Chương 39
Lúc tôi quay số của bà Grayle ở Bay City là khoảng mười giờ. Tôi nghĩ đã quá muộn, nhưng không phải. Vượt qua những rắc rối ở đầu dây bên kia của một cô gái và viên quản gia, cuối cùng tôi nghe thấy giọng bà trên dây nói. Giọng bà đầy hưng phấn và thỏa mãn sau bữa tối.
- Tôi có hứa gọi cho bà. Hơi muộn một chút, nhưng tôi bận quá.
- Lại leo cây nữa hả? - Giọng bà hơi lạnh.
- Có lẽ không. Người lái xe của bà giờ này còn làm việc không?
- Anh ta làm việc bất kể giờ nào theo yêu cầu của tôi.
- Thế việc bà rẽ qua đón tôi thì sao? Tôi định đưa ra lời thỉnh cầu đầu tiên của tôi.
- Ông giỏi lắm, - bà kéo dài giọng. - Tôi có thực sự bị quấy rầy không?
Chắc chắn Amthor đã làm một vụ kỳ diệu cho trung tâm ngôn ngữ của bà.
- Tôi sẽ cho bà thấy cảnh cô đơn của tôi.
- Chỉ có một cảnh cô đơn thôi đấy chứ?
- Đây chỉ là một căn hộ nghèo nàn.
- Tôi có nghe nói điều đó, - bà lại kéo dài giọng rồi đổi âm vực. - Đừng có gây chuyện, ông có một ngôi nhà dị thường, ông bạn, và chớ có nói điều gì khác với tôi. Đọc lại địa chỉ cho tôi đi.
Tôi đọc địa chỉ và số phòng cho bà.
- Hành lang đã khóa, nhưng tôi sẽ xuống và tháo chốt, -tôi nói.
- Thế thì hay, - bà nói - tôi sẽ không phải mang thằng hầu.
Bà gác máy. Tôi có cảm giác lạ lùng như vừa nói chuyện với một người nào đó không thực tồn tại.
Tôi đi xuống hành lang và tháo chốt, sau đó quay lên đi tắm, mặc bộ pyjama và nằm dài trên giường. Tưởng chừng như có thể ngủ thiếp đi cả tuần lễ. Tôi cố lê mình khỏi giường để tháo chốt cửa nãy tôi đã quên, vào bếp lấy ly tách và chai rượu Scotch mà tôi phải cố chống lại sự cám dỗ, để dành lúc cần.
Tôi lại vật mình xuống giường.
- Cầu nguyện, - tôi nói lớn với mình. -Không có gì cả ngoài lời cầu nguyện.
Tôi nhắm mắt. Bốn bức tường chao đảo như trong lòng con thuyền. Không khí yên tĩnh tưởng chừng có sương đọng từng giọt và gió biển xạc xào. Tôi ngửi thấy vô vàn mùi ẩm mốc của những đồ phế thải, mùi dầu máy và thấy gã người Ý mặc chiếc áo sơ mi tím đọc báo dưới ngọn đèn trần và đôi mục kỉnh từ đời cụ cố nội. Tôi trèo lên tận đỉnh Himalaya rồi bước hụt ra khoảng không giữa những gã thủy thủ cầm súng máy. Tôi lại chuyện trò với người đàn ông có đôi mắt vàng, một kẻ mưu mô xảo quyệt và chắc là phi luân. Tôi nhớ anh chàng tóc đỏ và đôi mắt màu tím, có lẽ là kẻ tử tế hơn cả mà tôi đã gặp. Tôi không nghĩ gì nữa. Ánh sáng chuyển động đằng sau mi mắt khép của tôi. Tôi lạc lõng trong không gian mơ hồ. Tôi là một cây gậy mạ vàng trở về từ một cuộc phiêu lưu thất bại. Tôi là gói thuốc nổ một trăm đôla đi ngoài phố với tiếng còi ồn ào miệt thị, như thể một gã chủ tiệm cầm đồ nhìn chiếc đồng hồ một đôla. Tôi là con bọ đầu màu hồng bò lổm ngổm lên vách căn phòng City Hall.
