- IV - Tổng quát về Tự Lực Văn Đoàn I. Bối cảnh lịch sử-A. Chính trị
Trên đây chúng ta đã xét tổng quát hoàn cảnh lịch sử của dân tộc nhà suốt khoảng đầu thế kỷ thứ XX. Nay chỉ cần nhắc lại mấy việc chính xác với thời Tự Lực Văn Đoàn.
Từ năm 1926 trở đi Việt Nam Quốc Dân Đảng bành trướng mạnh. Thực dân khủng bố ráo riết. Ngày 10-2-1930 vì tiến thoái lưỡng nan, Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa một cách miễn cưỡng “Không thành thân thì thanh nhân!” (Lời tuyên bố trước khi quyết định khởi nghĩa của lãnh tụ Nguyễn Thái Học). Ngày 17-6-1930 Nguyễn Thái Học cùng với mười hai đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Bái.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1930-1935 làm phá sản tiểu thương. Đồng thời sự giảm bớt công chức đã được nêu lên thành vấn đề với danh từ “trí thức thất nghiệp”.
Văn hóaTrên đây chúng ta đã nói đến công của hai ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh trong công cuộc xây dựng nền văn học chữ Quốc ngữ của nước nhà; song một mặt khác ta cũng không nên quên hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong Tạp chí do thực dân đỡ đầu với thâm ý dùng văn hóa để chống lại văn hóa (chống lại ảnh hưởng rất mực quan trọng của Đông Kinh Nghĩa Thục). Ngay số đầu Đông Dương Tạp chí có bài xã luận mạt sát những bậc lão thành cách mạng nặng lòng dân tộc như cụ Phan Bội Châu. Nam Phong tiếp nối Đông Đương Tạp chí, phổ biến Văn hóa Pháp, ve vãn dân chúng bằng cách cũng đề ra một hướng tiến bộ nhưng là một thứ tiến bộ cầm chân, mệnh danh là “hướng tiến bộ trung dung” lấy những tư tưởng phong kiến làm nòng cốt để che đậy dã tâm của họ.
Để chống lại liều thuốc ngủ “Pháp Việt đề huề” này, cụ Phan Sào Nam đã cho phổ biến những câu thơ như:
Nó coi mình như trâu, như chó,
Nó coi mình như cỏ, như rơm.
hay:
Ngày mong mỏi vài con ấm tử Đêm vui chơi một lũ hầu non.
Trang hoàng gác tía lầu son,
Đã hao mạch nước lại mòn xương dân [1]
Sự thực chủ trương ru ngủ của hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong có làm mờ nhạt đi khá nhiều ảnh hưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục với “Tuyết Hồng Lệ Sử” dịch của Từ Trẩm Á, với giọng văn sướt mướt khóc chồng của Nữ sĩ Tương Phố (viết năm 1923).
Trời thu thảm đạm một mầu,
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em.
Trăng thu bóng ngả bên thềm,
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng.
Với giọng văn khóc vợ bi thiết không kém của ông Đông Hồ:
Cảnh năm trước vẫn là năm trước
Tình năm xưa đã khác năm xưa
Này trăng này núi này hồ
Mà người cùng ngắm bây giờ là đâu?
Sau cùng, cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cả một liều thuốc độc làm lụn bại hết chí tiến thủ của thanh niên ta, khiến họ coi việc đâu khổ vì tình, chết vì tình, cao quý không kém gì cái chết vì nước, vì đạo.
Chính sách của thực dân khôn ngoan thật, thâm độc thật nhưng các nho sĩ của ta đã lợi dụng ngay Nam Phong để tương kế tựu kế cổ động kín đáo cho tinh thần yêu nước (Nguyễn Bá Học, Dương Bá Trạc, Sở Cuồng, Lê Dư...) Kể từ năm 1919 trở đi các trường cao đẳng về Luật, về Thuốc, về Sư phạm đã mở để đào tạo tại chỗ những cán bộ cần thiết cho guồng máy thống trị thực dân. Nhưng có mấy nhà tri thức cam tâm làm tôi đòi cho thực dân và quên hẳn giống nòi? Chính ở những trường trên thực dân đã đào tạo nên những Nguyễn Thái Học, Ký Con.
I. Sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn
Lý do thúc đẩy bên trongTrước tình trạng lụn bại của công cuộc cách mạng võ trang trước, cái tệ những tham quan ô lại, trước thái độ vị kỷ ươn hèn của một số người tân học lấy vợ đẹp, nhà lấu, ô tô làm lẽ sống duy nhất; và nhất là trước cảnh nghèo đói, dốt nát quá bi thảm của dân quê, một nhóm thanh niên thấm nhuần văn hóa Tây phương đã ý thức được vai trò lịch sử của mình, đứng ra thành lập Tự Lực Văn Đoàn năm 1932.
Điều kiện thuận tiện bên ngoàiMấy năm trước đây khi Toàn quyền Robin đã cho ném bom triệt hạ làng Cổ Am vì tưởng Nguyễn Thái Học trốn ở đấy.[2] Tới năm 1930 thì Việt Nam Quốc Dân Đảng hoàn toàn tan vỡ, mười ba liệt sĩ lên đoạn đầu đài tại Yên Bái. Các phóng viên Pháp được chứng kiến cảnh đó, khi trở về mẫu quốc cũng phải tuyên bố rằng không ngờ đồng bào họ ở hải ngoại đã sa đọa đến thế. Còn lòng người dân Việt thì khỏi phải nói, từ thành thị đến thôn quê không khí căm uất như dầu dội lửa đỏ.
Để mở nắp “sì hơi an toàn”, Robin nới rộng quyền tự do báo chí, đề cao tư tưởng xã hội. Khi đó chi nhánh đảng Xã hội (SFIO) bên này có tờ Le petit populaire làm cơ quan tranh đấu. Chính vào dịp cởi mở đó, Tự Lực Văn Đoàn mới có được hoàn cảnh thuận tiện mà xuất đầu lộ diện.
Thành phần Tự Lực Văn ĐoànThành phần nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn gồm các nhà văn, thơ sau đây: Nhất Linh (Nguyên Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Thế Lữ (Nguyên Thứ Lê), Tứ Ly hay Hoàng Đạo (Nguyên Tường Long), Thạch Lam (Nguyên Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), với sự cộng tác của nhiều văn nghệ sĩ khác như về họa có Tô Ngọc Vân, Nguyên Gia Trí, Nguyên Cát Tường; về nhạc có Nguyên Xuân Khoát; về kịch có Vi Huyền Đắc, Đoàn Phu Tứ; về phóng sự có Trọng Lang; về tiểu thuyết có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Bùi Hiển, về thơ có Đỗ Huy Nhiệm, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông...
