← Quay lại trang sách

Chương VII ĐỌC SÁCH CÁCH NÀO? (tiếp)-ĐỌC CÁC LOẠI VĂN KHÁC

Tiểu thuyết khi nó hay, có thể mở cho ta thấy

những viễn cảnh mới lạ về con người của ta

và về đời sống, mà cũng có thể nguy hiểm (…)

ADRIEN JANS

Thi sĩ nuôi trong lòng ta ngọn lửa hừng hực của lý tưởng

A. SOUCHE

1. Thú đọc tiểu thuyết

2. Ích lợi của tiểu thuyết

3. Cách đọc tiểu thuyết

4. Thơ an ủi ta và nâng cao lý tưởng của ta

5. Thơ là gì?

6. Thơ buông và thơ tư do

7. Cách đọc thơ

8. Đọc báo

1. THÚ ĐỌC TIỂU THUYẾT

Trên 10 năm trước, một hôm vào một tiệm sách ở Chợ Cũ, tôi gặp một anh bạn mua cuốn: Nghìn lẻ một đêm. Thấy tôi, anh có vẻ ngường ngượng, nói:

- Tôi mua cho tụi trẻ đọc.

Chắc anh ấy nhớ nửa tháng trước, mới bảo tôi là không khi nào đọc tiểu thuyết cả.

Tôi mỉm cười đáp:

- Cuốn nào chứ cuốn ấy thì tôi cũng thích đọc. Chẳng riêng tôi, cả nhân loại đều mê nó.

Một ông “còm-mi” khinh tiểu thuyết như vậy. Trái lại, một nhà đại ái quốc, Lương Khải Siêu, lại cho tiểu thuyết là một loại văn quan trọng nhất: Muốn cải lương phong tục, tôn giáo, chính trị, xã hội… thì phải cải lương tiểu thuyết trước hết.

Sở dĩ có hai quan niệm trái ngược nhau như vậy là vì tiểu thuyết như con dao bén: ông còm-mi chưa tin ở bàn tay của mình, e bị đứt thịt[26], còn nhà ái quốc vững tâm muốn dùng nó cắt hết những dây trói buộc Trung Quốc vào hủ tục.

Nó là một con dao bén vì ảnh hưởng của nó rất mạnh. Nó làm say mê độc giả hơn cả phù dung tiên tử.

Từ bọn lao động chúng mình phải đem mồ hôi nước mắt đổi lấy chén cơm manh áo, đến những bực vua chúa trên ngai vàng, thảnh thơi suốt ngày, kẻ hầu người hạ, hết thảy đều có lúc thấy đời sống ở cõi trần này là tầm thường, buồn tẻ, đều muốn thoát ly thực tại trong một vài giờ và không nhờ tiểu thuyết thì lấy gì dắt dẫn, nâng đỡ óc tưởng tượng tới những cõi xa xăm, thăm thẳm, vô bờ bến? Đã đành mộng mơ quá thì sẽ thiếu cơm, thiếu áo hoặc bị thiên hạ đè bẹp, nhưng thiếu mơ mộng thì cũng chán!

Kẻ nào hồi 10 tuổi, đọc truyện Tấm Cám, hoặc những truyện của Perrault, Andersen, Grimm…, rồi lớn lên ít tuổi nữa, đọc Hồn bướm mơ tiên, Paul et Virginie… mà tâm hồn không rung động thì kẻ đó không phải là người, có lẽ là một cục đá.

Một văn sĩ Pháp kể chuyện một con bé chăn cừu tìm được trong lẫm lúa cuốn Télémaque, thích lắm, ngày nào cũng lén lút vào đó để đọc. Một hôm, đọc xong một đoạn, nó gấp sách lại, ngồi tựa cửa sổ nhìn trời. Trời sắp tối, cây cối bớt xanh, mặt trời lẩn sau đám mây trắng như bông. Bỗng nhiên nó có cảm giác là nó “bay trên rừng với Télémaque, Télémaque cầm tay nó và đầu hai người chạm trời xanh”.

Chúng ta ai chẳng có cảm tưởng thần tiên ấy? Khi thì ngồi trên lầu, bên dòng nước, nghe văng vẳng tiếng tiêu của chàng Trương Chi, lúc thì vào hang thần nhét đầy 2 túi kim cương, ngọc thạch, lúc thì dạo biển Đồ Sơn với Tố Tâm, hoặc leo đồi Phú Thọ với chàng Lộc…

Tôi đương ngồi trong một căn nhà rộng 3 thước, nóng như thiêu, mồ hôi nhễ nhại, thèm cái rét ở phương Bắc, nhớ những vườn cúc ở Ngọc Hà cùng những cổng xóm trắng trong bụi tre xanh ở chân đê. Làm sao bay ra ngoài đó được! Tôi mở Gánh hàng hoa của Khái Hưng và Nhất Linh, Quê người của Tô Hoài, và tôi thấy đời sống ở Sài Gòn này, sau cuộc hồi hương tưởng tượng ấy, cũng dễ chịu được đôi phần.

2. ÍCH LỢI CỦA TIỂU THUYẾT

Tiểu thuyết bây giờ đã phát triển tới mức bao gồm được hết các tư tưởng, lịch sử của loài người cùng những cảnh vật, biến thiên trong vũ trụ. Có rất nhiều loại: tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết hoạt kê, kiếm hiệp, tả chân, luận đề, triết lý, khoa học…,[27]nên đọc tiểu thuyết, ngoài cái thú tiêu khiển, còn được cái lợi hiểu thêm hai thế giới, một thế giới sâu kín trong lòng con người và một thế giới mênh mông ở ngoài.

Muốn biết đời sống dân quê Bắc Việt thì đọc Tô Hoài, Ngô Tất Tố, muốn biết tình cảnh của dân quê Nam Việt thì có Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Sơn Nam; tâm lý của nhà Nho hồi xưa hiện rõ trong tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật và cuốn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, còn tâm lý giai cấp trưởng giả hồi 1930 đã được mô tả trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Từ cảnh rừng núi âm u đến cảnh bát ngát, từ những đau khổ, chiến đấu đến những hy vọng, vinh quang của loài người, nào bi kịch, nào hài kịch, rồi những thăng trầm của thế sự, những mâu thuẫn của thời đại, thiên đường, địa ngục, chim muông cây cở, tai trời ách nước… nhất nhất đều phản chiếu với muôn hình vạn sắc trong tấm gương của muôn thủa, là tiểu thuyết.