Tôi ngủ thiếp..
Tôi tỉnh dậy chậm chạp rã rời, mắt nhìn đăm đăm vào vùng sáng phản chiếu từ ngọn đèn trên trần. Có cái gì chuyển động nhẹ nhàng trong phòng.
Sự chuyển động lặng lẽ, nặng nề và lén lút. Tôi lắng nghe nó. Rồi tôi quay đầu chầm chậm và nhìn thấy Moose Malloy. Có những vùng bóng tối và gã đi vào đó lặng lẽ như tôi đã thấy gã lần trước. Một khẩu súng trong bàn tay gã lấp lánh trơn loáng. Mũ gã ấn sụp xuống mái tóc quăn đen và cái mũi ngửi ngửi như mũi một con chó săn.
Gã thấy tôi mở mắt. Gã bước tới bên giường và đứng đó nhìn tôi.
- Tôi nhận được mấy chữ của anh, - gã nói, - tôi đã dọn sạch cái ổ nhện ấy. Tôi không làm cho lũ cớm bu lấy bên ngoài. Nếu đấy là một trò lừa bịp, hai thằng đã vào rọ.
Tôi trở mình một chút trên giường và nhìn qua đống gối, tôi thấy gã có vẻ nhanh nhẹn. Khuôn mặt gã vẫn thế, to bè và xanh tái, đôi mắt không hiểu sao vẫn giữ được cái nhìn thanh lịch. Đêm nay gã mặc một chiếc áo khoác vừa khít vóc dáng khổng lồ. Một đường chỉ ở vai bị bục, do gã cố mặc. Có lẽ là cỡ lớn nhất ở tiệm quần áo nhưng vẫn không đủ lớn đối với Moose Malloy.
- Tôi hy vọng là ông tạt qua đây. - tôi nói. - Không gã cảnh sát nào biết chuyện này, tôi chỉ muốn gặp ông.
- Tiếp tục đi, - gã nói.
Gã đi. tới bàn, đặt khẩu súng xuống, cởi áo khoác ra rồi ngồi xuống chiếc ghế lớn nhất của tôi. Chiếc ghế kêu răng rắc nhưng không gãy. Gã ngả người ra sau và kéo khẩu súng lại gần bàn tay phải, móc bao thuốc lá trong túi và rút một điếu bằng miệng. Một que diêm xòe lửa nơi móng tay ngón cái. Mùi thuốc lá nặng hăng nồng tỏa khắp phòng.
- Anh không ốm hay bị làm sao đấy chứ? - gã hỏi.
- Tôi chỉ nằm nghỉ thôi. Tôi vừa qua một ngày mệt nhọc.
- Cửa mở. Anh chờ ai vậy?
- Một người đàn bà.
Gã nhìn tôi, nghĩ ngợi.
- Có lẽ bà ta không đến. Nếu bà ta đến, tôi sẽ ngăn lại, - tôi nói.
- Bà nào?
- Ồ, chỉ là một người đàn bà. Nếu bà ta tới, tôi sẽ tống khứ đi. Tôi cần nói chuyện với ông hơn.
Nụ cười mệt mỏi hiện ra khó khăn trên miệng gã. Gã rít thuốc lá từng hơi ngắn, mấy ngón tay to lớn vụng về cầm điếu thuốc lóng ngóng.
- Cái gì khiến anh nghĩ là tôi ở Monty - Gã hỏi.
- Một cảnh sát ở Bay City. Đó là một câu chuyện dài và đầy những phỏng đoán.
- Một cảnh sát ở Bay City theo tôi?
- Cái đó làm phiền ông à?
Gã lại cười yếu ớt và khẽ lắc đầu.
- Ông đã giết một người đàn bà. Jessie Florian. Đó là một sai lầm.
Gã nghĩ ngợi. Rồi gã gật đầu.
