← Quay lại trang sách

Chương VI ĐỌC SÁCH CÁCH NÀO (tiếp)-ĐỌC VĂN KHẢO CỨU – BIẾT SUY NGHĨ

Bạn trình bày điều ấy như một định lý:

tôi phản đối; như một qui tắc thì được

H. SPENCER.

Học nhi vô tư tắc võng, tư nhi vô học tắc đãi[22]

KHỔNG TỬ

Tận tín thư bất như vô thư[23]

MẠNH TỬ

1. Bốn qui tắc của Descartes

2. Giả thuyết và thành kiến

3. Lý luận bằng cách loại suy

4. Tật “sờ coi”

5. Chính danh là cần thiết khi biện luận

1. BỐN QUI TẮC CỦA DESCARTES

Đọc loại sách nghị luận, khảo cứu cần nhất có óc suy nghĩ, phê bình chỉ để tin những điều đáng tin.

Thuật tư tưởng là một thuật khó nhất và cả những nhà bác học cũng tự nhận rằng 10 lần thì nghĩ sai đến 6-7 hoặc 8-9.

Muốn tư tưởng cho đúng, phải nghe nhiều tiếng chuông, thu thập đủ những khảo cứu nhất là phải có tinh thần khoa học, biết bỏ hết thành kiến; mà tinh thần này rất khó có, nhiều người được đào luyện trong lò khoa học cả chục năm cũng còn thiếu nó[24].

Xét kỹ thuật tư tưởng phải mất 5-6 trăm trang, sẽ ra ngoài phạm vi cuốn sách này nên ở đây tôi chỉ nhắc bạn vài qui tắc quan trọng mà người tự học nào cũng cần nhớ.

Trước hết là 4 qui tắc của Descartes, ông thủy tổ của khoa học thực nghiệm.

Qui tắc thứ nhất: Phải chứng minh một sự thực nào rồi mới nhận nó là sự thực.

Qui tắc thứ nhì: Phải chia sự khó khăn ra làm nhiều phần nhỏ, càng nhiều càng hay, nghĩa là phải phân tích nó ra để giải quyết. Có óc phân tích thì mới xét được đủ phương diện của một vấn đề.

Qui tắc thứ ba:Thu thập những phần tử đó lại theo từng loại, theo sự quan trọng của chúng. Qui tắc này ngược lại qui tắc trên gọi là qui tắc tổng hợp.

Qui tắc thứ tư: Kiểm điểm lại cho đủ, xét cho khắp để đừng bỏ sót một chút gì.

Trong bốn qui tắc ấy, qui tắc thứ nhất khó theo vô cùng. Hết thảy chúng ta ai cũng mắc tật dễ tin, dễ bị uy tín của các học giả thôi miên. Ta không hề tự hỏi:

- Những chứng cứ họ đưa ra có đúng không?

- Họ có thay đổi những chứng cứ đó để bắt nó biện hộ cho thuyết của họ không?

- Họ có thành kiến không?

- Họ có xét hết phương diện của vấn đề không?

……………………

Từ trước, nhiều người tin rằng Khổng Tử chủ trương sự tôn quân. Gần đây Trần Văn Sóc, trong cuốn “Lược khảo học thuyết Khổng Tử”, lại bảo Khổng Tử có tư tưởng dân chủ. Ông đưa 3-5 chứng cứ. Ta phải xét từng chứng cứ một xem có đúng không rồi mới tin thuyết của ông được. Chẳng hạn ông bảo: Có một lần Khổng Tử đến đất nhà Đông Chu để hỏi Lão Tử về Lễ mà không đến yết kiến vua nhà Chu. Đọc câu đó tôi tự hỏi:

- Có thật lần đó Khổng Tử không đến yết kiến vua nhà Chu không.