3. CÁCH ĐỌC TIỂU THUYẾT

Tôi đọc mỗi tiểu thuyết hai ba lần, lần đầu để thoát ly đời sống hiện tại, những lần sau mới để hiểu biết thêm.

Khi đọc xong, tôi tự hỏi:

a) Tiểu thuyết này thuộc về loại nào?

Nếu là một tiểu thuyết luận đề như “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh thì tôi chú trọng trước hết đến luận đề. Tác giả muốn dựng lên cái thuyết rằng trong gia đình, cái cũ với cái mới không dung hòa với nhau rồi kết luận phải có sự chia rẽ, phải cho cá nhân thoát ly gia đình.

Tôi phải xét khi tả cái cũ và cái mới đó, tác giả có theo đúng sự thực không, hay đã phóng đại ra để bênh vực thuyết của ông? Ông có quyền phóng đại nhưng phóng đại có hợp lý không? Tâm lý các nhân vật có tự nhiên không? Động tác của họ có hợp tâm lý không? Những biến chuyển trong truyện có gì bất ngờ không?...

Có tự hỏi những câu đó rồi mới quyết đoán được thuyết của tác giả có vững hay không, nên theo tới bực nào?

Nếu là một tiểu thuyết phong tục như Con trâu của Trần Tiêu thì tôi chú ý nhất đến nghệ thuật miêu tả và cách xây dựng cốt truyện.

Nếu là một tiểu thuyết xã hội như cuốn Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, tôi tự hỏi tác giả có vạch rõ một con đường chiến đấu không hay để ta tự tìm lấy? Con đường ấy là con đường nào? Nó hợp với trào lưu tiến hóa của xã hội ta trong giai đoạn đó không?

Mỗi tiểu thuyết có giá trị đều chứa một tư tưởng, ít nhất cũng là một nhân sinh quan. Tôi rán tìm ra tư tưởng hoặc nhân sinh quan ấy. Chẳng hạn Nguyễn Công Hoan có tư tưởng mỉa mai kẻ giàu sang và bênh vực kẻ nghèo hèn. Đái Đức Tuấn thì mơ mộng, thích phong vị cổ, chỉ muốn thoát ly đời sống hiện tại…

b) Tiểu thuyết chứa sự thực tới một trình độ nào?

Muốn trả lời câu ấy ta phải biết tiểu thuyết gia tạo tiểu thuyết ra sao.

Tất nhiên là tùy loại. Tiểu thuyết tả chân bao giờ cũng đúng sự thật hơn tiểu thuyết thần tiên. Tuy nhiên ngay trong tiểu thuyết tả chân và cả những tự truyện như cuốn Dã tràng của Thiết Can, Le Petit chose của A. Daudet, David Copperfield của Ch. Dickens, vẫn có một phần tưởng tượng vì không có tưởng tượng, không thành tiểu thuyết.

Ai cũng biết chàng Đông trong Dã tràng ­chính là Thiết Can, David Copperfield chính là Dickens, còn Flaubert thì nói: “Bovary là tôi”, nhưng không phải các nhà đó chép đúng đời sống của họ vào truyện đâu. Họ đã lựa chọn, xếp đặt, thêm bớt, phóng đại hoặc lý tưởng hóa đời họ đi một chút.

Sibermann, trong cuốn “Amour nuptial” đã chỉ cách ông viết tiểu thuyết: “Tôi đã tự hứa chỉ tưởng tượng mối liên lạc trong truyện, ngoài ra như nơi chốn, tính tình nhân vật, tôi sẽ chép đúng sự thực. Nhưng sau khi bắt đầu làm như vậy, tôi thấy phương pháp ấy không có giá trị gì cả. Tính tình nhân vật thiếu chặt chẽ… hóa ra rời rã, vụn vặt… và lúc đó tôi mới hiểu chức vụ của tưởng tượng trong tiểu thuyết. Nó phải dùng những bằng chứng rời rạc của sự nhận xét cùng với những kết quả cuối cùng của sự phân tích rồi tự do tổng hợp những cái đó lại”.

Nhưng tưởng tượng gì thì tưởng tượng, tiểu thuyết gia cũng phải dựa vào sự thực thì ta mới tin được, nghĩa là những chuyển biến trong động tác phải tự nhiên, tính tình nhân vật phải hợp lý. Đã đành trái tim có những lý lẽ mà lý trí không biết, đã đành có những tâm hồn đặc biệt, siêu việt mà chúng ta khó đoán được hành động, song kể ra cũng dễ đoán được tác giả tưởng tượng có lý hay không. G. de Scudéry, một văn sĩ Pháp ở thế kỷ 17, nói: Khi nào óc ta nhận cái gì một cách dễ dàng, không cần có chứng cớ thì cái đó có vẻ đúng sự thực”. Câu nói đó ông nói về kịch, nhưng áp dụng vào tiểu thuyết cũng vẫn đúng.

Đọc truyện Kiều, ta thấy hành động của nhân vật rất hợp tâm lý, tính tình của họ. Ta không ngạc nhiên khi thấy Thúy Vân ngủ li bì giữa cái đêm mà cô chị sắp phải xa cha mẹ và các em mà về với Mã Giám Sinh, rồi lại hỏi chị một câu ngớ ngẩn:

Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh

Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây

Vì ở đầu truyện tác giả đã tả Thúy Vân là một người vô tư, gần như đần độn: mặt thì “khuôn trăng đầy đặn” mà tính tình thì “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”.

Trái lại trong tiểu thuyết hồi tiền chiến của Lê Văn Trương ta thấy đầy những mâu thuẫn về tâm lý; nhân vật nào cũng có những cử chỉ lố lăng chỉ làm cho ta nực cười chứ không cảm động.

c) Về phép bố cục trong tiểu thuyết.