- Tôi bị sa vào cái chuyện đó, - gã nói khẽ.
- Nhưng cái đó rất bất lợi, - tôi nói. - Tôi không ngại về ông. Ông không phải là kẻ sát nhân. Ông không định giết bà ta. Một vụ khác, ở khu Trung tâm, ông có thể thoát được nhưng không thể thoát vụ đập một người đàn bà tới chết ở trên giường.
- Anh gặp phải chuyện đáng sợ đây, người anh em ạ, -gã nói khẽ.
- Cách đi của tôi là vậy, - tôi nói - và tôi không biết một cách nào khác. Ông không định giết bà ta, phải không?
Đôi mắt gã chớp chớp, đầu nghiêng nghiêng như nghe ngóng.
- Lúc ấy chắc ông thấy được cái sức vóc phi thường của ông? - Tôi nói.
- Nhưng lúc ấy đã quá muộn, - gã nói.
- Ông muốn bà ta nói ra với ông điều gì đó, ông chỉ nắm lấy cổ bà ta mà lắc. Lúc ông đập đầu bà ta vào song giường thì bà ta đã ngoẻo.
Gã nhìn tôi chòng chọc.
- Tôi biết cái điều ông muốn bà ta nói ra.
- Tiếp đi!
- Có một viên cảnh sát đi cùng tôi lúc tìm thấy bà ta. Tôi phải làm sáng tỏ.
- Sáng tỏ thế nào?
- Sáng tỏ tương đối, - tôi nói - nhưng không phải là chuyện đêm nay.
Gã lại nhìn tôi.
- Anh làm thế nào biết tôi ở Monty? - Gã đã hỏi tôi câu đó một lần và có vẻ quên.
- Tôi không biết. Nhưng lối thoát dễ nhất là đường biển. Với cách bố trí ở Bay City, ông có thể trốn ra một chiếc tàu gá bạc. Từ đó, ông có thể biến mất tiêu. Với một sự giúp đỡ thích đáng.
- Laird Brunett là một gã tử tế, - gã nói lơ đãng. - Tôi nghe như thế. Tôi cũng chưa bao giờ nói với ông ta cả.
- Ông ta đã chuyển thông điệp của tôi cho ông.
- Mẹ kiếp, có cả tá đường dây ngầm có thể giúp ông ta làm chuyện đó, anh bạn ạ. Khi nào chúng ta sẽ làm điều anh viết trong tấm thiếp? Tôi đã có linh cảm là anh san bằng mọi thứ. Tôi không có cơ hội nào khác tới đây. Chúng ta đi đâu?
Gã dụi điếu thuốc và nhìn tôi. Bóng gã lù lù in trên tường, một cái bóng khổng lồ. Gã to lớn tới mức dường như không thực.
- Cái gì khiến anh nghĩ là tôi đập Jessie Florian? - Gã hỏi bất ngờ.
- Vết ngón tay trên cổ bà ta. Thực tế là ông cần một điều gì đó ở bà ta mà ông lại quá khỏe để có thể giết bất kỳ ai một cách vô tình.
- Cớm buộc tội tôi chuyện đó?
- Tôi không biết.
- Tôi muốn biết điều gì ở bà ta?
- Ông nghĩ là bà ta biết chỗ Velma.
Gã lặng lẽ gật đầu và tiếp tục nhìn tôi.
- Nhưng bà ta không biết, - tôi nói. - Velma thì quái quỷ, sao bà ta biết được?
Có tiếng gõ nhẹ ở cửa.
Malloy ngả người về phía trước, mỉm cười với lấy khẩu súng. Ai đó đang thử vặn quả đấm cửa. Malloy chậm chạp đứng dậy, nghiêng người như lắng nghe. Rồi gã quay lại nhìn tôi.
Tôi ngồi dậy. thả chân xuống sàn và đứng lên. Malloy vẫn lặng lẽ nhìn tôi, bất động. Tôi đi tới cánh cửa.
- Ai? - Tôi ghé sát miệng vào khe cửa
Đúng là giọng bà ta.
