- 2 -
Những vầng sáng của thành phố bên dưới chìm khuất mất tăm lúc phi cơ bay vượt qua trần mây, màu trắng chập chờn như ảo giác dưới trời khuya đầy sao. Tôi nghĩ tới Dấu Chân của Ðấng Tiên Tri trên sa thạch bảo tồn trong bảo tàng viện Harem, đến người thiếu phụ áo chùng đen, đeo mạng niqaah ẳm con thơ bên góc đền, mẹ con ngồi bất động như một bức tượng. Tôi nghĩ đến Sài Gòn chiều nay, những nơi trên đất nước Việt Nam tôi sẽ đi qua trong trong vài tuần tới. Nơi quá khứ, kỷ niệm đang chờ. Là cả dòng đời vui buồn ngó lại.
Sài Gòn, 10 giờ đêm. Cuối cùng chúng tôi đã ra khỏi cửa phi trường với đầy đủ hành lý trên xe đẩy. Ngọc, em trai tôi đang kiên nhẩn chờ đón hai cháu và anh Hai với thẻ sim điện thoại và số lớn tiền đồng tôi đã gởi dolar về trước nhờ đổi. Ngọc gọi nhắn người lái xe mà chú ấy đã hợp đồng giúp cho chuyến đi Miền Tây ngày mai. Sáng mai anh ta sẽ đón chúng tôi ở khách sạn rồi chở thẳng đến chùa Báo Ân nơi thờ bài vị của Ba Me tôi. Các em sẽ có mặt ở chùa chào đón anh, thắp nhang cho cha mẹ và cùng nhau ăn trưa trước khi tiễn anh và vợ chồng đứa cháu xuống Tràm Chim Ðồng Tháp bắt đầu cho 4 ngày tìm chim, du lịch Miền Tây.
Khách sạn ở Bến Thành Tower gần trung tâm Sài Gòn. Nhận phòng xong đã vừa nửa khuya, ba chúng tôi ai cũng đói bụng cồn cào. Phố bắt đầu vắng người, hàng quán ăn uống quanh khu khách sạn đã đóng cửa. Ði loanh quanh hồi lâu, chúng tôi thấy một xe bún, phở trước cửa Tây chợ Bến Thành, lố nhố vài thực khách đang ngồi quanh ăn uống sì sụp. Tôi kéo ghế ngồi xuống một bàn trống. Còn gì cho con dâu tôi ăn không đây cô chủ? Câu nói khiến cả chủ quán lẫn khách thôi nhìn chúng tôi tò mò, miệng cười thân thiện. Bụng đói nên ba tô hủ tíu cuối ngày cũng ngon. Ba cha con còn?cưả một chai bia không nước đá. Ðêm đầu tiên ở Sài Gòn. Ăn hủ tiếu lề đường ngay trước Chợ Bến Thành, uống bia Sài Gòn. Tôi chợt cảm thấy bình yên, bước băng qua khoảng đường trống có lẽ là Công trường Quách Thị Trang trước bảy lăm. Tôi chỉ tay về hướng Ga Hàng Không Air Vietnam cũ, kể chuyện có một lần chiến hạm về nghĩ bến, nhậu với bạn bè tại một quán bar gần đó, uống liên miên qua trận mưa lớn không hay biết, đến khi xong buổi nhậu ra ngoài mới thấy mấy chiếc xe gắn máy bị nước không thoát kịp đẩy nghiêng chỉ còn cái gi-đông xe nhô khỏi vũng nước.
Chúng tôi chậm rải băng qua đại lộ không một bóng xe, đi vào đường Ký Con để về khách sạn ở góc đường.
Qua Trung Lương, vào đường Cao tốc sẽ chạy nhanh hơn. Chắc phải bốn tiếng hơn mới tới Tràm Chim. Anh Sơn, người tài xế cho bốn ngày đi Miền Tây vừa lái xe len luồng qua đoạn đường đầy nghẹt xe gắn máy về phía Xa lộ Ðại Hàn vừa giải thích.