Có hai lối:

- Một lối mà hầu hết các tiểu thuyết gia Pháp đều theo là giữ tính cách nhất trí cho truyện. Fénelon nói: “Chỉ khi nào người ta không thể bỏ một đoạn trong một tác phẩm mà không phạm tới phần cốt yếu của nó thì tác phẩm đó mới thật là có tính cách nhất trí”.

Các tiểu thuyết gia của ta hiện nay chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp, cũng theo cách ấy: mỗi chi tiết trong truyện phải có một sứ mạng riêng, phải giúp ta hiểu thêm tính tình nhân vật hoặc dắt ta tới gần đoạn kết một chút, phải như một tia sáng chiếu qua một cái kính rồi tụ lại ở một điểm, điểm ấy là kết cục của truyện hoặc tư tưởng, luận đề mà tác giả muốn bênh vực[28].

- Lối thứ nhì cho rằng mỗi tiểu thuyết có thể có nhiều phương diện. Các tiểu thuyết gia Anh theo cách ấy và bị người Pháp chê là không biết dựng cốt truyện.

Forster, tác giả cuốn A passage to India (Một con đường sang Ấn Độ), đáp: Chúng tôi cũng biết dựng cốt truyện, nhưng chúng tôi muốn cốt truyện phải phức tạp. Đời sống không bình dị, xuôi theo một chiều mà rắc rối, có muôn mặt. Một nghệ phẩm càng vẽ được sự phức tạp ấy thì càng có giá trị. Tất nhiên các chi tiết vẫn phải theo một trật tự nào đó mới cảm động được người đọc”. Vì vậy tiểu thuyết Anh như một con đường mòn uốn khúc qua những cánh đồng, những bãi cỏ, tới một đích mơ hồ, có khi ngừng lại ở một bờ sông, không có đích nào hết.

Hai quan niệm ấy thực trái nhau. Người nào quen đọc tiểu thuyết Pháp mà đọc tiểu thuyết Anh, Mỹ có thể dễ chán, nhưng lâu rồi cũng thấy cái thú vị riêng của nó.

Đầu thế kỷ xuất hiện một thể mới, thể tiểu thuyết tràng giang hàng 20–30 cuốn tả cả một thời đại, có khi 2-3 thế hệ liên tiếp, như bộ Les hommes de volonté của Jules Romains, bộ Les Thibaultcủa Roger Martin du Gard.

Có nhiều cách cấu tạo những tiểu thuyết ấy. Có cách của Balzac là viết một loạt tiểu thuyết, mỗi truyện có một kết cục riêng, nhưng toàn bộ có một tính cách chung là tả một xã hội nào đó trong một thời đại nào đó.

Có cách của Zola là cũng soạn một loạt tiểu thuyết mà nhân vật chính trong các truyện đều là người trong một dòng họ. Ông dùng cách ấy để chứng minh – một cách ngây thơ – những luật về di truyền.

Có cách của Proust và Romain Rolland là tả một nhân vật chính trong một đám rất đông nhân vật phụ và phức tạp giữa những hoàn cảnh rất thay đổi. Cách này khó thực hành vì phải cho nhân vật chính đó sống một đời cực dồi dào, trôi nổi; do đó truyện nhiều khi không tự nhiên.

Sau cùng là cách của Jules Romains. Ông không tập hợp các nhân vật lại để tạo thành một hình ảnh của xã hội mà định trước hình ảnh một xã hội rồi cho các nhân vật hoạt động trong đó; thành thử nhân vật chính trong tiểu thuyết tràng giang của ông không phải là một người mà là một thời đại. Ông tả những châu thành, những miền mênh mông, những sự biến trong lịch sử rồi những nhân vật của ông hiện lên trên bức họa đó như “những ngôi sao sa” hiện trên nền trời; nhân vật này không liên lạc gì tới nhân vật khác, có khi cùng tiến về một đích, cùng bị một trào lưu lôi cuốn mà không hề biết nhau; có khi hoạt động trong một thời gian ngắn rồi biến mất, không biết đi đâu, chẳng lưu lại một ảnh hưởng gì về sau cả, y như trong đời sống hàng ngày vậy.

d) Bất kỳ trong một tình thế xã hội nào, nhất là trong tình thế xã hội hiện tại, tiểu thuyết gia cũng có trách nhiệm với quốc gia, xã hội và nhân loại.

Nếu họ không giúp loài người tiến, hiểu nhau nhiều hơn, yêu nhau hơn, công bình với nhau hơn… thì ít nhất họ cũng không được giảm giá trị, làm trụy lạc con người.

A. Souché viết: “Có những cuốn sách làm tàn tuổi xuân, làm nhơ nhớp óc tưởng tượng của đàn ông và đàn bà, già và trẻ, diệt sự tự trọng của ta (…)”. Chỉ những người tâm hồn rất trong sạch đọc những cuốn đó mới không có hại, nhưng chính những người ấy lại không thích đọc nó vì chẳng thấy lợi gì cả.

4. THƠ AN ỦI TA VÀ NÂNG CAO LÝ TƯỞNG CỦA TA

Rất ít người làm được thơ, mặc dù ai cũng đã có lần tấp tểnh chắp vần – phần nhiều là thơ “Con Cóc”.

Có gì đẹp bằng thơ? Có gì di dưỡng tâm hồn ta hơn là thơ?

Tôi không muốn sống chung với một số thi sĩ như Baudelaire chẳng hạn; hoặc họ trụy lạc, hoặc khinh bạc, hoặc điên rồ, hoặc ích kỷ; song tôi cũng không muốn đội một vòng hoa lên đầu hết thảy các thi sĩ rồi mời họ ra khỏi châu thành. Những thi sĩ chân chính rất có ích cho nhân loại. Họ là những bông hoa rực rỡ, những vì sao lấp lánh; họ lại là bạn tâm tình của mọi người. Họ luôn luôn thành thực, nên ta mến họ.

Ai không có lúc hăng hái tin tưởng, không thấy sôi nổi muốn làm một việc gì mà người thân thì không hiểu mình, còn đồng chí thì ở xa. Biết kể chí hướng với ai đây, nếu không có những thi sĩ như Victo Hugo và Nguyễn Công Trứ?