- Mở ra, đồ ngốc. Nữ bá tước Windsor đây.
- Chờ một giây thôi.
Tôi quay lại nhìn Matloy. Gã cau mày. Tôi tới sát gã, nói bằng một giọng rất trầm.
- Không còn lối ra nào nữa. Vào phòng thay quần áo sau giường và đợi. Tôi sẽ tống khứ bà ta đi.
Gã lắng nghe và nghĩ ngợi. Không thể biết gã nghĩ gì. Gã là một kẻ không biết sợ ai, hơn nữa bây giờ gã còn gì để mất. Cái sức vóc khổng lồ ấy vốn không phải sinh ra để biết sợ. Cuối cùng, gã gật đầu, nhặt mũ và áo khoác, đi vòng qua giường vào phòng thay quần áo. Cánh cửa đóng lại, nhưng không khép chặt.
Tôi nhìn quanh để kiểm tra dấu vết của gã. Không có gì ngoại trừ một mẩu thuốc lá mà ai cũng có thể hút. Tôi tới mở cửa, Malloy đã cài then khi gã vào phòng.
Bà Grayle đứng đó trong chiếc áo khoác lông cáo màu trắng cổ cao mà bà đã kể với tôi. Đôi hoa tai bằng ngọc lục bảo cháy sáng giữa mớ lông trắng mềm mại. Những ngón tay cong cong thon thả cầm chiếc túi xách.
Nụ cười biến mất khỏi gương mặt bà khi bà thấy tôi. Bà nhìn tôi từ đầu đến chân, ánh mắt giờ đây trở nên lạnh lùng.
- Ra thế đấy, - bà nói tàn nhẫn. - Pyjama và áo choàng. Để trưng ra cho tôi nỗi cô đơn đáng yêu của ông. Tôi chắc muốn điên.
Tôi đứng sang bên cạnh và giữ cánh cửa.
- Không hẳn là thế đâu. Tôi đang mặc quần áo thì một viên cảnh sát tạt vào. Ông ta vừa đi.
- Randall à?
Tôi gật đầu. Một lời nói dối với một cái gật đầu cũng vẫn là một lời nói dối nhưng là một lời nói dối dễ dàng. Bà ngập ngừng một lát, rồi bước qua trước tôi với một cơn lốc lông cáo nồng nàn hương thơm.
Tôi đóng cửa. Bà bước chầm chậm qua phòng, nhìn lơ đãng lên các bức tường rồi quay phắt lại.
- Để chúng ta hiểu nhau, - bà nói - tôi không phải loại đàn bà nhẹ dạ. Tôi không tới vì một bản tình ca giường ngủ. Đời tôi cũng có nhiều bản tình ca du dương. Nhưng tôi thích cái gì cũng phải có không khí của nó.
- Bà muốn dùng một ly trước khi đi không?
Tôi vẫn tựa người vào cánh cửa. Bà ở đầu kia căn phòng.
- Tôi đi nhé?
- Bà cho tôi cảm giác là bà không muốn ở đây.
- Tôi muốn nói điều này. Có lẽ là thô thiển một chút. Tôi không phải một con điếm lang chạ. Tôi có thể, dù phải... nhưng không phải cứ chìa tay ra. Vâng cho tôi một ly.
Không một âm thanh nào thoát ra từ phòng thay quần áo, ngay cả một tiếng thở.
Bà cầm ly rượu, nếm và nhìn qua ly tới bức tường phía xa.
- Tôi không thích những người đàn ông tiếp tôi trong bộ pyjama, - bà nói. - Thật khôi hài. Tôi thích ông. Tôi thích ông nhiều. Nhưng tôi có thể cho qua. Tôi thường cho qua những gì như thế.
Tôi gật đầu và uống.
- Hầu hết đàn ông là những con vật bần tiện. Trên thực tế, đó là một thế giới quá đỗi bần tiện, nếu như ông hỏi tôi.
- Tiền bạc có thể có ích.