Suốt chặng đường tôi chỉ lờ mờ đoán phương hướng khi thỉnh thoảng đọc được những địa danh cũ, cho đến khi xe vào địa phận tỉnh Ðồng Tháp (Kiến Phong cũ) bắt đầu chạy dọc theo một dòng kinh thẳng tắp. Xe chạy qua một khu khá đông dân cư, tôi chợt xúc động nhìn thấy bên trái là nhà lồng chợ?Trường Xuân?, ngay trước mặt là một ngả tư kinh nhìn rất quen thuộc. Góc phải chênh chếch nhánh kinh nhỏ hơn chảy sâu giữa hai dãy nhà đơn sơ thấp thoáng sau những lùm điên điển. Nhánh kinh thẳng góc bên trái nhà cửa xây cất tươm tất, cửa hàng mua bán khá tấp nập. Một cây cầu hai làn xe bắt qua kinh nhìn còn rất mới. Bờ kè bê tông trước nhà lồng chợ Trường Xuân đẹp mắt giúp sân chợ nhìn rộng rãi quang đản hơn. Chừng mười năm trước, một bạn cùng đơn vị cũ ở Ðồng Tháp Mười có cho hay chợ Phước Xuyên gần căn cứ giang đoàn trước 75 đã đổi tên thành chợ Trường Xuân.
Lòng tôi tràn ngập cảm giác vui sướng của một người đang trở về nơi thân yêu cũ. Bất giác tôi bổng nhớ như in những điều thật cũ. Những lần một mình đi qua cây cầu làm bằng vỉ sắt Công binh kêu cót két theo bước chân, rồi bước dọc theo bờ kinh về tới căn cứ. Chân bước lòng bâng quơ và hình như buồn phiền bay đi ít nhiều theo cơn nắng nhàn nhạt ngây ngây của?châu thổ mang mang trời nước sát, lòng chùng hiu hắt nỗi không tên? (TTY)?
Tôi bảo anh Sơn chạy thêm chừng cây số nữa thì dừng cho tôi xuống xe.
Tôi đứng bồi hồi nhìn quanh, rồi nhắm mắt ngoái nhìn về phía chợ. Một sĩ quan trẻ, quần áo rằn ri sóng biển, P38 lận lưng đang chậm rãi đi từ chợ Phước Xuyên về, dưới dòng kinh một đoàn PBR phóng nhanh nước cuồn cuộn chẻ đôi trắng xóa. Năm mươi năm rồi sao!? Tôi ngậm ngùi nhìn khoảng ruộng dài trước mặt dọc theo bờ trái con lộ, mắt chợt cay. Sông kia rày đã nên đồng. Chổ làm nhà cửa chổ trồng ngô khoai. Vẳng nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình còn tưởng tiến ai gọi đò (TTX)? Có tiếng người từ dưới bờ kinh đi lên. Một người đàn ông khoảng tuổi tôi và thằng bé chừng năm, sáu tuổi tay ì ạch xách con cá lóc to quẩy đuôi loạn xạ. Ông Hai hỏi thăm ai dzậy? Tôi chỉ tay về phía trước mặt. Tôi muốn hỏi thăm mua lại mấy công ruộng đó, anh có biết chủ là ai không vậy? Hợp Tác Xã bán cho Năm Thiệt lâu lắm rồi. Mà thằng chả cở nào cũng không bán lại đâu. Sao vậy? Tôi mua giá cao mà. Người đàn ông nhìn quanh, nói nhỏ. Miếng ruộng này hồi nẳm là căn cứ của lính Giang đoàn. Năm Thiệt hồi đó cũng là lính Giang đoàn, sau 75 ở lại lấy con gái út ông Bảy Chà, mần ruộng từ hồi đó tới giờ, khấm khá lắm! Vậy anh hồi đó có lính tráng gì không? Tui đi Nhân Dân Tự Vệ ngoài chợ Phước Xuyên. Tui là anh ba của con Bé Năm, hồi đó Năm Thiệt với nó bồ bịch nhau dữ lắm, mém làm đám cưới rồi. Người đàn ông có vẽ tiếc rẽ. Tôi ngạc nhiên đến thảng thốt. ThằngThiệt! Người lính trẻ nhất đơn vị, bắt chước để râu mép cho giống Ông Thầy. Mỗi lần Chỉ huy trưởng (Nhạc sĩ Trường Sa) xuống khu giang đỉnh là hắn lủi trốn sợ bắt phải cạo mười mấy sợi lông mép. Bé Năm có dạo bán căng-tin trong Căn Cứ. Tôi cười, gật gật đầu nheo mắt nhìn