- Nếu đúng, thì có chắc chắn rằng vì lẽ không tôn thiên tử nhà Chu không, hay còn lẽ gì khác …[25]

Ngay trong khu vực của khoa học thực nghiệm mà ta cũng thường gặp nhiều thuyết trái hẳn nhau. Vì mỗi học giả thường chỉ đứng về một phương diện mà xét rồi vội vàng lập thuyết. Kẻ nói ăn xong nên nằm nghỉ cho máu dồn về bao tử và dễ tiêu hóa. Người lại bảo ăn xong nên vận động ngay vì thí nghiệm đã chứng minh rằng một đàn chó ăn no rồi phải đi săn liền thì vài giờ sau, mổ bụng ra thấy thức ăn tiêu hết, còn một đàn khác ăn no rồi nằm thì thức ăn tiêu rất chậm.

Sự thực ở đâu? Thí nghiệm vào chó và kết luận về người có được không? Vả lại còn bộ tiêu hóa và thói quen của mỗi người nữa, nên không thể tin ngay thuyết trên hoặc thuyết dưới được.

Chế độ cộng sản được ca tụng bao nhiêu thì cũng bị chỉ trích bấy nhiêu.

Những sự mâu thuẫn như vậy nhiều lắm. Thái độ của ta là phải ngờ hết thảy và tự tìm lấy sự thực cho mình.

Ở trường, ta được học phép phân tích trong những môn tác văn, toán…, nhưng ít khi giáo sư dạy ta cách tổng hợp. Năm 1930, ông R. F. Reynaud đã phàn nàn: “Không bao giờ người ta dùng phương pháp tổng hợp để học sinh thấy sự liên lạc các điều đã dạy”.

Không có óc tổng hợp thì không thấy được sự toàn diện một vấn đề, và sự hiểu biết của ta rời rạc, vô ích.

Ông Thái Phỉ, một nhà giáo kiêm văn sĩ, trong cuốn “Một nền giáo dục Việt Nam mới” đã chịu khó nhận thấy thanh niên thời tiền chiến có trên 20 tính xấu.

Ông chê họ:

- Về thể chất thì xanh bủng, gầy yếu, con mắt thâm quầng, dáng mệt nhọc có tật ngại việc, ngại đi bộ, ngại đứng, thích được ngồi tựa lưng.

- Về tinh thần, họ nhu nhược và nhát sợ, thiếu tinh thần độc lập, thiếu tinh thần phương pháp, kém óc thực tế và tháo vát, giàu óc trối kệ, không biết trọng kỷ luật và trật tự, hỗn láo, sỗ sàng và thô tục, hung hăng xằng, thích xa hoa và đàng điếm, không ưa hoạt động và lười biếng, kém tinh thần thích nghi, không có tín ngưỡng và không thờ một lý tưởng nào, không có ý thức quốc gia và chỉ thờ một thứ là ái tình và hiện thân của ái tình là người đàn bà.

Bảng kê khai đó đầy đủ lắm, nhưng thực lộn xộn, vì ông không biết tổng hợp thành thử người đọc không nhớ được nhiều; còn ông, khi tìm phương pháp để trị những tật ấy, thì kiếm không được cách nào có hiệu quả.

Nếu ông tổng hợp lại thì tất thảy hơn 20 tật có thể sắp xếp thành 3 loại:

* Tật cố hữu của tuổi trẻ, chung cho thành niên của bất kỳ dân tộc nào, bất kỳ thời đại nào, như:

- Hung hăng xằng, không bền chí, tự đắc.

* Tật do chế độ đại gia đình, như:

- Ỷ lại, thiếu tinh thần độc lập, giàu óc khối kệ,

- Không tháo vát,

- Kém tinh thần thích nghi,

- Sỗ sàng, tàn nhẫn với kẻ dưới,

* Tật do nền giáo dục sinh ra, như:

- Không có tín ngưỡng, cũng không có ý thức quốc gia,

- Nhu nhược, nhút nhát,

- Không ưa hoạt động và lười biếng,

- Thiếu óc phê bình,

- Thiếu tinh thần phương pháp,

- Kém óc thực tế.