Ai không có lúc bồi hồi nhớ quê, đăm đăm mong bạn, hoặc tiếc một mối tình tan vỡ; hoặc mơ mộng một cảnh vui tươi? Không có tri âm ở bên ư? Thì đã có Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Xuân Diệu, Thế Lữ và hàng trăm hàng ngàn thi sĩ khác của mọi thời và mọi xứ.

Thu về ta đọc “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư, xuân đến ta ngâm “Xuân về” của Nguyễn Bính, và cảnh vật chung quanh sẽ hóa ra huyền ảo, thân mật với ta hơn.

Đương lúc tuổi xuân phơi phới, đi ngắm cảnh chùa Hương mà không thuộc bài “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp thì ngày đẹp kém tươi mà tình xuân chưa đậm!

Tóc hoa râm, ngắm trăng mà nhớ hai câu:

Quốc cừu vị báo đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma[29].

Thì mới thấy hết cảnh não nuột của ánh trăng, nỗi đau lòng về thân phận.

5. THƠ LÀ GÌ?

Thơ thì ai cũng thích, mà thơ là gì thì không ai định nghĩa được đầy đủ.

Kẻ bảo thơ là tiếng hót của chim sơn ca, kẻ cho là tiếng thở của gió. Người lại bảo thơ là hoa, là suối, là ánh trăng, là đạo mầu, là trời là biển… là đủ thứ. Sao những người đó không chịu thú như André Billy: “Thơ là cái gì ư? Trời hỡi! Thơ, thơ… Chỉ có cách là mở tự điển ra thôi”.

Thực vậy, thơ có muôn chất, không thể nào tóm tắt trong một định nghĩa vài hàng được. Có bao nhiêu thi sĩ, có bấy nhiêu quan niệm về thơ. Nhà này chủ trương thuyết thanh điệu, cho thơ hay là nhờ nhạc; nhà khác đề xướng thuyết cách điệu, bảo thơ hay ở tính tình; người thì trọng phép tắc, người thì muốn phóng túng; rồi còn những phái thần vân quý sự cao nhã, phái quái đản ưa sự tân kỳ, phái siêu thực chẳng cần ai hiểu mình, phái chắp âm (lettrisme) bất chấp cả văn tự, chỉ dùng âm để phô diễn tính tình, lại có những phái chủ trương không nên có một chủ trương nào.

Thực không còn cảnh giới nào mênh mông bằng cảnh giới của thơ, trách chi nhiều người chẳng phàn nàn rằng thơ cực kỳ khó hiểu. Nó lại rất tế nhị, không sao phân tích nổi mà nếu rán phân tích thì nó hết hay; chỉ dùng tâm hồn mà cảm nó được thôi nên F. Ozanam đã viết: “Sau bao nhiêu năm, tôi mới biết được thơ, nhưng tôi không định nghĩa nó; tôi không thể nào nhận được cô gái bí mật đeo mạng che mặt ấy, tôi không nhìn thẳng được vào mặt nàng, nàng biến lần ngay sau khi có người thấy”.

Chính thi nhân cũng ít người thấy được hết những nét mặt của nàng thơ: bài này Vũ Hoàng Chương khen hay thì Xuân Diệu chê là dở, bài nọ được Huy Cận thưởng thức thì Hưu Chu lại mạt sát. Lamartine ghét thơ La Fontain thậm tệ, Bạch Cư Dị chẳng trọng một ai, trừ Đỗ Phủ.

6. THƠ BUÔNG VÀ THƠ TỰ DO

Xét về hình thức, thơ Việt chia làm 3 loại:

+ Thơ hoàn toàn của mình:

- Lục bát

- Song thất lục bát

- Và những biến thể của 2 thể ấy như Hát nói, Hát xẩm…

+ Thơ mượn của Trung Hoa:

- Thơ cổ phong: Tứ tuyệt, bát cú hoặc trường thiên.

- Thơ luật: Tứ tuyệt, bát cú.

+ Thơ mượn của Pháp:

- Thơ mới (thơ buông).

- Thơ tự do.

a) Thơ buông:

Hai loại trên, bạn nào cũng hiểu rõ; vả lại đã có nhiều sách vạch kỹ những qui tắc của nó như “Quốc văn cụ thể” của Bùi Kỷ, “Việt thi” của Trần Trọng Kim, “Thi pháp” của Diên Hương, “Để hiểu thơ Đường luật” của Hư Chu…, nên chúng tôi chỉ xét về loại cuối.

Thơ mới xuất hiện vào khoảng 1930 còn thơ tự do thì có từ ít năm nay. Chưa tác giả nào xét kỹ về hai thể ấy vì các thi nhân còn đương thí nghiệm nó.

Hai tiếng thơ mới vừa không đúng vừa mơ hồ: không đúng vì mười lăm năm trước, những bài của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… là mới chứ bây giờ là cũ rồi. Mơ hồ vì nó không chỉ rõ được cái thể của thơ ra sao.

Người ta thường dùng danh từ ấy để chỉ hết thảy những bài thơ của thi nhân lớp mới, trong đó có những bài chỉ nội dung là mới còn hình thức là cũ, như bài “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu. Từ số chữ của mỗi câu, đến cách gieo vần, âm điệu trong bài đó đều như in những bài tứ tuyệt thể luật.

Lại có những bài thơ mỗi câu 8 chữ như bài Nhớ Hà Nội của T. Tòng[30] mà nhiều thi nhân cho mà một biến thể của song thất lục bát. Thể 8 chữ ấy, ta không mượn của Pháp, nên trả nó về loại thứ nhất (thơ không hoàn toàn của mình).

Sau cùng, còn những bài mà số câu không nhất định, cách gieo vần thì tuy cứ tiếng cuối cùng của câu trên vần với tiếng cuối cùng của câu dưới, song thi nhân có thể gieo như trong thơ Pháp, nghĩa là gieo những vần liên tiếp, hoặc những vần chéo, vần gián cách…[31]

Thể này ta nên gọi là thể thơ buông và bỏ hẳn danh từ thơ mới đi.

Thi sĩ khi dùng thể thơ buông, không cần theo đúng bố cục trong thể thơ luật, cũng không cần theo luật bằng trắc, không cần ngắt ý ở cuối mỗi câu; cứ theo cảm hứng mà cho nhạc điệu phát ra hoặc dài hoặc ngắn, hoặc trầm hoặc bổng, lúc nhanh lúc chậm, miễn là phô diễn được tình cảm, ý nghĩ một cách thành thực và chân xác.