- Ông nghĩ thế khi không phải lúc nào ông cũng có tiền. Thực tế nó chỉ gây ra những vấn đề mới - bà ta mỉm cười dò hỏi - và ông sẽ thấy quên đi các vấn đề thì khó khăn biết bao.
Bà lấy ra một điếu thuốc đầu vàng từ trong túi xách tay. Tôi đi tới đưa cho bà hộp diêm. Bà thở những cụm khói mơ hồ và nhìn chúng qua đôi mắt khép.
Đột nhiên bà nói:
- Ngồi cạnh tôi đi.
- Trước hết chúng ta nói chuyện một chút.
- Về cái gì? Ồ, ngọc bích của tôi?
- Về vụ giết người.
Không có gì thay đổi trên khuôn mặt bà. Bà lại thở ra những cụm khói, lần này cẩn thận hơn, chậm rãi hơn.
- Một đề tài dơ dáy. Chúng ta phải nói?
Tôi nhún vai.
- Lind Mariott chẳng phải là ông thánh, - bà nói. - Nhưng tôi vẫn không muốn nói chuyện đó.
Bà nhìn tôi lạnh nhạt một lúc lâu, rồi thò tay vào túi xách vẫn mở, lấy ra một chiếc khăn tay.
- Về phần tôi, tôi không nghĩ ông ta là tay trong cho bọn cướp nữ trang. Cảnh sát giả đò rằng họ nghĩ thế, nhưng họ giả đò rất nhiều. Tôi không nghĩ ngay cả ông ta là một kẻ tống tiền, trong một nghĩa hiện thực nào đó. Điều đó có khôi hài không?
- Phải, không hiện thực, - tôi đồng ý và uống nốt ly rượu dở dang. - Bà tới đây quả là điều tuyệt vời đáng sợ, bà Grayle. Nhưng hình như chúng ta vớ phải một tâm trạng lầm lạc. Nói rộng ra, tôi không nghĩ ngay cả Mariott bị giết bởi bọn cướp. Tôi không nghĩ là ông ta tới khe núi để bị giết, mặc dù ông ta nghĩ ông ta tới đó để giao phó một vụ giết người. Nhưng Mariott là một kẻ giết người rất tồi.
Bà ngả người về phía trước một chút và nụ cười của bà đông lại trên khuôn mặt đờ đẫn. Đột nhiên, không một biến đổi thực sự nào, bà mất hẳn vẻ đẹp. Chỉ còn là một người đàn bà nguy hiểm từ một trăm năm trước, một người đàn bà thách thức hai mươi năm gần đây và bây giờ chỉ đứng hạng B ở Hollywood.
Bà không nói gì nhưng bàn tay phải của bà gõ gõ chiếc túi xách.
- Một kẻ giết người rất tồi, - tôi nói - giống như kẻ giết người thứ hai trong vở “Vua Richard II” của Shakespeare. Ông bạn bị lương tâm cắn dứt, nhưng vẫn thèm tiền, và cuối cùng không làm gì hết ở vụ đó, bởi vì ông bạn không thể dứt khoát đầu óc được. Những kẻ giết người như thế thật ra lại rất nguy hiểm. Họ phải bị loại bỏ, đôi khi bằng những cây dùi cui.
Bà mỉm cười:
- Và ông nghĩ ai là người mà ông ta định giết?
- Tôi.
Tôi đăm đăm nhìn bà.
- Thật khó tin rằng có ai đó căm ghét ông đến thế. Ông còn nói chuỗi hạt ngọc của tôi chẳng hề mất cắp mất cướp gì hết. Ông có chứng cớ nào về tất cả những điều này?
- Tôi không bảo tôi có. Tôi chỉ bảo là tôi nghĩ những điều đó.
- Nhưng sao lại cứ điên rồ đi nói mãi chuyện ấy?