Những tật trong loại thứ nhất không cần quá lưu tâm vì nếu khéo hướng dẫn thanh niên thì những tật đó sẽ biến thành đức tốt.

Những tật do chế độ đại gia đình thì chẳng cần phải diệt, nó cũng lần lần mất theo chế độ ấy.

Vậy chỉ còn những tật trong loại thứ 3 và nếu ta cải tạo nền giáo dục luyên cho thanh niên có một lý tưởng, một tinh thần khoa học thì tự nhiên giải quyết được vấn đề.

Trong sự học ta nên luôn luôn áp dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để dễ nhớ, dễ suy xét và có một khái niệm rõ ràng, chắc chắn về một vấn đề.

Còn phương pháp thứ 4 của Descartes là kiểm điểm cho đủ thì bạn nào cũng hiểu rồi, tôi xin miễn bàn thêm.

2. GIẢ THUYẾT VÀ THÀNH KIẾN

Trong lúc học hỏi, có khi ta phải lập một giả thuyết để thí nghiệm.

Lập giả thuyết là tạm cho rằng sự kiện này là do một nguyên nhân nọ mà ra rồi thí nghiệm, kiểm soát xem giả thuyết ấy đúng không. Lúc thí nghiệm phải nhận xét một cách hoàn toàn khách quan, đừng bao giờ tin trước rằng giả thuyết đó phải đúng, nghĩa là đừng có thành kiến. Nếu có thành kiến thì nhận xét sẽ sai.

Chẳng hạn bạn thấy cháu ở nhà học thụt lùi. Có thể do sức cháu yếu (bộ tiêu hóa kém, hô hấp khó khăn, thiếu máu…), có thể do bài học khó quá, cháu theo không nổi, mà cũng có cháu do bị chúng bạn rủ rê, ham chơi, lười học… Bạn lập một giả thuyết, tạm cho nguyên nhân đầu tiên là đúng rồi thí nghiệm, đưa cháu lại bác sĩ trị bệnh. Từ khi cháu hết bệnh, bạn nhận xét xem sự học của cháu có tiến không. Nhưng bạn phải nhận xét một cách khách quan, không được tin chắc chắn rằng nguyên nhân đó phải đúng. Nếu tin chắc như vậy thì mới thấy sự học của cháu trong vòng một tuần có vẻ khả quan, bạn không nhận xét thêm nữa và như vậy có thể lầm. Biết đâu sự tấn tới trong tuần đó chẳng do cháu may mắn gặp những bài dễ hoặc gặp lúc thầy giáo vui vẻ nên được điểm lớn? Ngay khi cháu còn đau, thỉnh thoảng cháu cũng được một vài tuần khá như vậy mà bạn không để ý tới. Như thế là bạn có thành kiến, để thành kiến chỉ huy bạn, làm mê hoặc bạn trong lúc nhận xét, nên bạn không thấy được sự thực.

Nếu có thể được, đã thí nghiệm rồi lại nên phản thí nghiệm cho chắc chắn.

Ông Claude Bernard, người sáng lập ra khoa y học thực nghiệm ngày nay, đã chỉ cho ta cách phản thí nghiệm trong cuốn “Y học thực nghiệm nhập môn” (Introduction à l’étude de la médecine expérimentale).

Ông kể chuyện một lần thấy những con thỏ mua ở chợ về nước tiểu trong và có chất toan (acide). Ông ngạc nhiên lắm vì chỉ những loài ăn thịt mới có nước tiểu ấy, còn loài ăn rau cỏ thì nước tiểu đục và có chất kiềm (alcalin).

Ông nảy ra ý nầy: những con thỏ đó chắc đã phải nhịn đói lâu, sống bằng huyết, mỡ của nó, nên có thứ nước tiểu của loài ăn thịt ấy. Đó là giả thuyết của ông.

Ông bèn thí nghiệm.