Kể ra thể buông ấy cũng không mới mẻ gì. Loại từ khúc, nhạc phủ của Trung Hoa, loại ca trù của ta đã dùng nó. Nội dung và hình thức tất nhiên có chỗ khác, nhưng chẳng qua chỉ là tiểu dị. Tuy nhiên những thi sĩ gần đây đã chịu ảnh hưởng của Pháp mà dùng thể ấy, đưa nó lên một địa vị quan trọng, nên tôi sắp vào loại thơ mượn của Pháp.

Bài Mưa và Tiếng thu của Lưu Trọng Lư tôi đã trích trong cuốn Luyện văn là những bài thơ buông khá hay.

b) Thơ tự do

Trong thể tự do, không cần có vần. Tuy nhiên, thi sĩ không phải hoàn toàn là tự do, vẫn phải trọng luật của âm điệu. Hễ nói đến nghệ thuật, phải nghĩ đến qui tắc, đến sự câu thúc, vì “Nghệ thuật phát sinh là do sự câu thúc”. Đến văn xuôi cũng còn có qui tắc, huống hồ là thơ. Tôi tin rằng các nhà thơ tự do còn đương thí nghiệm, dò dẫm, tìm những qui tắc nhất định, và một ngày kia, những qui tắc đó đã kiếm ra rồi thì người ta sẽ phải theo nó như hồi trước và bây giờ người ta theo qui tắc của thể luật. Vì thơ tự do chưa có qui tắc nên làm được một bài thơ tự do là việc rất khó mà hiểu được nó cũng không dễ gì. Người làm phải có tài, có sáng kiến mới thành công; người đọc phải biết thẩm âm mới lãnh hội được cái hay.

Tôi xin trích dẫn dưới đây ít bài thơ tự do được nhiều người khen là khá để bạn thấy nó cũng có nhiều đặc sắc: ý thơ linh hoạt, dồi dào, nhạc điệu mới mẻ, hợp với tình cảm. Nhưng đọc lên cho một người dân quê nghe thì chắc không sao họ nhận được giá trị của nó, họ rất thích điệu lục bát, song thất lục bát hơn.

Sắt đá tình không núng

Những người dựng ngày mai

Hẹn về giữa độ Hoàng hoa

….(kiểm duyệt)…

Lệ rưng ướt mấy đầu xanh

….(kiểm duyệt)…

Con về đây

Thân bé bỏng

Lòng hiên ngang

(Hoàng Tuấn)

Bến đò Sài Gòn

…(kiểm duyệt)…

Anh Hai mấy bữa qua còn đùa cợt đâu đây

Nay đà vắng mặt.

Chị hàng thoáng buồn,

Thầy tướng ngẩn ngơ

Vài tiếng sì sào ướt vì nước mắt,

Rồi nhìn trước nhìn sau,

Im bặt.

(Ninh Huấn)

Tôi không bảo rằng thơ tự do không hợp với Việt Nam, hoặc không bao giờ được hạng bình dân thưởng thức. Nó còn mới mẻ quá, phải để các thi nhân thí nghiệm lâu rồi mới quyết đoán được. Nhưng tôi nghĩ chỉ khi nào tìm được qui tắc cho nó rồi thì mới nói được là thành công vì chỉ tới lúc đó nó mới phổ thông trong quần chúng.

7. CÁCH ĐỌC THƠ

a) Đọc thơ hay ngâm thơ?

Các cụ hồi xưa ưa ngâm nga, gặp đoạn văn nào cũng bình lên lớn tiếng. Sáng dậy uống một chén trà rồi ngâm một bài thơ, đó là phép dưỡng sinh của cổ nhân, cũng như bây giờ ta nhảy khỏi giường, uống một ly nước lạnh rồi thâm hô hấp vậy.

Chúng ta khác các cụ, thường đọc thầm. Các cụ có lý mà chúng ta cũng có lý. Văn thơ hồi xưa đều theo luật bằng trắc; bài nào ngâm không được thì không phải là văn, nên muốn xét văn thì phải bình. Bình là một lối đọc chầm chậm, xuống trầm và ngân dài để vừa thưởng thức nhạc điệu vừa có thì giờ suy nghĩ về ý trong câu.

Chúng ta bây giờ không trọng luật bằng trắc bằng hồi xưa, nên không cần bình mà đọc thầm để dễ chú ý đến tư tưởng của tác giả.

Tuy nhiên tôi tưởng khi đọc những đoạn du dương và hùng hồn, nhất là khi đọc thơ, thì nên đọc lớn tiếng hoặc ngâm nga để thưởng thức hết cái hay của nhạc trong văn.

Một anh bạn bảo tôi ngâm thơ có cái hại là một bài thơ dở, khéo ngâm cũng thành hay; do đó ta khó xét được thơ.

Lời đó sai. Đọc thơ sao lại lẫn lộn ý với nhạc như vậy được? Nhạc du dương tới mấy mà ý sáo, rỗng thì ta vẫn thấy là hạ phẩm đấy chứ? Còn bảo một bài thơ thiếu nhạc mà ngâm lên vẫn êm đềm thì tôi không tin. Một câu thơ mắc lỗi khổ độc chẳng hạn, đố bạn ngâm lên làm sao cho như rót vào tai được.

Chẳng hạn câu này:

Mặc tình thương ghét đem trồng xới,

Sự sống buộc lòng phải lấn chen.

(Cang Trực)

Bạn ngâm lên, có thấy gì không? Có thấy tiếng buộc hơi như nghẹn lại không? Lỗi chính ở tiếng đó. Nó đáng phải bằng mà là trắc, nên khó đọc.

Rồi tới 2 câu này của Đoàn Thị Điểm:

Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi,

Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.

thì khỏi cần phân tích gì cả, cứ ngâm lên cũng thấy câu trên du dương hơn câu dưới. Câu dưới mắc lỗi tiếng thứ 3 và thứ 7 đều bình trầm[32].