Nội dung của hai tờ báo Phong Hóa và Ngày NayNội dung tờ Phong Hóa (1932-1937) cũng như tờ Ngày Nay (1935-1941) đại để gồm bốn phần như sau:
Phần xã luận Phần tiểu thuyết Phần trào phúc Phần trông tìm (Khoa học thường thức) Chủ trương Tự Lực Văn ĐoànChủ trương của Tự Lực Văn Đoàn gồm hai phần: đả phá và xây dựng
Phần đả phá Về chính trịTự Lực Văn Đoàn đả phá chính sách “chia để trị” của thực dân (Sự phân chia nước Việt Nam thành ba kỳ, việc chấn hưng Phật giáo, không vì Phật giáo mà cốt để gây tinh thần chia rẽ giữa người Việt theo Phật giáo với người Việt theo Công giáo); đả kích chính sách trụy lạc hóa thanh niên (chợ phiên cứu dân bị lụt để sa đọa thanh niên), phản đối sự thi hành lại hòa ước 1884, nghĩa là sự tái lập nha kinh lược Bắc kỳ; phản đối sợ tạo lập những Bộ không làm gì hết (riễu Bộ Kinh tế của Nguyễn Khoa Kỳ là giết hàng năm 9.000 ve sầu và 3.000 sầu đất); đả kích sự hống hác của tụi quan lại, kỳ hào; đả kích những ông dân biểu tư vấn thuộc loại “nghị gật” hoặc thuộc loại tay sai của thực dân “Chánh phủ biểu”.
1. Trên đây chúng ta đã xét tổng quát hoàn cảnh lịch sử của dân tộc nhà suốt khoảng đầu thế kỷ thứ XX. Nay chỉ cần nhắc lại mấy việc chính xác với thời Tự Lực Văn Đoàn.
Từ năm 1926 trở đi Việt Nam Quốc Dân Đảng bành trướng mạnh. Thực dân khủng bố ráo riết. Ngày 10-2-1930 vì tiến thoái lưỡng nan, Việt Nam Quốc Dân Đảng khởi nghĩa một cách miễn cưỡng “Không thành thân thì thanh nhân!” (Lời tuyên bố trước khi quyết định khởi nghĩa của lãnh tụ Nguyễn Thái Học). Ngày 17-6-1930 Nguyễn Thái Học cùng với mười hai đồng chí lên đoạn đầu đài tại Yên Bái.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1930-1935 làm phá sản tiểu thương. Đồng thời sự giảm bớt công chức đã được nêu lên thành vấn đề với danh từ “trí thức thất nghiệp”.
Văn hóaTrên đây chúng ta đã nói đến công của hai ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh trong công cuộc xây dựng nền văn học chữ Quốc ngữ của nước nhà; song một mặt khác ta cũng không nên quên hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong Tạp chí do thực dân đỡ đầu với thâm ý dùng văn hóa để chống lại văn hóa (chống lại ảnh hưởng rất mực quan trọng của Đông Kinh Nghĩa Thục). Ngay số đầu Đông Dương Tạp chí có bài xã luận mạt sát những bậc lão thành cách mạng nặng lòng dân tộc như cụ Phan Bội Châu. Nam Phong tiếp nối Đông Đương Tạp chí, phổ biến Văn hóa Pháp, ve vãn dân chúng bằng cách cũng đề ra một hướng tiến bộ nhưng là một thứ tiến bộ cầm chân, mệnh danh là “hướng tiến bộ trung dung” lấy những tư tưởng phong kiến làm nòng cốt để che đậy dã tâm của họ.
Để chống lại liều thuốc ngủ “Pháp Việt đề huề” này, cụ Phan Sào Nam đã cho phổ biến những câu thơ như:
Nó coi mình như trâu, như chó,
Nó coi mình như cỏ, như rơm.
hay:
Ngày mong mỏi vài con ấm tử Đêm vui chơi một lũ hầu non.
Trang hoàng gác tía lầu son,
Đã hao mạch nước lại mòn xương dân.[1]
Sự thực chủ trương ru ngủ của hai tờ Đông Dương Tạp chí và Nam Phong có làm mờ nhạt đi khá nhiều ảnh hưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục với “Tuyết Hồng Lệ Sử” dịch của Từ Trẩm Á, với giọng văn sướt mướt khóc chồng của Nữ sĩ Tương Phố (viết năm 1923).
Trời thu thảm đạm một mầu,
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em.
Trăng thu bóng ngả bên thềm,
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng.
Với giọng văn khóc vợ bi thiết không kém của ông Đông Hồ:
Cảnh năm trước vẫn là năm trước
Tình năm xưa đã khác năm xưa
Này trăng này núi này hồ
Mà người cùng ngắm bây giờ là đâu?
Sau cùng, cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cả một liều thuốc độc làm lụn bại hết chí tiến thủ của thanh niên ta, khiến họ coi việc đâu khổ vì tình, chết vì tình, cao quý không kém gì cái chết vì nước, vì đạo.
Chính sách của thực dân khôn ngoan thật, thâm độc thật nhưng các nho sĩ của ta đã lợi dụng ngay Nam Phong để tương kế tựu kế cổ động kín đáo cho tinh thần yêu nước (Nguyễn Bá Học, Dương Bá Trạc, Sở Cuồng, Lê Dư...) Kể từ năm 1919 trở đi các trường cao đẳng về Luật, về Thuốc, về Sư phạm đã mở để đào tạo tại chỗ những cán bộ cần thiết cho guồng máy thống trị thực dân. Nhưng có mấy nhà tri thức cam tâm làm tôi đòi cho thực dân và quên hẳn giống nòi? Chính ở những trường trên thực dân đã đào tạo nên những Nguyễn Thái Học, Ký Con.
Sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn Lý do thúc đẩy bên trongTrước tình trạng lụn bại của công cuộc cách mạng võ trang trước, cái tệ những tham quan ô lại, trước thái độ vị kỷ ươn hèn của một số người tân học lấy vợ đẹp, nhà lấu, ô tô làm lẽ sống duy nhất; và nhất là trước cảnh nghèo đói, dốt nát quá bi thảm của dân quê, một nhóm thanh niên thấm nhuần văn hóa Tây phương đã ý thức được vai trò lịch sử của mình, đứng ra thành lập Tự Lực Văn Đoàn năm 1932.
