← Quay lại trang sách

- V - NHẤT LINH Thân thế và sự nghiệp văn chương-THÂN THẾ [1]

Tên thật là Nguyễn Tường Tam, sinh năm 1905 tại phố Huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thân phụ làm Thông phán Tòa Sứ, giòng dõi cựu nho.

.

Gia đình có bảy anh em sáu trai một gái, thứ tự như sau: Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) và Nguyễn Tường Bách.

- Học tập và lập chí (1905-1930)

Học trường Bưởi (1920) đậu trung học (1923), làm Thông phán tại sở Tài chính, ở đây gặp gỡ rồi quen thân với Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Viết những tác phẩm đầu: Nho Phong (1925). Sau Nho Phong đến những tác phẩm: Thôn Dã, Hai- Chi Em, Người Quay Tơ. Những tác phẩm này còn chịu nặng ảnh hưởng Nho giáo và do tác giả tự xuất bản lấy. Cũng vào năm 1925, ông xin thôi công sở, thoạt theo trường Thuốc được ít lâu bỏ Thuốc sang học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật. Năm 1927 du học Pháp. Đậu cử nhân khoa học. Khảo cứu thêm về văn học, báo chí, ấn loát, đến năm 1930 về nước.

- Hoạt động văn hóa xã hội (1930-1938).

Dạy học tại Tư thục Thăng Long. Bỏ dạy học đứng ra chủ trương tờ Phong Hóa đổi mới (kể từ số 14 trở đi ra ngày 22-9-1932). Lập Tự Lực Văn Đoàn(1933). Ra tờ Ngày Nay (1935). Khởi xướng Đoàn Ánh Sáng, xây nhà kiểu mẫu tại bãi Phúc Xá Hà Nội (1937). Viết các tiểu thuyết quan trọng của ông trong thời kỳ này.

- Hoạt động chính trị (1937-1948)

Lập Đảng Hưng Việt (1938) sau đổi thành Đại Việt Dân Chính (1939). Năm 1940 Pháp hàng Đức, chính phủ Pétain lên, tại Đông Dương Toàn quyền Catroux (chống Nhật) nhường chức cho Toàn quyền Decoux (nhân nhượng với Nhật). Nhật Bản tha hồ đặt căn cứ quân sự để tiến đánh Trung Quốc. Đại Việt Dân Chính Nguyễn Tường Tam hoạt động vào thời kỳ này. Năm 1942 ông trốn sang Trung Hoa đại diện cho Việt Nam Quốc Dân Đảng trong Cách Mạng Đồng Minh Hội. Năm 1945 về nước, tập họp nhóm Ngày Nay cũ cho xuất bản một cơ quan ngôn luận mới lấy tên là Việt Nam. Năm 1946 đại diện cho Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến giữ Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao. Là trưởng pháp đoàn Việt Nam đi dự Hội nghị Việt Pháp tổ chức tại Đà Lạt. Hội nghị này bế tắc ngay từ phút đầu vì thực dân Pháp ngoan cố không chịu để Nam Bộ sát nhập Trung Bộ và Bắc Bộ. Bỏ sang Trung Hoa tìm một giải pháp chính trị khác cho nước nhà, nhưng thất vọng với Bảo Đại. Thêm vào đấy cái chết của Hoàng Đạo trên chuyến xe lửa từ Hương Cảng về Quảng Châu (thi hài được đưa xuống an táng tại trấn Thạch Long), càng khiến ông hết tin tưởng vào chính trị và quyết định rút khỏi chánh giới (1948).

- Trở về viết văn:

Năm 1951 ông từ Trung Hoa trở về Hà Nội, tuyên bố không thuộc đảng phái nào, không hoạt động chính trị; sau đấy, ông vào Nam mở nhà xuất bản Phượng Giang tái bản lại những sách của Tự Lực Văn Đoàn. Lên nghỉ tại Đà Lạt một thời gian, đến năm 1958 “xuống núi” chủ trương “Văn Hóa Ngày Nay” tập đầu ra ngày 17-6-1958, bắt đầu cho đăng Cô Mùi, một truyện trong tập trường giang tiểu thuyết Xóm Cầu Mới. Văn Hóa Ngày Nay ra đến số 11 (tháng 5-1959) thì đình bản, truyện Cô Mùi còn dở dang.

Tháng 8-1959 giai phẩm văn nghệ Tân Phong ra đời (hậu thân của Văn Hóa Ngày Nay) nhưng không thấy Nhất Linh cho đăng tiếp truyện dài, chỉ thỉnh thoảng có truyện ngắn của ông.

Tân Phong tập 17 (tháng 3-1960) bắt đầu đăng Đỉnh Gió Hú nguyên tác của Emily Bronte (Wuthering Heights) bản dịch của Nhất Linh.

TÁC PHẨM

Tác phẩm của Nhất Linh có thể phân loại một cách tổng quát như sau:

- Nho Phong, Người Quay Tơ là những tác phẩm đầu, còn nặng ảnh hưởng Nho giáo.

- Đoạn Tuyệt (1935), Lạnh Lùng (1936) là những tác phẩm luận đề, bài Nho.

- Đôi Bạn, Hai Buổi Chiều Vàng (tập truyện ngắn) là những tập truyện tình cảm nhiều tính cách lý tưởng.

- Thế Rồi Một Buổi Chiều là tập truyện ngắn vừa tình cảm vừa có tính cách xã hội. Những truyện trong tập truyện này gồm có như sau:

- Thế Rồi Một Buổi Chiều: truyện tình cảm.