Ngâm chẳng những giúp ta dễ biết được lỗi trong nhạc mà còn làm nổi bật chỗ khéo trong nhạc.

Gặp những bài như bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.

Cô Tô thành ngoại Hàn san tự.

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

nếu không ngâm thì làm sao thưởng được hết cái âm điệu tuyệt diệu của nó?

J. Leiba đã mượn từ ý đến nhạc điệu của bài ấy để viết bốn câu sau này:

Thuyền dạo hồ Đông muôn dặm chơi.

Quạ kêu, trăng lặn nước mờ khơi.

Hàn san vẳng tiếng chuông chùa sớm,

Cây bến, đèn ngư não mộng người.

Vậy tôi chủ trương thơ, nhất là thơ Hoa và Việt, không phải để đọc mà để ngâm. Gặp một bài thơ, bao giờ tôi cũng ngâm nó lên một hai lần xem nó có gây cho tôi cảm tưởng gì không rồi mới phân tích ý trong đó. Tôi tìm hiểu nó bằng tai, bằng tim trước rồi bằng óc sau.

Mỗi người có một cách ngâm và mỗi bài thơ cũng có một lối ngâm thích hợp với nó. Lối ngâm bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư tất khác lối ngâm bài Người Mọi già của Tố Hữu. Giọng ngâm bài trên phải trầm trầm, ngân dài ở những tiếng thu, phu, phụ, khô; giọng ngâm bài dưới phải như nghẹn ngào, để tả nỗi uất hận, nỗi phẫn nộ của một kẻ bị cùm xích[33].

Thơ luật chỉ có một vài lối ngâm vì hầu hết nhạc bài nào cũng như nhau, cũng theo một luật bằng trắc nhất định. Đó là một sở đoản của thơ luật, nó làm cho ta lâu ngày hóa chán và phải tìm những nhạc điệu mới.

Tuy cùng một lối ngâm nhưng cũng phải thay đổi giọng cho hợp với ý trong bài: lúc nhấn vào tiếng này, lúc nhấn vào tiếng khác, lúc trầm lúc bổng.

Chẳng hạn hai câu:

Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Thì câu trên như thường, câu dưới nhấn vào 2 tiếng cau mặt.

Trong 2 câu:

Thương nữ bất tri vong quốc hận,

Cách giang do xướng Hậu đình hoa.

của Đỗ Mục, những tiếng phải nhấn là “vong quốc hận”, “do xướng”.

Ngâm những loại thơ khác như lục bát, song thất lục bát cũng vậy. Phải làm cho nổi bật ý chua xót trong câu:

Chữ trinh còn có chút này,

Chẳng cầm cho vững lại vầy cho tan.

(Nguyễn Du)

Ý ảo não trong câu:

Phong trần đến cả sơn khê,

Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

(Nguyễn Gia Thiều)

Ý uất hận trong câu:

Chém cha cái số hoa đào!

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!

Có nhiều cách hiểu một bài thơ thì cũng có nhiều cách ngâm, và cách hiểu đúng nhất là cách của tác giả nên theo lẽ, người ngâm phải chính là tác giả. Nhưng thi sĩ nhiều người có tài mà kém giọng, phải nhờ người khác ngâm hộ. Hồi xưa các cụ nhờ ả đào và gặp ả nào đủ thanh lẫn sắc, lại thông minh, hiểu nổi thơ, hiểu đúng ý của các cụ thì thật là trần gian không còn gì thú hơn; nhất là khi ả đó lại họa được thơ thì quả thật là nhà thơ như mọc cánh mà lên tiên. Một tri âm trong phái đẹp, đủ tài lẫn sắc, bạn thử tưởng tượng! Các cụ mê các cô Hồng, cô Tuyết cũng phải.

Chúng ta không hiểu hết thâm ý của thi nhân thì cũng cứ ngâm càn đi. Ai mà chẳng là thi sĩ? Đúng vậy, thưa bạn. Tôi cũng như bạn, không làm thơ, nhưng chúng ta đều là bạn của Tố Hữu, của Yên Đổ, của Xuân Diệu, của Thế Lữ vì lòng ta cũng một đôi khi “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”[34] và luôn luôn “ham vẻ Đẹp có muôn hình muôn thể”[35]. Vậy thì ta cứ để tâm hồn thi sĩ của ta lồng trong tâm hồn thi sĩ của tác giả, biết đâu chẳng giúp được câu thơ thêm ý nghĩa, thêm màu sắc, thêm linh động?

Người ta bảo “Đọc sách là hai người sáng tác chung”. Đọc sách thì có lẽ chưa đúng hẳn. Đọc thơ mới thật đúng. Tìm hiểu một bài thơ cũng là sáng tác đấy.

b) Xét một bài thơ

Đọc một bài thơ, ngoài nhạc điệu ra, ta phải xét cảnh và tình. Thơ có cảnh mà thiếu tình thì dù đẹp như bức tranh cũng là không hồn, thơ có tình mà thiếu cảnh thì tuy có hồn mà còn vụng.

Thơ của Anh Thơ và Bàng Bá Lân thường kém về tình nên cảm ta không mạnh:

Trời lơ cao vút không buông gió;

Đồng cỏ cào khô cánh lượt hồng.

Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa;

Nhạc ngựa đường xa rắc tiếng đồng.

(Trưa hè – Bàng Bá Lân)

Thực là như vẽ, hơn vẽ nữa, vì đủ cả màu sắc lẫn thanh âm, nhưng đọc xong, lòng tôi không rung động chút nào.

Bốn câu dưới đây quả là một bức tứ bình đối nhau từng cặp một mà chỉ được các nhà nho cho là trung phẩm vì thiếu tình:

Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu,

Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.

Song hàm tây lĩnh thiên thu tuyết,

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền.

(Tuyệt cú – Đỗ Phủ)

Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,

Một hàng nhạn trắng vút trời xanh.

Nghìn năm tuyết núi sông in sắc,

Vạn dặm thuyền Ngô bến rập rình.

(Tản Đà dịch)

Trái lại trong bài Phục sầu cũng của Đỗ Phủ, chỉ có tình mà không có cảnh:

Vạn quốc thượng nhung mã,

Cố viên kim nhược hà?

Tích quy tương thức thiểu,

Tảo dĩ chiến trường đa.