Điều kiện thuận tiện bên ngoàiMấy năm trước đây khi Toàn quyền Robin đã cho ném bom triệt hạ làng Cổ Am vì tưởng Nguyễn Thái Học trốn ở đấy.[2] Tới năm 1930 thì Việt Nam Quốc Dân Đảng hoàn toàn tan vỡ, mười ba liệt sĩ lên đoạn đầu đài tại Yên Bái. Các phóng viên Pháp được chứng kiến cảnh đó, khi trở về mẫu quốc cũng phải tuyên bố rằng không ngờ đồng bào họ ở hải ngoại đã sa đọa đến thế. Còn lòng người dân Việt thì khỏi phải nói, từ thành thị đến thôn quê không khí căm uất như dầu dội lửa đỏ.
Để mở nắp “sì hơi an toàn”, Robin nới rộng quyền tự do báo chí, đề cao tư tưởng xã hội. Khi đó chi nhánh đảng Xã hội (SFIO) bên này có tờ Le petit populaire làm cơ quan tranh đấu. Chính vào dịp cởi mở đó, Tự Lực Văn Đoàn mới có được hoàn cảnh thuận tiện mà xuất đầu lộ diện.
Thành phần Tự Lực Văn ĐoànThành phần nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn gồm các nhà văn, thơ sau đây: Nhất Linh (Nguyên Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Thế Lữ (Nguyên Thứ Lê), Tứ Ly hay Hoàng Đạo (Nguyên Tường Long), Thạch Lam (Nguyên Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), với sự cộng tác của nhiều văn nghệ sĩ khác như về họa có Tô Ngọc Vân, Nguyên Gia Trí, Nguyên Cát Tường; về nhạc có Nguyên Xuân Khoát; về kịch có Vi Huyền Đắc, Đoàn Phu Tứ; về phóng sự có Trọng Lang; về tiểu thuyết có Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Bùi Hiển, về thơ có Đỗ Huy Nhiệm, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông...
Nội dung của hai tờ báo Phong Hóa và Ngày NayNội dung tờ Phong Hóa (1932-1937) cũng như tờ Ngày Nay (1935-1941) đại để gồm bốn phần như sau:
Phần xã luận Phần tiểu thuyết Phần trào phúc Phần trông tìm (Khoa học thường thức) Chủ trương Tự Lực Văn ĐoànChủ trương của Tự Lực Văn Đoàn gồm hai phần: đả phá và xây dựng
Phần đả phá Về chính trịTự Lực Văn Đoàn đả phá chính sách “chia để trị” của thực dân (Sự phân chia nước Việt Nam thành ba kỳ, việc chấn hưng Phật giáo, không vì Phật giáo mà cốt để gây tinh thần chia rẽ giữa người Việt theo Phật giáo với người Việt theo Công giáo); đả kích chính sách trụy lạc hóa thanh niên (chợ phiên cứu dân bị lụt để sa đọa thanh niên), phản đối sự thi hành lại hòa ước 1884, nghĩa là sự tái lập nha kinh lược Bắc kỳ; phản đối sợ tạo lập những Bộ không làm gì hết (riễu Bộ Kinh tế của Nguyễn Khoa Kỳ là giết hàng năm 9.000 ve sầu và 3.000 sầu đất); đả kích sự hống hác của tụi quan lại, kỳ hào; đả kích những ông dân biểu tư vấn thuộc loại “nghị gật” hoặc thuộc loại tay sai của thực dân “Chánh phủ biểu”.
Về xã hộiTự Lực Văn Đoàn đả pháp tinh thần hương đảng, tranh chấp thủ lợn, phao câu ở chốn đình trung; đả phá óc mê tín dị đoan; đả phá chế độ đại gia đình cùng tính cách hẹp hòi của luân lý Khổng Mạnh, bóp nghẹt tự do cá nhân (uy quyền tuyệt đối của cha mẹ, sự nô dịch pháp phụ nữ, gây nên những hủ tục ép duyên, gả bán, làm lễ, đa thê, sự tranh chấp gia tài); chế riễu những tập tục hủ lậu khác như Húi Tóc của ông Đỗ Thận, Hàm Răng Đen của ông Nguyễn Văn Tố.
Về văn họcTự Lực Văn Đoàn đả kích loại văn chương sáo và rỗng cũ; đả kích lối văn “sướt mướt” sầu mây khóc gió; đả kích sự mất gốc của mấy người như Trạng La (La tinh) Nguyễn Mạnh Tường, Trang Mẹo Phạm Duy Khiêm chỉ chú trọng nói và viết tiếng Pháp[3]; chế riễu lý luận Mác-Xít Phan Văn Hùm, lý luận giây cà ra giấy muống của Phan Khôi. Mục Tin Văn Vắn của Lê Ta giọng châm biếm rất cay độc; mục Hạt Đậu Nhỏ để chỉ trích những cái dở, cái lầm trong các bài văn đồng thời.
Phần Xây Dựng Về chính trịTự Lực Văn Đoàn đòi hỏi canh tân chống phong kiến, chống thực dân để tiến tới tinh thần dân chủ. (Sau 1945 Tự lực Văn Đoàn đòi hỏi Hiến pháp, đòi hỏi dân chủ thực sự, v.v...); đề cao vẻ đẹp cao quý về tinh thần vị tha của những con người hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc. (Dũng trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn).
Về xã hộiTự Lực Văn Đoàn kêu gọi sự cố gắng và tham gia của lớp người mới vào sự cải thiện xã hội; ca tụng sự cố gắng nhân đạo hóa tư bản (như đời sống của vợ chồng Hạc trong Gia Đình).
Năm 1936 thành lập hội Ánh Sáng để bài trừ “Nhà hang chuột” và thay thế bằng những căn nhà rẻ tiền nhưng ngăn nắp sáng sủa (do hai kiến trúc sư Luyện và Tiếp vẽ kiểu). Những nhà ánh sáng này đã được dựng thành một kiểu mẫu trên bãi Phúc Tân kề Hà Nội. Sau này thực dân giải tán Hội này vì ngờ đó là một hoạt động chính trị trá hình.