- Bằng chứng - tôi nói - luôn luôn hiểu lộ. Đó là sự thống trị của ngẫu nhiên. Và là vấn đề người ta nện tôi như thế nào. Có một nguyên do yếu ớt cho vụ giết tôi, đó là việc tôi đang cố gắng lần theo dấu vết một cô ca sĩ nhà hàng ở Đại lộ Trung tâm cùng thời gian đó và một kẻ tên là Moose Malloy cũng đang tìm kiếm cô ta. Rõ ràng là có khả năng tìm thấy, hoặc là điều ấy không xứng đáng, trong khi giả thuyết về vụ Mariott là tôi phải bị giết và bị giết thật nhanh. Và cũng rõ ràng là ông ta không tin điều đó. Nhưng có một nguyên do mạnh mẽ hơn cho vụ giết Mariott, đó là việc ông ta ngoài sự phù phiếm hoặc tình yêu hoặc tính tham lam hoặc hỗn hợp của cả ba, là kẻ không đáng giá nữa. Ông ta sợ, nhưng không phải cho chính ông ta. Ông ta sợ bạo lực ở nơi ông ta tham dự và sợ bị kết án. Nhưng mặt khác, ông ta cũng giành giật miếng cơm manh áo của mình. Vậy là ông ta đã gặp cơ hội.
Tôi dừng lời. Bà gật đầu và nói:
- Rất thú vị. Nếu người ta biết cái gì mà ông đang nói tới.
- Và người ta hành động - tôi nói.
Chúng tôi nhìn nhau. Bây giờ bà lại cho tay phải vào trong túi xách. Tôi có một ý tưởng xác đáng về vật gì mà bàn tay đó đang cầm, nhưng không thấy đưa ra. Sự kiện nào cũng có thời điểm của nó.
- Chúng ta ngả bài, - tôi nói. - Ở đây chỉ có hai chúng ta. Không có điều gì mà chúng ta nói ra lại có chỗ dựa tầm thường nhất ở điều kẻ khác nói. Chúng ta loại bỏ lẫn nhau. Một cô gái xuất thân từ bùn lầy nước đọng trở thành vợ một tỉ phú. Rồi một bà già tiều tụy nhận ra cô ta - ngẫu nhiên bà già nghe giọng hát trên đài phát thanh và nhận ra giọng cô ta rồi tới gặp - bà ta phải giữ im lặng. Nhưng đấy chỉ là một bà già tầm thường, chẳng biết được bao nhiêu. Còn một người đàn ông đã từng thuê mướn và trả lương tháng cho bà ta, sở hữu các chứng từ chuyển nhượng căn nhà của bà ta và có thể ném bà ta vào chốn tăm tối bất kỳ lúc nào, người đàn ông này biết tất cả. Ông ta đắt giá đấy. Nhưng cũng không phải vấn đề. Từ lâu, không có ai khác biết chuyện. Nhưng rồi một ngày nọ, gã Moose Malloy hung bạo ra khỏi nhà tù, bắt đầu cuộc tìm kiếm người tình thuở xưa. Cây dùi cui khổng lồ ấy đã yêu cô ta và vẫn còn yêu. Đây mới là chuyện khôi hài, một thiên bi hài kịch. Cũng lúc đó, chàng thám tử tư nhà ta cũng nhúng mũi vào sự việc. Cái mắt xích yếu nhất là Mariott không còn kéo dài diễm phúc được nữa.
Ông ta trở thành mối đe dọa. Người ta tính đến ông ta và loại bỏ ông ta. Ông ta chỉ là một chú nhãi vô tích sự. Ông ta sẽ tan ra như một cục bơ gặp nóng và ông ta đã bị giết trước khi kịp tan ra. Với một cây dùi cui, bởi chính bà.
Tất cả những gì bà làm là rút bàn tay trong túi xách ra với một khẩu súng chĩa thẳng vào tôi và mỉm cười.
- Tất cả những gì tôi làm là chẳng làm gì hết.
Nhưng cũng vẫn không phải là tất cả những gì đã xảy ra. Moose Malloy bước ra khỏi phòng thay quần áo với khẩu Colt 45, vẫn như một thứ đồ chơi trong bàn tay lông lá to lớn.