Binh nhung muôn nước nôn nao,

Quê hương biết đã ra sao đó rồi?

Xưa về quen biết mấy ai,

Hay đâu sớm đã hóa nơi chiến trường.

(Trần Trọng Kim dịch)

Thơ của Chế Lan Viên bài nào tình cũng lai láng, mà cảnh thường thiếu:

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu;

Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?

Với tôi tất cả như vô nghĩa,

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Phải đủ tình đủ cảnh thì mới đáng gọi là khéo. Bạn nào không nhớ bài “Vạn lý tình” của Huy Cận:

Người ở trên trời, ta ở đây;

Chờ mong phương nọ, ngóng phương này.

Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,

Vạn lý sầu lên, núi tiếp mây.

Nắng đã xế về bên xứ bạn;

Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy.

Trông vời bốn phía không nguôi nhớ,

Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.

Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt,

Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày.

Chiếu khăn không ấm người nằm một,

Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay.

(Lửa Thiêng)

Bài “Tình xưa” của Quách Tấn cũng vào hạng hay:

Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm,

Trông chừng bến cũ biệt mù tăm…!

Cảm thương chiếc lá bay theo gió,

Riêng nhớ tình xưa ghé lại thăm.

Cảnh thì dễ thấy mà tình có khi khó nhận vì ẩn ở sau lời. Mới đọc ba bài về Thu của Nguyễn Khuyến, ta tưởng như thiếu tình mà kỳ thực cái tình khoáng dật của thi nhân man mác ở trong mỗi câu, mỗi chữ.

Bạn nghĩ sao, chứ riêng tôi, tôi nghĩ tình trong những vần sau này:

Cử đầu vọng minh nguyệt,

Đê đầu tư cố hương.

(Lý Bạch)

Nhân diện bất tri hà xứ khứ,

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

(Thôi Hộ )

mới thật là tình sâu sắc, kín đáo, hoàn toàn Á đông, không bồng bột, nhiệt liệt, ồn ào như tình trong thơ Huy Cận. Tôi không muốn Nàng Thơ lộ liễu quá, tôi chỉ yêu nàng khi nàng e lệ dưới chiếc nón bài thơ hoặc thướt tha dưới ánh trăng mờ.

c) Thơ phải hàm súc

Thơ – mà Văn cũng vậy – muốn tuyệt diệu thì phải hàm súc, phải “ý ngôn tại ngoại”. Tôi muốn đọc xong môt bài thơ rồi, còn có dư ba ở trong lòng, còn liên miên suy nghĩ, tưởng tượng, mơ mộng.

Một bạn tôi ăn xong bánh ngọt, không khi nào chịu uống nước ngay. Hỏi anh, anh đáp: “Các bác sĩ bảo như vậy sâu răng. Sâu thì sâu, uống nước ngay thì hết vị ngọt, thơm ở miệng lưỡi rồi, còn thú gì nữa?”

Thơ cũng như bánh ngọt, phải cho tôi cái dư vị đó tôi mới thích.

Hàm súc là lời ít mà ý nhiều như hai câu này của Xuân Diệu tả nỗi buồn vơ vẩn, vô cớ của thiếu nữ khi thu về:

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói.

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?

Ba tiếng “nghĩ ngợi gì?” làm cho ta bâng khuâng tự hỏi: Tại sao khi thu về thì ai cũng buồn, chứ không riêng gì thiếu nữ? Cái buồn đó ra sao? Ta nhớ những gì khi tựa cửa như vậy? Tưởng tượng những cái gì? Mơ tưởng tới cái gi? Cảnh vật, thời tiết ảnh hưởng tới tâm hồn ta ra sao?...

Chỉ 3 tiếng mà gợi được bao nhiêu ý tưởng, nghĩa của nó thực bát ngát.

Đọc 2 câu của Thôi Hiệu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

(Trời tối quê nhà đâu đó tá?

Khói tuôn sóng vỗ mối sầu gây)

Với hai câu của Bà Huyện Thanh Quan:

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Bạn thích 2 câu trên hay 2 câu dưới? Tôi thích 2 câu trên mà xét kỹ thì ý hai nhà đó như nhau: đều là hoài cổ. Thôi Hiệu hạ chữ sầu, Thanh Quan hạ hai chữ đoạn trường mà lời Thôi Hiệu hóa hàm súc hơn nhiều, vì chữ sầu nghĩa mơ hồ, để ta tưởng tượng, suy nghĩ thêm, không thực thà như hai chữ đoạn trường. “Sử nhân sầu”, sầu ra sao? Ta không biết. Ta muốn cho nó ra sao thì cho. Còn đoạn trường tức là sầu đứt ruột, sầu đến cực độ rồi, không còn tưởng tượng thêm gì được nữa.

Cái mờ mờ, mông lung như mỹ nhân dưới hoa, như cánh buồm trong sương ấy chính là cái đẹp của thơ.

Tả lúc ly biệt một chốn đã ở lâu năm, mà tuyệt nhiên không nói đến bạn bè, thân thích, chỉ hạ hai câu:

Hoàng oanh trụ cửu hồn tương thức,

Dục biệt tần đề tứ ngũ thanh.

(Nhung Dục)

(Ở mãi, oanh vàng quen biết lắm,

Gần đi, hót vội bốn năm thanh)

(Phương Sơn dịch)

thì thực là man mác, làm cho ta đoán được tâm hồn cùng đời sống của thi nhân ở nơi đó.

Thơ Việt thì có lẽ hàm súc nhất là thơ của Hồ Xuân Hương, như 2 câu dưới đây thì ai cũng nhận là tuyệt:

Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?

Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!

d) Đọc thơ bằng tim chứ đừng đọc bằng óc

Những người giỏi toán thường ít thích thơ vì họ xét thơ bằng óc, dùng phép lý luận để phân tích thơ và như vậy không sao hiểu được thơ. Về môn toán, hai với hai là bốn. Trong thơ thì hai với hai có khi lại là năm, là sáu. Thơ không cần chứng minh rằng a cộng với b thành c. Thơ chỉ cần cảm lòng người, cho nên bố cục không quan trọng bằng trong văn xuôi. Đã đành một bài thơ mà phá, thừa, thực, luận, kết đúng phép thì là khéo rồi đấy, song cũng có những bài ý tưởng như rời rạc mà vẫn làm ta say mê như bài Xuân Giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư[36].Có người giảng bài thơ đó mà cố nhân tích ra từng đoạn, từng ý. Tôi tưởng như vậy vô ích. Sao không để cho tâm hồn cảm cái đẹp của trăng, nước, tả trong những vần thơ lóng lánh, du dương ấy? Có những bài càng phân tích càng mất hay:

Ai đi phân tích mùi hương

Hay bản cầm ca….[37]

mà thơ nhiều khi tế nhị hơn cả hương lan, tiếng địch.

Những thi sĩ dùng thể thơ buông, bảo “thi ca không cần hợp lý, rành mạch như trong toán học, vì sự hợp lý ấy chỉ làm tan mất nguồn thơ đang dào dạt trong lòng”. Họ không phải là hoàn toàn vô lý.

8. ĐỌC BÁO

Adrien Bérard, giám đốc tờ Le temps nói: “Một tờ báo viết và in để đọc và quên đi trong 24 giờ”.

Họ đã muốn cho mình quên đi trong 24 giờ thì mình cần đọc kỹ làm gì? Vả lại thì giờ đâu kia chứ? Một tờ báo hàng ngày của ta bằng 30-40 trang giấy khổ tiểu thuyết, một tờ báo của Mỹ thì bằng 200-300 trang, nếu đọc kỹ thì không còn làm được công việc gì khác.

Vì vậy ta phải đọc một cách chớp nhoáng, đọc mỗi hàng vài chữ, mỗi đoạn đọc vài hàng thôi, cho đủ đoán được đại ý trong bài. Người Pháp gọi cách đọc đó là đọc xéo (lire en diagonale). Nếu tập quen thì chỉ đưa mắt trong một phút là đọc được một trang giấy: có khi một giờ đọc được 100 trang. Nhưng cách đó mau mệt và một hai ngày sau không còn nhớ gì cả. Vả lại những bài nghị luận, sưu tầm mà đọc nhanh như vậy thì làm sao hiểu được?

Arnold Bennett, trong cuốn How to live on 24 hours a day chỉ một cách đọc khác. Ông bảo mỗi ngày chỉ nên bỏ ra 20 phút để đọc báo thôi. Trước hết đưa mắt coi qua các “tít” rồi lựa chọn những tin tức nào quan trọng mà đọc hơi kỹ, còn bao nhiêu, bỏ hết.

Nhiều ông bạn tôi ước ao có một tờ nhật báo thông tin nào in 2 trang thôi, không đăng tiểu thuyết cùng những tin ghen tuông, đánh lộn… và mỗi bài phải vắn tắt, câu nào quan trọng thì in chữ lớn. Một báo như vậy dù bán bằng tiền số báo 4 trang hay 6 trang là còn rẻ vì làm cho độc giả đỡ tốn thì giờ quí báu của họ.

Khi đọc một báo ngoại quốc, phải biết nó thuộc cơ quan nào, nhóm nào vì chỉ trừ những tạp chí về kỹ thuật, còn tờ báo nào cũng nhắm mục đích bênh vực quyền lợi của đảng hơn là thông tin một cách vô tư. Tin tức thường bị thêm bớt để biện hộ cho chủ nghĩa của người ta. Vả lại nhà báo dù muốn kiểm soát tin tức xem có đúng không, cũng không được, vì không có thì giờ. Chỉ để trễ lại vài giờ là tin hết nóng hổi, tờ báo mất tiếng, mất độc giả. Cho nên báo nào cũng nhiều khi đưa ra những “tin vịt”.

Tuy nhiên một số ít những bài phóng sự, khảo cứu đăng trên báo có thể dùng làm tài liệu và giúp ta đọc hiểu thêm được.

[26] Sự thực thì ông còm-mi của tôi chẳng suy xét kỹ gì đâu, thấy thiên hạ có kẻ chê thì cũng chê và miệng tuy chê mà vẫn đọc.

[27] Gần đây lại có cả “tiểu thuyết phản tiểu thuyết” nữa, tức là tân tiểu thuyết.

[28] Tiểu thuyết Pháp và Việt còn tính cách nầy nữa là giống một vở kịch cổ điển: truyện thường không bắt đầu từ hồi nhỏ của nhân vật mà từ lúc xảy ra một việc gì quan trọng trong đời nhân vật ấy. Chẳng hạn tiểu thuyết “Nửa chừng xuân” bắt đầu từ lúc Mai và Lộc gặp nhau.

[29] Đó là câu 7 và câu 8 trong bài Thuật hoài của Đặng Dung. Wikipedia chép chữ thứ hai trong câu 7 là thù 讎. Tản Đà dịch là: Đầu bạc giang san thù chửa trả/ Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.

[30] Coi tuần báo “Mới” số 57.

[31] Tôi không xét thể thơ mỗi câu 12 cước vận mà Nguyễn Vỹ đã thử dùng và gọi là thơ Bạch Nga vì thể ấy không hợp với tính cách của Việt Ngữ và thí nghiệm của ông đã thất bại.

[32] Xin coi thêm chương Nhạc trong văn trong cuốn Luyện văn của tác giả.

[33] Sợ nhiều độc giả không có sẵn hai bài đó, nên tôi chép lại dưới đây để các bạn tiện so sánh.

Tiếng thu

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực,

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc,

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?

(Những áng thơ hay)

Người Mọi già

Tôi bỗng thấy lòa lên trong bóng tối

Lửa thù anh với ánh sáng chiều đông,

Đôi vành môi thành một lưỡi dao cong,

Anh mím chặt đôi hàm răng lẩm bẩm:

- Đau cái bụng! Úi chui cha, tức lắm!

Và hồi lâu, bên ngưỡng cửa song tù,

Tôi còn nghe tiếng nói của Châu Ro:

- Đau cái bụng! Úi chui cha, tức lắm!

[34] Xuân Diệu

[35] Thế Lữ

[36] Coi bài dịch rất khéo của Trần Trọng Kim trong cuốn Đường Thi (Tân Việt).

[37] Xuân Diệu