Như vậy, Tự Lực Văn Đoàn luôn luôn gây cho mọi người nhất là thanh niên một thái độ quyết tâm phục vụ cho đời sống tinh thần và vật chất của giới bình dân nghèo khổ; tích cực truyền bá tinh thần vui sống để gột rửa mọi tư tưởng bi quan yếm thế do phong trào lãng mạn sướt mướt đương lan tràn trong dân chúng, nhất là trong giới thanh niên và phụ nữ.
Sau cùng việc cải cách y phục phụ nữ do Tự Lực Văn Đoàn đề xướng với những kiểu áo mới do họa sĩ Lemure (tức Nguyễn Cát Tường) vẽ có thể coi như một cải cách vừa có tính cách mỹ thuật vừa có tính cách xã hội. Ông Nguyễn Duy Diễn đã không nói ngoa khi ông viết trong cuốn Luận về Tự Lực Văn Đoàn của ông (xuất bản Thăng Long - 1958): “Sự cải cách này thực là một sự cải cách quan trọng, quan trọng không kém gì những cải cách lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội bởi nó đã phụng sự cho cái đẹp của nữ giới khiến cho cuộc đời chúng ta thêm muôn phần mỹ lệ”.
Ngày nay năm châu đều công nhận cái đẹp uyển chuyển kín đáo và có cá tính đặc biệt của kiểu áo Việt Nam, há chẳng phải do công của họa sĩ Lemur với Tự Lực Văn Đoàn?
Về văn chương nghệ thuậtTự Lực Văn Đoàn đẩy mạnh các thể văn mới mượn của Pháp như phê bình, kịch, phóng sự, tùy bút, thơ mới...
Tự Lực Văn Đoàn là những người đầu tiên áp dụng cú pháp Tây phương, khai thác sự cải cách của Hoàng Tích Chu. Nguyên năm 1926, Hoàng Tích Chu từ Pháp về nước nhà mang theo hoài bão cải cách văn xuôi cho thoát ly khỏi lối văn biền ngẫu. Ông đã có dịp thực hiện hoài bão đó trên hai tờ Ngọ Báo và Đông Tây (khoảng năm 1932). Phàm có sự thay đổi lớn lao thì khó tránh được sự quá khích, nên văn Hoàng Tích Chu biệt lập thành một thứ văn cộc lốc. Tới Tự Lực Văn Đoàn thì lối hành văn đã uyển chuyển, trong sáng, nhẹ nhàng hơn nhiều.
về thi ca, Thế Lữ được xem như là người có công đầu trong phong trào thơ mới. Đem những cái rạo rực, bồng bột của Tây phương và thi ca Việt Nam thì có Xuân Diệu; và giữ được tính chất trào phúng đặc biệt Việt Nam có Tú Mỡ.
Về dịch thuật, trước Tự Lực Văn Đoàn, các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh thường chỉ chú trọng dịch các văn phẩm cổ điển, tới Tự Lực Văn Đoàn, những nhà văn cộng tác của nhóm bắt đầu dịch những chuyện ngắn nổi tiếng của các nhà văn Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Nga, Nhật... (Thế kỷ XIX, XX). Ngoài ra còn những bản dịch các truyện dài Quốc tế: Vũ Ngọc Phan dịch Treasure Island của Stevenson, Anna Karénine của Tolstoy; Huyền Kiêu dịch The Good Earth của P. Buck; Tarlaria de Tarascon của Alphonse Daudet. Những nhà dịch thuật này thường là những cây bút tài hoa nên dịch phẩm có phần đặc sắc hơn thời trước.
Lợi khí đả phá: Tinh thần trào phúngKhí cụ hiệu nghiệm nhất của Tự Lực Văn Đoàn là tinh thần trào phúng dưới đủ mọi hình thức: tranh khôi hài, truyện vui cười, kịch hoạt kê, điểm người và việc. Chỉ cần nhớ rằng Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh. đã thành nhân vật điển hình của cả mấy thế hệ liên tiếp và vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đủ hiểu sự thành công của họ rực rỡ biết chừng nào.
Hãy nhớ lại những bức vẽ riễu Phạm Lê Bổng đeo kim khánh, đội mũ cánh chuồn một cánh, những bức vẽ riễu Phạm Quỳnh nhảy một cái từ Hà Nội và Huế, những câu ca dao nổi tiếng:
Giấc Nam Kha khéo hữu tình,
Bừng con mắt dậy thấy mình Thượng thư.
Gió đưa cành trúc la đà,
Một thuyền chật ních bài ngà Thượng thu.
Hãy nhớ lại những bài phỏng vấn không tiền khoáng hậu các quan lại đương thời như Hoàng Trọng Phu, Vi Văn Định, đã khiến người đọc tuy cười mà dào dạt căm hờn.
Hãy nhớ lại một bức tranh khôi hài vẽ Lý Toét đưa đến biếu Thốn Sứ Châtel một con gà mái với câu chú ở dưới: “Vì biểu hiện của nước Pháp là con gà sống Gô-loa, xin biếu quý quan con gà mái cho có đôi”, để chỉ trích thói vô cùng mất nhân cách của một số quan trường dâng vợ hiến con để mong được thăng quan tiến chức.
Còn một câu chuyện có thật. Trong một bài: Tin vắn hàng tuần kia, nhà báo có nói đến “ông” Toàn quyền Catroux. Ty kiểm duyệt coi sự gọi “quan Đại Pháp Toàn Quyền đại thần” như thế là một sự sách mé, bèn xóa chữ “ông” đi mà điền chữ “quan” vào. Sau đó Ty kiểm duyện nhận được một bức thư phản kháng, trong đó nhà báo cho rằng Ty kiểm duyệt chỉ có quyền xóa văn chứ không có quyền chữa văn. Ty kiểm duyệt đàng xóa chữ “quan” nhưng vẫn xóa nguyên chữ “ông”. Báo lên khuôn và trước chữ “Toàn quyền Catroux” người đọc thấy ba cái chấm xác định chữ trên đã bị kiểm duyệt bỏ rồi. Toàn quyền Catroux biết chuyện đó mới thông tri cho Ty kiểm duyệt là từ rầy mặc nhà báo gọi mình bằng ông vì kiểm duyệt như thế chỉ là mắc mưu nhà báo và càng đề cao nhà báo trước mắt dân chúng.