Ông cho chúng ăn cỏ: vài giờ sau nước tiểu chúng hóa đục và có chất kiềm. Rồi ông lại bắt chúng nhịn 24 hoặc 36 giờ, nước tiểu của chúng lại hóa ra trong và có chất toan. Rồi ông lại cho ăn cỏ, nước tiểu lại hóa đục và có chất kiềm.

Ông kết luận rằng hết thảy những con vật nào phải nhịn đói đều sống bằng chất mỡ, máu của chúng.

Nhưng ông chưa tin hẳn. Ông còn phản thí nghiệm, cho một số thỏ ăn toàn thịt bò hầm để nguội. Chúng tiêu hóa được món ấy và nước tiểu của chúng quả nhiên trong và có chất toan.

Để tập suy nghĩ, bạn nên coi thêm cuốn Tinh thần khoa học của Nguyễn Văn Tài (nhà xuất bản Tân Việt), những cuốn: Óc sáng suốt, Thuật tư tưởng của Nguyễn Duy Cần và chương “Phương pháp khoa học” trong cuốn Tổ chức công việc theo khoa học và cuốn Luyện lý trí của tôi.

3. LÝ LUẬN BẰNG CÁCH LOẠI SUY

Hết thảy chúng ta có thói quen lý luận bằng cách loại suy (raisonnement par analogie). Cách này thường có vẻ tài hoa, dễ làm cho người đọc cảm phục rồi tin, nhưng nhiều khi nó chẳng chứng minh được điều gì cả.

Tục ngữ có câu: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.

Ví người xấu với mực, người hiền với ánh đèn và khuyên ta lựa bạn mà chơi để khỏi bị lây thói xấu của kẻ ác và tập được cái hay của người thiện. Lý luận như vậy là lý luận bằng cách loại suy.

Sách Lễ ký nói: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất trí đạo”.

Khổng Tử bảo: “Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tắc yển” (Đức người quân tử như gió, tính tình kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi thì cỏ rạp xuống; ý nói đức của người quân tử dễ cảm hóa được kẻ tiểu nhân).

Hai câu ấy đều là so sánh chứ không lý luận. Hình ảnh càng đẹp đẽ tân kỳ bao nhiêu thì ta càng dễ tin bấy nhiêu, nên ta phải chống cự lại, đừng để cho óc phán đoán của ta bị nó mê hoặc.

Mỗi lần gặp câu lý luận bằng cách loại suy ta phải tự hỏi ngay: Đúng như vậy hay không? Tật xấu quả dễ lây như mực không? Con người có phải như viên ngọc không? Mà hễ không học có phải là vô dụng không? Kẻ tiểu nhân có dễ theo người trên, dễ bị cảm hóa như cỏ nằm rạp dưới sức gió không?

Lý luận theo cách loại suy nhiều khi có ảnh hưởng tai hại lắm.

Mới rồi, trong một đám tiệc, một “trí thức” có hai bằng cấp đại học mà thốt ra một câu như vầy:

- Quần chúng ta còn thấp kém lắm; như đám cỏ vậy, nên nước nhà không thể có những vị anh hùng cái thế được. Các ông có thấy cây lim nào mọc trên đám cỏ không?

Thực nhục nhã cho dân tộc Việt! Cũng may trong đám tiệc đó không có một người ngoại quốc nào.

Người ta bảo môn toán dạy ta lý luận. Người ta bảo muốn học luật, cần có óc suy lý. Tôi bắt đầu ngờ những lời ấy vì nhà “tri thức” kia ở trường luôn đứng đầu về môn toán, lại ở ban luật mà sao lý luận như vậy được? Ông ta đã đi khắp Trung, Nam, Bắc, qua cả ngoại quốc rồi chứ, mà có lẽ chưa bao giờ thấy những cây tùng, cây bách, cây sao, cây dầu mọc trên một bãi cỏ! Và có lẽ ông cũng đã quên hết sử nước nhà. Thực tội nghiệp!