người đàn ông. Chớ không phải vì Bé Năm đã có chồng là du kích trốn vô bưng nên mới rã đám với thằng Thiệt sao? Người đàn ông lộ vẽ lúng túng nhưng như chợt nhớ ra điều gì, ông ta nhìn tôi thật chăm chú. Vậy có phải Ông Hai hồi trước cũng? Tôi gật đầu. Người đàn ông cố gắng moi trí nhớ mình? Thiếu úy Chinh, trung úy Bé thì đen. Ông Cần thì cao, ông Lương cũng đen? Có phải Ông Hai có lần bị thương ở Khu 6? Tôi xúc động gật đầu. Tôi đã tìm ra quá khứ mình ở vùng đất thấp xa xôi này. Người đàn ông cầm tay tôi, môi run giọng nói. Trung úy Ái phải không? Ông về thăm chiến trường xưa sao? Chỉ là thửa ruộng hiền hòa thôi, tôi trả lời. Tôi muốn ghé thăm, thắp nhang thiếu úy Trí. Người đàn ông kéo tay tôi qua bên kia đường, phía gần bờ kinh. Ngay đây nè. Cô giáo Hà mấy năm sau tái giá, dọn ra Cao Lãnh, thỉnh thoảng có về thắp nhang. Mấy năm trước chính quyền làm đường Tỉnh lộ 844 này, cô Hà về giúp tôi với Năm Thiệt sửa sang và dời miếu xa đường một chút. Cái trang thờ nhỏ bé, cũ kỹ sau bao năm vẫn tồn tại với thời gian, với quá khứ kỷ niệm như con người chúng ta vẫn tranh đấu, sống còn qua cuộc bể dâu. Mùi nhang thơm phảng phất trong gió chiều châu thổ. Tôi vuốt mái tóc khét nắng của thằng bé, mỉm cười nhìn ông. Cháu cố của tui năm tuổi rồi đó! Cha mẹ nó đi làm ở Bình Dương, lâu lâu mới về. Tôi tặng người đàn ông một ít tiền, nhờ mua quà bù 5 sinh nhật cho cháu và để Ông Cố uống cà phê. Tôi đưa thêm tiền,vỗ vai ông dặn dò nhờ sửa sang quét dọn miếu thờ của Trí. Hắn nằm lại bên bờ kinh này hơn 50 năm rồi.
Vợ chồng Hải-Ðăng và Roya đang đi tản bộ khá xa phía trước, như thường lệ mắt để trên cây,?vừa đi vừa ngước nhìn?.
Anh Sơn chuẩn bị dừng một nơi nữa khoảng bốn cây số phía trước, hi vọng còn thấy một ngôi trường học phía bên trái con lộ, thấy nó anh bắt đầu chạy chậm lại là vừa. Tôi nói với người tài xế lúc ngoái nhìn về phía miếu thờ như muốn thổ lộ với chính mình. Tôi muốn tìm lại chiến
trường nơi tôi trúng đạn suýt phải vĩnh viễn nằm lại bên bờ kinh Ðồng Tiến như người bạn chiến đấu ít nói của mình.
Roya khẻ khàng vổ vai tôi lúc Hải-Ðang hỏi han. Yoủre OK Papi!? Tôi im lặng gật đầu nhìn dòng kinh phẳng lặng, không muốn bị lay ra khỏi cơn mơ dài đang trôi ngược vào kỷ niệm váng vất cảnh sắc hổn độn, ấp úng không thành tiếng? Tất cả bắt đầu từ một ngày bình thường trong chiến tranh. Dòng kinh quen. Ngôi trường. Quán cà phê nhỏ. Nhà lồng chợ Khu 6 tồi tàn. Cánh đồng lúa vừa chín tới. Những người nông dân lo lắng bỏ ruộng về nhà vì chiến trận hiện hình. Ðoàn giang đỉnh phơi mình dọc theo bờ kinh. Cánh rừng tràm nằm đen đúa im lìm như một chân trời vây khốn, rình rập đe dọa. Vài chiếc trực thăng chao đảo trong bầu trời không mây xanh ngắt như bầy cá óc nóc quẫy đuôi trong chiếc thau nhựa xanh. Những tràng súng liên thanh từ hai phía réo tràn trong không gian. Làn đạn vô tình xé gió, gặp nhau đâu đó trên trên nóc cánh đồng làm run rẩy màu vàng rộm của từng nhánh lúa vô tội. Viên đạn lẻ cắm sâu vào thân thể. Chút âm thanh sắt gọn lao đến bất chợt như một điều không