Nhà xuất bản Đời NayCùng với Phong Hóa, Ngày Nay, Tự Lực Văn Đoàn còn lập thêm một nhà xuất bản lấy tên là Đời Nay để xuất bản những tác phẩm của nhhững nhà văn trong nhóm hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn mua bản quyền tác phẩm (như Vi Huyền Đức, Vũ Ngọc Phan...) hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải thưởng văn chương hàng năm (Hàn Thế Du, Nguyễn Khắc Mẫn, Nguyễn Hồng.). Để chủ trương của mình được phổ biến rộng rãi thêm, nhà Đời Nay còn xuất bản một loại sách rẻ tiền bán giá đồng loạt 0$25 đặt tên là loại sách Lá Mạ) và đồng thời lại cho ra mắt một loại sách giáo dục trẻ em lấy tên là Sách Hồng.
VI. Ưu điểm và khuyết điểm của Tự Lực Văn Đoàn
Nhân vật điển hìnhCon người điển hình thời Nam Phong với truyện dịch Tuyết Hồng Lệ Sử của Từ Trẩm Á, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách... là những kẻ than mây khóc gió, sầu muộn ủ ê, đau tim, coi việc khổ vì tình, chết vì tình là những hành động cao quý chẳng kém gì các vị anh hùng liệt thánh.
Tới Tự Lực Văn Đoàn, con người điển hình của thời đại có thể thấy ở Dũng: lãng mạn tinh tế, giầu lòng nhân đạo vị tha, luôn luôn muốn vươn lên cái cao đẹp trong sáng.
Giá trị xã hội, chính trịCó công đả phá phong kiến, nhưng việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ phải chăng là đả phá cường hào? Hình ảnh Lý Toét, Xã Xệ là hình ảnh người dân quê chất phác nhiều hơn là hình ảnh cường hào. Cho nên có thể nói Tự Lực Văn Đoàn làm một việc mâu thuẫn với chính chủ trương của họ. Việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ đã gây chia rẽ giữa người thành thị và người thôn quê. Việc đả phá chế độ đại gia đình, đề cao cá nhân chủ nghĩa, đã đi quá trớn. Cho đến nay gia đình vẫn là cơ sở căn bản của con người. Phê bình óc quá khích đó của Tự Lực Văn Đoàn, giáo sư Dương Quảng Hàm có viết như sau đây trong V.N.V.H.S.Y. (tr, 454):
“. Phái ấy vì đã có thành kiến sẵn, nên chỉ trông thấy chỗ dở mà không trông thấy điều hay, thành ra trong sự mô tả, phán đoán có phần thiên lệch. Tỉ như tục đàn bà góa chồng ở vậy nuôi con. Đành rằng tục lệ ấy làm cho một số người đàn bà còn trẻ tuổi mà muốn tái giá (vì cũng có người thực bụng không muốn tái giá), nhưng vì sợ dư luận hoặc muốn giữ gia phong mà phải chịu cảnh lẻ loi lạnh lùng, tức là phải hy sinh cái hạnh phúc cá nhân; song cũng nhờ có tục ấy mà biết bao gia đình đáng lẽ, sau khi người gia trưởng mất rồi, phải lâm vào cảnh “vỡ đàn tan nghé” vẫn được đoàn viên vui vẻ: biết bao đứa con mồ coi cha đáng lẽ phải chịu số phận hẩm hiu, vẫn được nuôi dạy trông nom và thành người. Thật cái tục ấy đã gây biết bao là điều xả thân, tận tâm, biết bao người mẹ đáng cảm phục. Xem thế thì biết, trong sự phán đoán các tập tục xưa, ta cần phải đắn đo cẩn thận và xét cả mọi phương diện mới khỏi sai lầm”.
Giá trị văn chương, nghệ thuậtNếu cho tới Hoàng Tích Chu tờ báo Việt Nam mới thành hình tờ báo thì chúng ta có thể nói cho tới Tự Lực Văn Đoàn tiểu thuyết Việt Nam mới ra hình tiểu thuyết.
Tự Lực Văn Đoàn đã tạo ra một không khí văn nghệ sôi nổi chưa từng có trên văn đàn Việt Nam. Đã kết tinh được tấn bi kịch của giai cấp trung lưu Việt Nam giữa “Nho phong” và “Âu phong”. Đã có sáng kiến cho xuất bản những số đặc biệt về Trung thu, về số Xuân gây muôn phần thi vị cho đời sống văn nghệ. Lề lối làm việcĐã biết tập hợp thành nhóm và làm việc có tính cách tập đoàn, nhưng lại sa vào khuyết điểm nặng óc bè phái. Rất ít khi Tự Lực Văn Đoàn khen những tác phẩm ngoài nhóm mình (trừ trường hợp cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân), mà thường chỉ là cách phê bình bông đùa riễu cợt tàn ác nữa.
Thêm một điều ghi chúTrên đây là những lời phê bình ưu khuyết điểm đúng mực khách quan. Chúng ta cũng nên biết thêm dư luận quá nghiêm khắc của Trương Tửu. Họ Trương kết tội Tự Lực Văn Đoàn là sản phẩm sì hơi cách mạng bằng phương tiện văn chương. Ông nặng lời đả kích lối văn chương mà ông mệnh danh là “Cách mệnh sa lông” đó. Ông lên án Lạnh Lùng của Nhất Linh là cuốn sách khiêu dâm và đáng ném ra khỏi tủ sách gia đình. Ông kết luận về cuốn sách đó: “Chỉ có những người nào có tư tưởng nhất định, tính nết độc lập mới tránh được sức thôi miên của những hình ảnh xấu xa và quyến rũ tả trong một cuốn văn bằng ngọn bút tài hoa.”
[1] Qua một thời bôn ba hải ngoại, bị bắt, suýt bị tử hình, khi cụ Phan sau rốt bị thực dân đưa tới giam lỏng ở Huế, cụ lại nêu chủ trương “Pháp Việt đề huề”. Lẽ cố nhiên chủ trương “Pháp Việt đề huề” của cụ chỉ là một giai đoạn để có thì giờ thâm nhập được văn hóa Tây phương rồi sau đó sẽ “gậy ông đập lưng ông.” Nhiều nhà cách mạng còn nêu thêm một lý do: Sau khi đã qua Nhật, cụ hiểu thâm ý tàn ác của người Nhật, cụ thấy rõ đừng hòng nhờ vả gì ở người Nhật. Mãi sau này khoảng 1943-1945 người Việt mới được trực tiếp nhận chân những điều đó, khi người nhật tới hất cẳng Pháp ở Đông Dương và tung ra thuyết Đại Đông Á đường mật nhưng gian trá của họ. Càng nghĩ chúng ta càng thấy thương các bậc tiền bối cách mạng trong trường hợp các vị “tĩnh một mình”.
