi mặt trong tấm gương nhỏ.
- Tôi nghĩ là ông đúng, - bà nói. - Chỉ tại nhiều rượu Scotch quá. Đêm nay ở Câu lạc bộ Belvedere. Mười giờ.
Bà không nhìn tôi, hơi thở dồn dập.
- Đây là một địa điểm tốt chứ?
- Laird Brunette sở hữu nó. Tôi biết ông ta rất rành.
- Được, - tôi nói. Tôi vẫn ớn lạnh. Tôi cảm thấy nhơ nhuốc, như thể đã móc túi một người khốn khổ.
Bà lấy thỏi son môi và nhẹ nhàng tô lên môi rồi liếc nhìn tôi. Bà quẳng tấm gương con. Tôi nhặt lên soi mặt mình. Tôi lấy khăn tay lau tấm gương và trả lại bà.
Bà tựa người ra đằng sau, phô toàn bộ cái cổ, nhìn xuống tôi bằng đôi mắt màu cẩm thạch.
- Vấn đề gì nữa?
- Không gì cả. Mười giờ ở Câu lạc bộ Belvedere. Đừng lộng lẫy quá. Tôi chỉ có một bộ đồ mặc tối. Ở quầy rượu nhé?
Bà gật đầu, đôi mắt vẫn xanh ngắt.
Tôi đi qua căn phòng và ra ngoài, không ngoái lại. Người hầu gặp tôi trong gian phòng lớn và lấy mũ cho tôi, trông anh ta như Khuôn Mặt Đá Vĩ Đại trong tác phẩm của Nathaniel Hawthorne.