dám nghĩ. Những hơi thuốc Pallmall không giảm được cơn đau, hơi thở hụt dần vì máu đổ bên trong làm căng ngạt thân thể. Ðôi mắt ríu lại. Tiếng cánh quạt trực thăng chập chùng chao đổ. Vầng sáng trắng dịu mơ hồ, lao đao biên ngưỡng sống chết vô nguồn?Màu đen phủ chụp tràn lấp thinh không. Bóng tối. Phòng hồi sinh trắng sáng, im lặng. Khu điều dưỡng. Những người thương binh mới trong cuộc chiến. Bà chị, người mẹ nhẫn nại thương em, thương con từ thuở bế bồng vẫn cũ kỹ ấm lòng như điển tích dịu dàng. Cô y tá hiền hậu, mặc cảm vì khuôn mặt quá xấu trùm kín trong bộ đồ lính bốn túi thùng thình che dấu vóc dáng đẹp đầy lôi cuốn của mình. Bầy con gái thành phố áo màu và nỗi buồn hậu phương thời thượng. Mái tóc dài theo đợi chờ bên giàn bông giấy rực màu hoa đỏ trước sân nhà bên kia con dốc thành phố mặn gió. Khoảng trời xanh bên ngoài khung cửa lá sách trên vách cao ngày xuất viện. Khuôn mặt gầy xanh, cánh tay khẳng khiu, phần còn lại của đôi chân không còn của những thương binh còn nằm lại. Vụng về nói lời chào ra đi, ở lại mà lòng buồn muốn khóc?
Xóm chợ Khu 6 khá tập nập không điêu tàn như thời chiến tranh 50 năm trước. Chúng tôi rời quán cà phê võng Mỹ Hạnh gần chợ. Xe chạy hết hai mươi cây số cuối về tới Wildbird Hotel gần cổng vào của Vườn Quốc gia Tràm Chim lúc trời còn nắng rát da.
Nhận phòng, gột rửa bụi đường xong tôi theo vợ chồng Hải-Ðăng đi thăm ngay chủ nhân biết bay của hơn 7.6 ngàn héc ta đất trũng ngập nước giữa Ðồng Tháp Mười này, hi vọng các chủ?hiếm quý? có nhà. Ðoạn bờ mẫu dài gần nửa cây số dọc theo phần cuối của con kinh trước khi đến bến đò nơi du khách lên xuống là khu rừng tràm nho nhỏ lẫn sen súng, nơi đây chim chóc tụ tập khá nhiều vào sáng sớm hay chạng vạng chiều. Tôi mãi nhìn những con cò, vạc trắng hay xám rón rén bước qua bãi lá sen già khô, tua tủa năng đước qua ống kính quên cả bấm máy.
Tối đó chúng tôi ăn ngoài phố. Tràm Chim là một thị trấn du lịch nhỏ, hàng quán khá nhiều nhưng không có gì đặc biệt, chỉ là không tệ. Tuy thế ly mảng cầu xiêm dầm không đường, không sữa, không đá của tôi thì tuyệt. Sau khi khám phá ra nhà hàng Cơm niêu Senta (chắc là từ Sen Tả) của khách sạn, chúng tôi đã?trụ? tại đó cho các bữa ăn của mình, có lẽ do sau các buổi?săn? chim mệt quá không muốn đi đâu chăng?
Sáng sớm hôm sau chúng tôi được người hướng dẫn về chim của khách sạn đưa đi thăm một vòng lớn 12km bằng tắc-ráng. Tuy đã qua mùa không còn nhiều hoa nở nhưng chứng kiến nét đẹp thuần khiết của sen trắng, sen hồng, bông súng, lúa trời, năng, lác? và tìm thấy các loài chim, đậu trên cành cây hay lững lờ trên mặt nước với nào là vạc, cò, le le, trích, diệc, vịt trời, cồng cộc mới cảm nhận được hết vẻ đẹp mà thiên nhiên đã hào phóng ban cho.
Bữa ăn trưa trễ, kéo dài do các đoàn nhóm từ Sài Gòn lần lượt xuống đến, cả các giáo sư từ Mỹ qua và nhóm phóng viên của đài truyền hình khu vực nhân dịp gặp gỡ này.
Sau khi Hải-Ðăng giới thiệu bố với mọi người, tôi vắn tắt câu chào hân hạnh rồi?chuồn? ra ngoài đi thơ thẩn trong khu rừng cạnh khách sạn.