[2] Theo một vài dư luận giới cách mạng thì Robin cho ném bom xuống Cổ Am còn để triệt một anh hùng trong bóng tối nữa của Việt Nam Quốc Dân Đảng là Trần Cảnh. Chính ra tên họ thực nhà cách mạng này là Nguyên Đức Cảnh, vì là con nuôi của cụ Trần Mỹ, người làng Cổ Am nên đổi sang họ Trần. Trần Cảnh thoát chết trong lần ném bom của Robin, nhưng về sau cũng bị bắt. Lần đầu bị bắt này, liệt sĩ đã nhảy tự gác hai xuống, đã cắn lưỡi, đã lao mình từ tren xe lửa xuống đường mà không chết. Khi thực dân giải ông đến Saigon thì ông trốn thoát. Nhân dịp Tết Nguyên Đán kia, vị liệt sĩ của chúng ta tìm đường lần về quê ở Hưng Yên thăm bố mẹ thì bị bắt lần thứ hai.
[3] Cho đến nay ông Phạm Duy Khiêm còn coi thường khả năng diễn đạt tư tưởng của tiếng Việt, còn ông Nguyễn Mạnh Tường thì sự thực ông sử dụng tiếng Việt cũng trau chuốt như tiếng Pháp vậy.
Về xã hộiTự Lực Văn Đoàn đả pháp tinh thần hương đảng, tranh chấp thủ lợn, phao câu ở chốn đình trung; đả phá óc mê tín dị đoan; đả phá chế độ đại gia đình cùng tính cách hẹp hòi của luân lý Khổng Mạnh, bóp nghẹt tự do cá nhân (uy quyền tuyệt đối của cha mẹ, sự nô dịch pháp phụ nữ, gây nên những hủ tục ép duyên, gả bán, làm lễ, đa thê, sự tranh chấp gia tài); chế riễu những tập tục hủ lậu khác như Húi Tóc của ông Đỗ Thận, Hàm Răng Đen của ông Nguyễn Văn Tố.
Về văn họcTự Lực Văn Đoàn đả kích loại văn chương sáo và rỗng cũ; đả kích lối văn “sướt mướt” sầu mây khóc gió; đả kích sự mất gốc của mấy người như Trạng La (La tinh) Nguyễn Mạnh Tường, Trang Mẹo Phạm Duy Khiêm chỉ chú trọng nói và viết tiếng Pháp[3]; chế riễu lý luận Mác-Xít Phan Văn Hùm, lý luận giây cà ra giấy muống của Phan Khôi. Mục Tin Văn Vắn của Lê Ta giọng châm biếm rất cay độc; mục Hạt Đậu Nhỏ để chỉ trích những cái dở, cái lầm trong các bài văn đồng thời.
Phần Xây Dựng Về chính trịTự Lực Văn Đoàn đòi hỏi canh tân chống phong kiến, chống thực dân để tiến tới tinh thần dân chủ. (Sau 1945 Tự lực Văn Đoàn đòi hỏi Hiến pháp, đòi hỏi dân chủ thực sự, v.v...); đề cao vẻ đẹp cao quý về tinh thần vị tha của những con người hoạt động cách mạng giải phóng dân tộc. (Dũng trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn).
Về xã hộiTự Lực Văn Đoàn kêu gọi sự cố gắng và tham gia của lớp người mới vào sự cải thiện xã hội; ca tụng sự cố gắng nhân đạo hóa tư bản (như đời sống của vợ chồng Hạc trong Gia Đình).
Năm 1936 thành lập hội Ánh Sáng để bài trừ “Nhà hang chuột” và thay thế bằng những căn nhà rẻ tiền nhưng ngăn nắp sáng sủa (do hai kiến trúc sư Luyện và Tiếp vẽ kiểu). Những nhà ánh sáng này đã được dựng thành một kiểu mẫu trên bãi Phúc Tân kề Hà Nội. Sau này thực dân giải tán Hội này vì ngờ đó là một hoạt động chính trị trá hình.
Như vậy, Tự Lực Văn Đoàn luôn luôn gây cho mọi người nhất là thanh niên một thái độ quyết tâm phục vụ cho đời sống tinh thần và vật chất của giới bình dân nghèo khổ; tích cực truyền bá tinh thần vui sống để gột rửa mọi tư tưởng bi quan yếm thế do phong trào lãng mạn sướt mướt đương lan tràn trong dân chúng, nhất là trong giới thanh niên và phụ nữ.
Sau cùng việc cải cách y phục phụ nữ do Tự Lực Văn Đoàn đề xướng với những kiểu áo mới do họa sĩ Lemure (tức Nguyễn Cát Tường) vẽ có thể coi như một cải cách vừa có tính cách mỹ thuật vừa có tính cách xã hội. Ông Nguyễn Duy Diễn đã không nói ngoa khi ông viết trong cuốn Luận về Tự Lực Văn Đoàn của ông (xuất bản Thăng Long - 1958): “Sự cải cách này thực là một sự cải cách quan trọng, quan trọng không kém gì những cải cách lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội bởi nó đã phụng sự cho cái đẹp của nữ giới khiến cho cuộc đời chúng ta thêm muôn phần mỹ lệ”.
Ngày nay năm châu đều công nhận cái đẹp uyển chuyển kín đáo và có cá tính đặc biệt của kiểu áo Việt Nam, há chẳng phải do công của họa sĩ Lemur với Tự Lực Văn Đoàn?
Về văn chương nghệ thuậtTự Lực Văn Đoàn đẩy mạnh các thể văn mới mượn của Pháp như phê bình, kịch, phóng sự, tùy bút, thơ mới...
Tự Lực Văn Đoàn là những người đầu tiên áp dụng cú pháp Tây phương, khai thác sự cải cách của Hoàng Tích Chu. Nguyên năm 1926, Hoàng Tích Chu từ Pháp về nước nhà mang theo hoài bão cải cách văn xuôi cho thoát ly khỏi lối văn biền ngẫu. Ông đã có dịp thực hiện hoài bão đó trên hai tờ Ngọ Báo và Đông Tây (khoảng năm 1932). Phàm có sự thay đổi lớn lao thì khó tránh được sự quá khích, nên văn Hoàng Tích Chu biệt lập thành một thứ văn cộc lốc. Tới Tự Lực Văn Đoàn thì lối hành văn đã uyển chuyển, trong sáng, nhẹ nhàng hơn nhiều.