Gã không hề nhìn tôi và nhìn thẳng vào bà Lewin Lockridge Grayle. Gã ngả người về phía trước, mỉm cười với bà và nói thật nhẹ nhàng.
- Tôi nghĩ là tôi biết giọng nói ấy, - gã nói - tôi đã lắng nghe giọng nói ấy suốt tám năm trời, tôi nhớ không sót chút nào về nó. Dù sao tôi cũng là kẻ đã say mê mái tóc đỏ của em. Chà, em yêu. Bao nhiêu lâu tôi đã không gặp em.
Bà quay mũi súng.
- Xéo ngay, anh là đồ chó đẻ, - bà quát.
Gà đứng sững và buông rơi cây súng cạnh người. Gã chỉ còn cách bà ta chừng hai bước. Gã thở hổn hển.
- Tôi không bao giờ nghi ngờ em - gã nói âm thầm - Tôi chỉ đột nhiên hiểu ra. Em đã đẩy tôi vào tay cảnh sát. Em Velma bé bỏng của tôi.
Tôi ném cái gối, nhưng đã quá chậm. Bà nhả năm phát đạn vào bụng gã. Những viên đạn giảm thanh vang lên chẳng khác nào những ngón tay xỏ vào chiếc găng.
Bà lại quay mũi súng về phía tôi và bóp cò, nhưng ổ đạn đã rỗng. Bà đâm bổ đến khẩu súng của Malloy rơi trên sàn. Nhưng tôi đã không quên cái gối thứ hai. Tôi vòng qua giường và gạt bà trước khi bà kịp hất cái gối khỏi mặt. Tôi nhặt khẩu Colt lên và lại vòng qua giường, tay cầm súng.
Gã vẫn còn đứng, nhưng lắc lư. Miệng gã trễ xuống và bàn tay lóng ngóng dò dẫm trên người. Gã lảo đảo khuỵu gối rồi đổ vật xuống giường, mặt úp sấp. Hơi thở hổn hển của gã tràn ngập căn phòng.
Tôi cầm ống điện thoại trong tay trước khi bà nhúc nhích. Đôi mắt bà có màu xám chết chóc như nước đóng băng. Bà xô ra cửa và tôi cũng chẳng cố giữ lại. Bà rời khỏi cánh cửa mở rộng. Gọi điện thoại xong, tôi tới khép nó lại. Tôi quay lại, xoay đầu gã một chút trên giường để gã khỏi ngạt thở. Gã vẫn sống nhưng sau năm phát đạn vào bụng thì ngay cả Moose Malloy cũng chẳng còn được bao lâu.
Tôi trở lại điện thoại và gọi Randall ở nhà ông ta.
- Malloy - tôi nói - trong nhà tôi. Bị nã năm phát vào bụng bởi bà Grayle. Tôi đã gọi điện tới bệnh viện cấp cứu. Bà ta đã đi khỏi.
- Vậy là anh đã diễn một vở tuyệt diệu đấy, - ông ta nói có vậy và gác máy gấp.
Tôi trở lại giường. Malloy đã quỳ đầu gối bên cạnh giường, gượng dậy, bàn tay co quắp túm lấy một nắm vải giường. Khuôn mặt gã ướt nhẹp và hôi hám. Tròng mắt gã đảo chầm chậm và vành tai đã đen sậm.
Gã vẫn quỳ và gượng dậy khi xe cấp cứu tới. Phải bốn người mới khiêng nổi gã lên cáng.
- Ông ta chỉ có cơ may mỏng manh, nếu là những viên đạn 25, - viên bác sĩ cấp cứu nói trước khi ra cửa. - Tất cả phụ thuộc vào việc chúng đi chui vào những nội tạng nào. Nhưng cũng còn có cơ may.
- Gã không muốn điều đó đâu, - tôi nói.
Gã đã không có cơ may ấy. Gã chết ngay trong đêm.