Buổi chiều, hội họp nghĩ ngơi xong mọi người lỉnh kỉnh ống dòm, máy hình, máy quay phim lục tục xuống hai chiếc xuồng lớn có mái che, hăng hái nói cười hứa hẹn cho một buổi săn chim thành công. Rời bến vừa hơn cây số, có người may mắn bấm máy được một, hai lần chưa ăn ý lắm thì cơn giông bất ngờ ập đến. Chúng tôi cố gắng cầm cự được một lúc nhưng ai nấy đều ướt như chuột nên đành phải đành tiu nghỉu quay về. Cơn giông kéo dài khá lâu.
Nhà hàng Senta lại tíu tít bận rộn. Sau bửa ăn tối, tôi và cô con dâu về sớm, còn lại một nhóm thanh niên và không còn thanh niên nhưng tâm hồn vẫn trẻ ở lại với bia Sài Gòn và đặc sản Ðồng Tháp.
Hôm sau chúng tôi lại thức sớm theo người hướng dẫn cũ đi tìm chim bằng đường bộ. Ðó là một khu xóm thưa nhà nhưng cây cối rậm rạp nằm trong địa phận của Vườn Quốc Gia Tràm Chim, cách khách sạn chừng 2 km. Ðang là buổi sáng sớm trời chưa nắng nóng nên chuyến đi khá thoải mái. Chúng tôi tìm thấy khoảng 17, 18 loài chim.
Cả hai ngày ở Tràm Chim, Hải-Ðăng rất hài lòng đã ghi chú vào sổ khoảng 50 loài chim khác nhau.
Rời Wildbird Hotel với chút lòng bâng khuâng, chúng tôi chạy vào Cao Lãnh để qua Sa Ðéc. Không còn dấu vết gì để giúp nhìn ra thành phố Cao Lãnh quá nhỏ bé và bất an xưa. Tôi còn nhớ suốt thời gian công tác vào đầu năm 73, đậu tàu ở Bến Ðá, tôi chỉ biết con đường nắng chang trước Tòa Tỉnh và quán cà phê duy nhất cạnh Sân vận động. Cũng may, không biết giang đỉnh nào đó đi kiếm ăn đã khám phá ra cù lao Mỹ Hiệp, cái ốc đảo xanh tươi giữa lòng Sông Hậu.
Xe đi ngang qua Làng Hoa Sa Ðéc, Tết Nguyên Ðán đã qua từ lâu nên Làng Hoa cũng mất đi sắc màu rực rỡ của nó. Người tài xế đang tìm đường đi đến ngôi nhà trong phim?The Lover?. Lái quanh co mãi rồi chúng tôi cũng tìm đến được ngôi nhà nhìn ra Sông Hậu, tọa lạc sát bên khu chợ tấp nập.
Trái ngược với cảnh náo động chợ búa bên ngoài, ngôi nhà thật yên tỉnh sau cổng vào và sân gạch rộng rêu phong. Nhà được hoàn thành vào năm 1917, có kiến trúc hổn hợp Pháp thời Trung Hưng và Trung Hoa truyền thống với rồng chim, mai lan cúc trúc, mái lợp ngói âm dương.
Chi tiết trang trí công phu mà cảm giác tăm tối cô đơn của ngôi nhà như là biểu tượng cho niềm đam mê đã mất và lớn hơn nữa là sự tàn lụi của chế độ thực dân Pháp mở ra cánh cửa nhìn vào lịch sử rối rắm, u mê của đất nước.
Nhà văn nữ người Pháp Marguerite Duras sống ở Sa Ðéc từ 1928 đến 1932 với mẹ là hiệu trưởng một trường học ở đó. Tại đây, cô nàng Duras 15 tuổi đã gặp Huỳnh Thủy Lê, 27 tuổi, con trai một hào gia người Hoa. Mối tình đổ vỡ chết non là nguồn cơn cho cuốn tiểu thuyết best seller, đoạt giải Prix Goncourt năm 1984 của Duras. Người Tình (The Lover) đã được dịch ra 43 thứ tiếng và bán được hơn 2,4 triệu bản.
Tôi đứng bên bờ sông Hậu nước cuồn cuộn chảy nghĩ tới nỗi đam mê vũ lộng càn khôn của Marguerite Duras 15 tuổi khi yêu, nó cũng cuồn cuộn như?những dòng sông chảy như thể trái đất dốc xuống?.