Về thi ca, Thế Lữ được xem như là người có công đầu trong phong trào thơ mới. Đem những cái rạo rực, bồng bột của Tây phương và thi ca Việt Nam thì có Xuân Diệu; và giữ được tính chất trào phúng đặc biệt Việt Nam có Tú Mỡ.
Về dịch thuật, trước Tự Lực Văn Đoàn, các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh thường chỉ chú trọng dịch các văn phẩm cổ điển, tới Tự Lực Văn Đoàn, những nhà văn cộng tác của nhóm bắt đầu dịch những chuyện ngắn nổi tiếng của các nhà văn Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Nga, Nhật... (Thế kỷ XIX, XX). Ngoài ra còn những bản dịch các truyện dài Quốc tế: Vũ Ngọc Phan dịch Treasure Island của Stevenson, Anna Karénine của Tolstoy; Huyền Kiêu dịch The Good Earth của P. Buck; Tarlaria de Tarascon của Alphonse Daudet. Những nhà dịch thuật này thường là những cây bút tài hoa nên dịch phẩm có phần đặc sắc hơn thời trước.
Lợi khí đả phá: Tinh thần trào phúngKhí cụ hiệu nghiệm nhất của Tự Lực Văn Đoàn là tinh thần trào phúng dưới đủ mọi hình thức: tranh khôi hài, truyện vui cười, kịch hoạt kê, điểm người và việc. Chỉ cần nhớ rằng Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh. đã thành nhân vật điển hình của cả mấy thế hệ liên tiếp và vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đủ hiểu sự thành công của họ rực rỡ biết chừng nào.
Hãy nhớ lại những bức vẽ riễu Phạm Lê Bổng đeo kim khánh, đội mũ cánh chuồn một cánh, những bức vẽ riễu Phạm Quỳnh nhảy một cái từ Hà Nội và Huế, những câu ca dao nổi tiếng:
Giấc Nam Kha khéo hữu tình,
Bừng con mắt dậy thấy mình Thượng thư.
Gió đưa cành trúc la đà,
Một thuyền chật ních bài ngà Thượng thu.
Hãy nhớ lại những bài phỏng vấn không tiền khoáng hậu các quan lại đương thời như Hoàng Trọng Phu, Vi Văn Định, đã khiến người đọc tuy cười mà dào dạt căm hờn.
Hãy nhớ lại một bức tranh khôi hài vẽ Lý Toét đưa đến biếu Thốn Sứ Châtel một con gà mái với câu chú ở dưới: “Vì biểu hiện của nước Pháp là con gà sống Gô-loa, xin biếu quý quan con gà mái cho có đôi”, để chỉ trích thói vô cùng mất nhân cách của một số quan trường dâng vợ hiến con để mong được thăng quan tiến chức.
Còn một câu chuyện có thật. Trong một bài: Tin vắn hàng tuần kia, nhà báo có nói đến “ông” Toàn quyền Catroux. Ty kiểm duyệt coi sự gọi “quan Đại Pháp Toàn Quyền đại thần” như thế là một sự sách mé, bèn xóa chữ “ông” đi mà điền chữ “quan” vào. Sau đó Ty kiểm duyện nhận được một bức thư phản kháng, trong đó nhà báo cho rằng Ty kiểm duyệt chỉ có quyền xóa văn chứ không có quyền chữa văn. Ty kiểm duyệt đàng xóa chữ “quan” nhưng vẫn xóa nguyên chữ “ông”. Báo lên khuôn và trước chữ “Toàn quyền Catroux” người đọc thấy ba cái chấm xác định chữ trên đã bị kiểm duyệt bỏ rồi. Toàn quyền Catroux biết chuyện đó mới thông tri cho Ty kiểm duyệt là từ rầy mặc nhà báo gọi mình bằng ông vì kiểm duyệt như thế chỉ là mắc mưu nhà báo và càng đề cao nhà báo trước mắt dân chúng.
Nhà xuất bản Đời NayCùng với Phong Hóa, Ngày Nay, Tự Lực Văn Đoàn còn lập thêm một nhà xuất bản lấy tên là Đời Nay để xuất bản những tác phẩm của nhhững nhà văn trong nhóm hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn mua bản quyền tác phẩm (như Vi Huyền Đức, Vũ Ngọc Phan...) hoặc những nhà văn được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải thưởng văn chương hàng năm (Hàn Thế Du, Nguyễn Khắc Mẫn, Nguyễn Hồng.). Để chủ trương của mình được phổ biến rộng rãi thêm, nhà Đời Nay còn xuất bản một loại sách rẻ tiền bán giá đồng loạt 0$25 đặt tên là loại sách Lá Mạ) và đồng thời lại cho ra mắt một loại sách giáo dục trẻ em lấy tên là Sách Hồng.
VI. Ưu điểm và khuyết điểm của Tự Lực Văn Đoàn
Nhân vật điển hìnhCon người điển hình thời Nam Phong với truyện dịch Tuyết Hồng Lệ Sử của Từ Trẩm Á, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách... là những kẻ than mây khóc gió, sầu muộn ủ ê, đau tim, coi việc khổ vì tình, chết vì tình là những hành động cao quý chẳng kém gì các vị anh hùng liệt thánh.
Tới Tự Lực Văn Đoàn, con người điển hình của thời đại có thể thấy ở Dũng: lãng mạn tinh tế, giầu lòng nhân đạo vị tha, luôn luôn muốn vươn lên cái cao đẹp trong sáng.