4. TẬT “SỜ VOI”

Còn tật nầy nữa, cũng rất thường gặp trên báo, sách, trong câu chuyện, là tật nói quàng, tật “sờ voi”.

Chắc bạn còn nhớ, truyện ngụ ngôn năm anh đui sờ con voi, anh thì sờ thấy cái đuôi, cho con voi là cái chổi, anh thì sờ thấy cái chân, cho con voi là cây cột… Chính tôi cũng đã nhiều lần mắc tật “sờ voi” và tôi dám cam đoan nghìn người không có một người tránh khỏi nó.

Vậy, khi đọc sách, bạn nên thường tự hỏi: Tác giả có “sờ voi” hay không? Bạn tự hỏi ngay bây giờ đi.

Tôi mới được hầu chuyện một ông bạn. Ông ta trước sau đọc có 2 cuốn về thơ Trung Quốc là cuốn Đường thi của Ngô Tất Tố và cuốn Đường Thi của Trần Trọng Kim rồi bảo thi sĩ Trung Hoa có óc nghệ sĩ hơn là hồn thi sĩ, kém xa dân quê Việt Nam. Ông ta dẫn chứng liền:

- Này bạn thân, bạn thử nghe câu ca dao này nhé:

Trèo lên cây khế nửa ngày

Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!

Hồn thơ như vậy có ghê không? Bỏ xa cả Lý, Đỗ cả ngàn bực!

Tôi mỉm cười hỏi lại:

- Anh định nghĩa cho tôi thế nào là thi sĩ, thế nào là nghệ sĩ đã chứ? Có thi sĩ nào không phải là nghệ sĩ không? Và anh đã đọc ca dao Trung Hoa chưa? Đọc Kinh Thi chưa? Đã đọc thơ những đời khác ngoài đời Đường chưa?

5. CHÍNH DANH LÀ VIỆC CẦN THIẾT TRONG KHI BIỆN LUẬN

Thường mỗi tiếng mỗi người hiểu theo một nghĩa, nên các cuộc biện luận kéo dài vô tận mà chẳng ai thuyết phục được ai.

Chẳng hạn cùng một chữ tính mà Mạnh Tử, Tuân Tử mỗi nhà hiểu một khác. Mạnh cho tính là phần thiên lý của trời phú cho mỗi người, còn Tuân hiểu tính là khí chất của con người. Do đó, Mạnh có thuyết tính thiện, mà Tuân có thuyết tính ác. Hai nhà sống cách nhau già nửa một thế kỷ, nếu không, chắc đã có những cuộc tranh luận sôi nổi với nhau rồi.

Hiện nay những danh từ dân chủ, cộng sản… cũng có rất nhiều định nghĩa, nên khi đọc sách, phải rán tìm hiểu định nghĩa của tác giả về tiếng ấy rồi mới xét được lập luận của họ.

[22] Có người dịch là: Học mà không suy nghĩ là vô ích. Suy nghĩ mà không học là nguy hiểm (tệ hại). (Goldfish).

[23] Tin hết ở sách thà đừng đọc sách (xem phụ lục II). (Goldfish).

[24] Xin coi chuyện các vị bác sĩ nhà thương Phủ Doãn trong chương III cuốn Hiệu Năng: “Châm ngôn của các nhà doanh nghiệp” của tác giả.

[25] Tôi cũng nghĩ như ông Trần Văn Sóc rằng thâm ý của Khổng Tử là muốn trở lại chế độ thời đại tiểu khang thời Hạ, Thương, nhưng có lẽ Ngài thấy không thể như vây được nữa, nên tùy thời mà phải biểu dương nhà Chu, để cứu cảnh loạn lạc lúc ấy. Đó chỉ là một ý kiến chưa chắc đã đúng vì nghiên cứu về đạo Khổng là một việc rất khó. Dù sao Khổng Tử cũng không dân chủ theo nghĩa ngày nay, ông chỉ quí dân thôi.