Ðiểm tới kế tiếp của chúng tôi là Vườn Cò Bằng Lăng trước khi về nghĩ qua đêm tại Cần Thơ để sáng sớm hôm sau thăm Chợ Nổi Cái Răng.
Qua khỏi Long Xuyên đi vào địa phận Cần Thơ, chừng 15km đến Ô Môn, Thốt Nốt thì rẽ vào cầu Bằng Lăng để tới Vườn Cò. Con đường nhỏ, ngoằn ngoèo, ngồi cạnh tài xế mà tôi cũng lên ruột theo. Xe chạy tầm 2km, chúng tôi đều thở phào đã đi đúng chổ vì tiếng cò,vạc như một ban
hòa nhạc Tây Nguyên rôn rã chiên cồng. Trả tiền vé mỗi người 20 ngàn đồng, chúng tôi trèo lên đài quan sát, lòng khích động không nguôi vì cả ngàn cò trắng bay lượn quanh mình.
Trong suốt gần một giờ, chúng tôi mê man đứng trên đài quan sát nhìn nhiều loài chim cò khác nhau nổi bật trong nền xanh của tre, trúc và cây bằng lăng điểm bông tím.
Theo?quảng cáỏ, vườn cò Bằng Lăng hội tụ cả vài trăm ngàn con cò với khoảng 20 chủng loại khác nhau, đặc biệt là cò ráng với lông màu đỏ khá bắt mắt. Chiều nay tôi chỉ thấy loạn một màu trắng và đếm không xuể.
Tời đã chiều, tôi có cảm giác cò bay về tổ mỗi lúc càng nhiều nhưng nhìn thấy một nhóm du khách vừa đến nên chúng tôi đành tiếc rẽ leo xuống đất nhường đài quan sát cho họ. Tôi nhìn quanh, lắc đầu thở dài khi nhìn thấy quán tranh nhỏ ở góc vườn với tấm bảng nhỏ viết nguệc ngoạc bằng phấn trắng. Quán nhậu - Cò khìa nước dừa. Khách trong quán có lẽ là một đôi tình nhân (?) ăn mặc khá chỉnh tề. Cô gái mặc áo dài trắng, ngồi quay lưng dấu mặt. Tôi buồn cười, thầm nghĩ biết đâu anh chàng đưa nàng đến để nàng lên dáng cùng bầy cò trên kia làm một?chùm? ảnh nhớ đời, may ra anh có dịp nói chuyện giăng ca con cò bay bổng qua sông, hỏi thăm em bậu có chồng hay chưa, có chồng năm ngoái, năm xưa, năm nay chồng để nên chưa có chồng.
Lúc ra xe, nhóm bốn người có bà thâu tiền vé vẫn chăm chú xòe tứ sắc.
Hải-Ðăng có lẽ còn nghi ngờ khả năng tiếng Việt của mình, hỏi tôi có phải cái bảng gổ viết vậy không?
Tây Ðô! Về tới khách sạn ở gần Bến Ninh Kiều Cần Thơ lúc Phố Ði Bộ vừa lên đèn LED chớp tắt rộn ràng. Lười về khách sạn lấy xe, lại lo khi trở về sẽ mất chổ đậu nên sau khi rảo xong vòng phố chúng tôi vào một tiệm mì người Hoa. Tôi cần một giấc ngủ hơn. Cô gái?chạỷ vé thăm Chợ Nổi qua trung gian khách sạn đã dặn tới dặn lui sẽ chờ chúng tôi trước khách sạn lúc 4:30 sáng.
Ðúng thật! Trước 5 giờ sáng cô đã dắt hai, ba nhóm khách của cô bương bả xuống bến tàu. Tôi?thuê bao chuyến? nên ba bố con nhanh chóng xuống ghe thẳng tiến về Chợ Nổi sau khi khoác áo phao lên người theo quy định.
Chiếc tắc ráng có mái che, máy ghe nổ dòn dục dã. Từ Bến Ninh Kiều tới chợ Cái Răng hết 30 phút, người chạy tắc ráng nói nghe tiếng mất tiếng còn vì âm thành hổn độn, hào hứng của cuộc đua ghe đang diễn ra. Ðoàn ghe chui qua cầu với bảng chử lớn?Chợ Nổi Cái Răng? dựng chắc chắn trên thành cầu là đích cuối, thắng hay thua chúng cùng tỏa ra trong lúc bầy ghe đang đợi thơm mùi phở, mì, hủ tíu, kẹo bánh, trái câỷ nhanh chóng lao tới, nhập vào, rồi ôm choàng nhau đồng điệu. Tất cả đều diễn ra trong làn sương sớm của bình minh vừa ló dạng trên sông.