Giá trị xã hội, chính trịCó công đả phá phong kiến, nhưng việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ phải chăng là đả phá cường hào? Hình ảnh Lý Toét, Xã Xệ là hình ảnh người dân quê chất phác nhiều hơn là hình ảnh cường hào. Cho nên có thể nói Tự Lực Văn Đoàn làm một việc mâu thuẫn với chính chủ trương của họ. Việc chế riễu Lý Toét, Xã Xệ đã gây chia rẽ giữa người thành thị và người thôn quê. Việc đả phá chế độ đại gia đình, đề cao cá nhân chủ nghĩa, đã đi quá trớn. Cho đến nay gia đình vẫn là cơ sở căn bản của con người. Phê bình óc quá khích đó của Tự Lực Văn Đoàn, giáo sư Dương Quảng Hàm có viết như sau đây trong V.N.V.H.S.Y. (tr, 454):
“. Phái ấy vì đã có thành kiến sẵn, nên chỉ trông thấy chỗ dở mà không trông thấy điều hay, thành ra trong sự mô tả, phán đoán có phần thiên lệch. Tỉ như tục đàn bà góa chồng ở vậy nuôi con. Đành rằng tục lệ ấy làm cho một số người đàn bà còn trẻ tuổi mà muốn tái giá (vì cũng có người thực bụng không muốn tái giá), nhưng vì sợ dư luận hoặc muốn giữ gia phong mà phải chịu cảnh lẻ loi lạnh lùng, tức là phải hy sinh cái hạnh phúc cá nhân; song cũng nhờ có tục ấy mà biết bao gia đình đáng lẽ, sau khi người gia trưởng mất rồi, phải lâm vào cảnh “vỡ đàn tan nghé” vẫn được đoàn viên vui vẻ: biết bao đứa con mồ coi cha đáng lẽ phải chịu số phận hẩm hiu, vẫn được nuôi dạy trông nom và thành người. Thật cái tục ấy đã gây biết bao là điều xả thân, tận tâm, biết bao người mẹ đáng cảm phục. Xem thế thì biết, trong sự phán đoán các tập tục xưa, ta cần phải đắn đo cẩn thận và xét cả mọi phương diện mới khỏi sai lầm”.
Giá trị văn chương, nghệ thuậtNếu cho tới Hoàng Tích Chu tờ báo Việt Nam mới thành hình tờ báo thì chúng ta có thể nói cho tới Tự Lực Văn Đoàn tiểu thuyết Việt Nam mới ra hình tiểu thuyết.
Tự Lực Văn Đoàn đã tạo ra một không khí văn nghệ sôi nổi chưa từng có trên văn đàn Việt Nam. Đã kết tinh được tấn bi kịch của giai cấp trung lưu Việt Nam giữa “Nho phong” và “Âu phong”. Đã có sáng kiến cho xuất bản những số đặc biệt về Trung thu, về số Xuân gây muôn phần thi vị cho đời sống văn nghệ. Lề lối làm việcĐã biết tập hợp thành nhóm và làm việc có tính cách tập đoàn, nhưng lại sa vào khuyết điểm nặng óc bè phái. Rất ít khi Tự Lực Văn Đoàn khen những tác phẩm ngoài nhóm mình (trừ trường hợp cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân), mà thường chỉ là cách phê bình bông đùa riễu cợt tàn ác nữa.
Thêm một điều ghi chúTrên đây là những lời phê bình ưu khuyết điểm đúng mực khách quan. Chúng ta cũng nên biết thêm dư luận quá nghiêm khắc của Trương Tửu. Họ Trương kết tội Tự Lực Văn Đoàn là sản phẩm sì hơi cách mạng bằng phương tiện văn chương. Ông nặng lời đả kích lối văn chương mà ông mệnh danh là “Cách mệnh sa lông” đó. Ông lên án Lạnh Lùng của Nhất Linh là cuốn sách khiêu dâm và đáng ném ra khỏi tủ sách gia đình. Ông kết luận về cuốn sách đó: “Chỉ có những người nào có tư tưởng nhất định, tính nết độc lập mới tránh được sức thôi miên của những hình ảnh xấu xa và quyến rũ tả trong một cuốn văn bằng ngọn bút tài hoa.”
KẾT LUẬN
Ngoài một số khuyết điểm trên, Tự Lực Văn Đoàn thực đã ghi được nhiều thành tích rực rỡ nhờ ở cách nhìn rộng rãi bao quát và tinh thần làm việc khoa học. Ảnh hưởng lớn lao của Tự Lực Văn Đoàn vào lối cảm nghĩ của thanh niên còn kéo dài mãi cho tới ngày nay. Sau sự tan rã của nhóm nầy, mọi người cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông trên văn đàn trong một thời gian khá dài.
Chú thích:
[1] Qua một thời bôn ba hải ngoại, bị bắt, suýt bị tử hình, khi cụ Phan sau rốt bị thực dân đưa tới giam lỏng ở Huế, cụ lại nêu chủ trương “Pháp Việt đề huề”. Lẽ cố nhiên chủ trương “Pháp Việt đề huề” của cụ chỉ là một giai đoạn để có thì giờ thâm nhập được văn hóa Tây phương rồi sau đó sẽ “gậy ông đập lưng ông.” Nhiều nhà cách mạng còn nêu thêm một lý do: Sau khi đã qua Nhật, cụ hiểu thâm ý tàn ác của người Nhật, cụ thấy rõ đừng hòng nhờ vả gì ở người Nhật. Mãi sau này khoảng 1943-1945 người Việt mới được trực tiếp nhận chân những điều đó, khi người nhật tới hất cẳng Pháp ở Đông Dương và tung ra thuyết Đại Đông Á đường mật nhưng gian trá của họ. Càng nghĩ chúng ta càng thấy thương các bậc tiền bối cách mạng trong trường hợp các vị “tĩnh một mình”.[2] Theo một vài dư luận giới cách mạng thì Robin cho ném bom xuống Cổ Am còn để triệt một anh hùng trong bóng tối nữa của Việt Nam Quốc Dân Đảng là Trần Cảnh. Chính ra tên họ thực nhà cách mạng này là Nguyên Đức Cảnh, vì là con nuôi của cụ Trần Mỹ, người làng Cổ Am nên đổi sang họ Trần. Trần Cảnh thoát chết trong lần ném bom của Robin, nhưng về sau cũng bị bắt. Lần đầu bị bắt này, liệt sĩ đã nhảy tự gác hai xuống, đã cắn lưỡi, đã lao mình từ tren xe lửa xuống đường mà không chết. Khi thực dân giải ông đến Saigon thì ông trốn thoát. Nhân dịp Tết Nguyên Đán kia, vị liệt sĩ của chúng ta tìm đường lần về quê ở Hưng Yên thăm bố mẹ thì bị bắt lần thứ hai.
[3] Cho đến nay ông Phạm Duy Khiêm còn coi thường khả năng diễn đạt tư tưởng của tiếng Việt, còn ông Nguyễn Mạnh Tường thì sự thực ông sử dụng tiếng Việt cũng trau chuốt như tiếng Pháp vậy.