Tôi ân cần nhìn Hải-Ðăng, Roya lạ lẫm nhìn mãi cảnh sinh hoạt lạ mắt của chợ nổi, của người và thuyền quần tụ, tỏa ra, dạt trôi êm đềm theo sóng nước. Lòng tôi cũng nôn nao với cảm giác quây quần, đổi trao đằm thắm.
Chiếc ghe bán thức ăn sáng chèo cập sát vào tàu. Có lẽ cảm giác e dè lúc đầu đã tan biến trong cảnh rộn rịp người mua kẻ bán, vợ chồng Hải-Ðăng gọi bún phở và cà phê cho cả ba rồi ăn húp xì xụp, ngon lành. Giữa màu sắc rực rở tươi tắn của bầy xuồng ghe nhấp nhô theo sóng nước và tiếng nói, tiếng cười giữa con người bình dị, chân thành tất cả đều trở thành cao lương mỹ vị. Tôi níu tay người bán trái cây, kéo xuồng chị ta lại gần để nhận bịch dâu lớn vừa mua. Tiếng mạn đò chạm nhau, lòng bàn tay chai tần tảo, khuôn mặt rám nắng, ánh mắt cười sâu dưới chiếc khăn rằng quấn đầu, tiếng nói cười, sông nước?tất cả quyện lại thành nỗi vui nao nao dịu dàng.
Người lái tắc ráng tấp ghe mình cặp vào chiếc xà lan được dùng làm nơi bán đủ các loại kẹo bánh dừa đặc sản, mỹ phẩm chế biến từ dừa và quà lưu niệm. Có cả chổ trình bày từng bước cho du khách xem các thao tác sản xuất kẹo dừa để mua tại chổ.
Tôi bước rời khỏi đám đông du khách đang ồn ào mua sắm vì không muốn nghe những câu chửi bới tục tỉu, lớn tiếng như chổ không người với chất giọng khó nghe từ một nhóm người ăn mặc kịch cởm, quê mùa. Nhìn ghe xuồng vẫn chèo chống rập rờn kín cả một vùng sông rộng, ánh nước quẩy long lanh dưới ánh mặt trời vừa lên, lòng tôi nhanh chóng bình thản trở lại.
Sự mua bán đổi trao bình dị, chân thành trên mặt nước dập dềnh là sự pha trộn dung dị mà lãng mạng của con người với gió trăng sông nước. Cuộc sống thương hồ bồng bềnh vương vấn quá và từ đâu đó trong tiềm thức luôn là nỗi vọng nhớ về một vùng châu thổ xa vời.
Chỉ mới sau 7 giờ sáng. Chúng tôi lẳng lặng về lại khách sạn với tâm trạng người đi chơi quá khuya lén về nhà không muốn cho ai biết. Nằm nghỉ một lát, tôi nhớ ra khách sạn có điểm tâm, tôi cần ăn chút chi đó để uống mấy viên thuốc buổi sáng. Tôi ngạc nhiên khám phá ra điểm tâm buffet ở đây nhìn phẩm chất cao và có nhiều món để chọn, Tây Ta đều có. Vừa lúc đó tôi lại nghe âm thanh?quen thuộc? ở Chợ Nổi từ hàng lấy thức ăn. Cô gái phục vụ có lẽ đã quen với tình huống này, im lặng đi nơi khác. Tôi thán phục nhìn cô gái. (Năm) mươi năm Hà Ðông. (Năm) mươi năm Hà TâỷThôi thì. Thì thôỉ Tôi lấy cho mình chén bánh canh, ít trái cây và ly cà phê cùng chai nước uống thuốc. Cà phê ngon. Một lát sau vợ chồng Hải-Ðăng cũng xuống tới. Như tôi, hai đứa khá ngạc nhiên.
Lúc cô phục vụ đến châm cà phê, tôi hỏi chuyện lúc nãy. Cô nhìn về phía đám người ở cuối phòng, nói nhỏ, bà ta lấy cả đĩa sausage không để lại trong khay bao nhiêu, cháu can thì họ lớn tiếng. À, ra là vậỷ
Chúng tôi đi dạo một vòng qua Cầu Ði Bộ Ninh Kiều ôm theo sông Cần Thơ ra đến bờ Sông Hậu. Sông nước mênh mông khiến lòng tưởng nhớ tới bóng dáng những chuyến phà qua Bắc Mỹ Thuận một thời xưa. Bên kia sông là Long Hồ, là chợ Trường An biết bao kỷ niệm.
Mấy mươi năm dâu biển, năm tháng trôi qua, xã hội tiến bộ dường bao, mà sao biết bao cảnh đời vẫn khổ đến điếng lòng. Con gái nghèo không chỉ bỏ quê lên Sài Gòn móng đỏ, áo màu kiếm tiền như ngày xưa mà còn đi xa lắm, đi cùng khắp bán vốn trời cho để sống. Thôi thì dẫu có miên man, lòng cũng đành trở về với thực tại mà xuống xề câu Tuyệt Tình Ca?Tôi đứng đây mà ngỡ như đứng bên bờ sông Mỹ Thuận?Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn. Con nước lớn lục bình trôi rời rạc. Chiều đã xuống mặt trường giang bát ngát mà bóng người thương lẩn khuất giữa sông?đầỷ
Rời Bến Ninh Kiều về Sài Gòn qua ngã Vĩnh Long, chúng tôi dự định sẽ thăm viếng thành phố Mỹ Tho trước khi kết thúc chuyến đi Miền Tây.
Qua cầu Cần Thơ bắt đầu vào địa phận Vĩnh Long, tài xế Sơn tìm theo địa chỉ một quán ngon do người bạn anh giới thiệu để ăn trưa. Nhà hàng Hải Liên nước bao quanh, cạnh đó là Cà Phê Mé Sông, thức ăn có món ngon, món không ngon lắm. Ðang ăn thì trời mưa nên kéo dài, ăn hoài no bụng. Chúng tôi cùng anh Sơn, Google tìm địa chỉ Vườn Cò Hai Chìa ở xã Tân Mỹ, Huyện Trà Ôn, Vĩnh Long.
Sau chừng 6, 7 lần hỏi đường cuối cùng chúng tôi đã tìm tới nơi. Tuyệt vời một điều là ở xã Tân Mỹ, hỏi Vườn Cò Hai Chìa ở đâu ai cũng biết và chỉ dẫn cặn kẻ, nhưng vì đường quanh co khó đi nên phải hỏi nhiều lần.
Chúng tôi may mắn vì bất ngờ tìm đến mà ông Hai Chìa có ở nhà. Ông đón chúng tôi rất niềm nở, hái dừa chặt cho 4 chúng tôi giải khát, rồi kể chuyện nhà, chuyện cò chí nghĩa chí tình. Tôi đùa hỏi nhỏ ông. Anh có tới 2 cái chìa vậy anh có được mấy ổ khóa. Hai Chìa cười đôn hậu, răng sún cái còn cái mất. Bã đi năm ngoái rồi, bệnh ngặt ngèo cả mấy năm.
Khác với vườn cò Bằng Lăng Cần Thơ nhìn chim từ đài quan sát, ở đây chúng tôi có thể di chuyển thoải mái trên mặt đất lúc quan sát cả ngàn con chim, cò bay lượn hay đậu trên cây.
Miếng đất vườn nhà ông gần 2 héc ta, trước đây trồng, nhản, măng cụt, dâủ lợi tức rất khá. Chuyện bắt đầu từ năm 2006 có một đàn chim vạc vài chục con đến cư trú, rồi chúng cùng các loài chim khác cũng lũ lượt theo nhau kéo về. Vì thương chim, nên ông bà quyết định để môi trường phát triển tự nhiên không canh tác để dể dàng cho chúng sống và sinh sôi.
Ðặc biệt, cuối năm 2018 cò nhạn (cò ốc) là loài chim trong danh sách chim quý hiếm cũng chọn vườn nhà ông cư trú.
Ðến năm 2020, số lượng chim, cò về đông nhất, 20 loài với khoảng 6000? 8,000 con.
Những năm qua tệ nạn săn bắt ngày càng tệ hại, ông phải một mình ngăn chận rất vất vả.
Chúng tôi bịn rịn chào từ giã ông Hai Chìa. Hải-Ðăng tặng ông một số tiền để ông tùy nghi.
Chúng tôi uống cà phê, nghỉ chân ở Mỹ Tho rồi về tới Sài Gòn giữa cơn mưa lớn.