Sáu truyện này nhiều tính cách xã hội vì nói đến những cảnh khổ của kiếp nghèo:

- Chết Dở

- Nghèo

- Hai Cảnh Ngoài Phố

- Hai Vẻ Đẹp

- Hai Chị Em

- Tiếng Kêu Thương

- Bướm Trắng: Viết theo lối thám hiểm nội tâm con người

- Đi Tây: Truyện trào lộng

Viết chung với Khái Hưng:

- Anh Phải Sống

- Gánh Hàng Hoa

- Đời Mưa Giá

Phân tích tác phẩm Đoạn Tuyệt

A. Lược truyện

Đoạn Tuyệt chia làm ba phần:

Phần một (bảy chương): Giới thiệu các nhân vật chính. Loan, một cô gái mới yêu Dũng, nhưng bị cha mẹ ép gả cho Thân vì đã nhật lời từ khi Loan còn nhỏ. Dũng, con quan Tuần, có những hành vi quá táo bạo (làm cách mạng), ông Tuần sợ lụy đến mình nên từ con. Ngày gia đình Thân đem đồ lễ đến ăn hỏi, Loan đến căn gác trọ tồi tàn gặp Dũng, quyết tâm hỏi thẳng về tình yêu của chàng để nàng quyết định về chuyện hôn nhân kia. Dũng vốn yêu Loan nhưng khi biết Loan đã là vợ chưa cưới của người khác, không muốn gây thêm rắc rối cho đời Loan, chàng làm như chỉ coi nàng là bạn thôi. Loan thất vọng ra về. Lần thứ hai Loan đến Dũng thì chàng đã đi xa.

Trước ngày cưới Loan, một hôm Dũng về nhà ông giáo Lâm, vợ là Thảo. (Lâm, Thảo là đôi bạn chí tình của Dũng lẫn Loan). Vô tình Loan cũng vừa rảnh việc cỗ bàn lại chơi. Dũng toan tránh mặt mà không xong. Hai người gặp nhau bên lò sưởi, rồi cùng Thảo nâng cốc rượu ly biệt. Dũng lên đường gió bụi, Loan lên đường về nhà chồng. Ngày lên xe hoa, Loan có thoáng thấy Dũng trong đám đông. Đêm tân hôn Loan nghĩ đến Dũng trong khi đó chàng đáp chuyến xe lửa đêm đi Yên Bái.

Phần hai (mười hai chương): Những tình tiết xung đột giữa mới và cũ. Ông chồng (Thân) thì đần độn, tầm thường, mẹ chồng thì cay nghiệt, em chồng thì đáo để nhỏ nhen, vợ lẽ chồng thì ngu dốt mà lại muốn lăng loàn, các bà con nhà chồng thì về hùa nhau để khích bác hành hạ Loan. Sự đàn áp khắc nghiệt đến nỗi Loan sinh con trai mà hầu như chẳng có quyền gì về con. Khi con ốm nàng không được theo thuốc Tây. Bà mẹ chồng mê tín mang thằng bé đi chữa bằng tàn nhang nước thải đến khi chết còn đổ vấy cho nàng. (Trong họ nhà chồng chỉ có Đức, người em họ làm thầy thuốc ở nhà thương Hà Nội là hiểu được Loan).

Phần ba (mười chương): Tới một buổi tối kia Loan không muốn cho Thân tắt đèn để lẻn xuống với Tuất ở nhà dưới, hai người cãi nhau. Bà Phán ở buồng bên cũng sang để sỉ vả Loan. Cuộc xô xát gây go dần rồi tới mức Thân hăng máu cầm chiếc lọ đồng xông lại đánh Loan. Loan hốt hoảng cầm con dao rọc sách để đỡ. Thân mất đà ngã mạnh vào mũi dao mà chết. Vụ án giết chồng đưa ra công lý. Nhờ tài hùng biệt của luật sư biện hộ cho Loan về tội ngộ sát và kịch liệt lên án chế độ gia đình cũ. Loan được tòa tha bổng. Cuộc xung đột chấm dứt: mới thắng cũ, cá nhân đoạn tuyệt với gia đình.

Bà Hai (mẹ Loan) mất, Loan bán nhà trả món nợ ba ngàn đồng trước đây vay của bà Phán, rồi thuê nhà mở trường dạy học tư. Bị bên nhà chồng phá, việc dạy học thất bại, một lần nữa Loan đổi chỗ ở, dọn đến một căn nhà tồi tàn nhưng rất quý đối với Loan vì ở nhà đó, Loan có cảm tưởng sống cái đời của Dũng sống trước kia, độ Dũng mới từ bỏ gia đình. Ngày ngày Loan đến làm việc tại tòa báo Minh Nhật: đánh máy chữ, dịch những bài lặt vặt ở các báo Tây.

Dũng vẫn theo dõi cuộc đời của Loan từ ngày nàng lấy Thân. Chàng hối vì đã để cho nàng đau khổ. Chàng viết thư cho Thảo kể hết nỗi niềm và mong Thảo thu xếp cho Dũng được cùng Loan đoàn tụ. Lá thư ấy Thảo đưa cho Loan xem đúng vào một đêm giao thừa dạt dào gợi cảm. Đọc xong thơ, Loan từ biệt vợ chồng Lâm Thảo trở về nhà được yên tĩnh nghĩ đến cái sung sướng của mình. Thảo nhìn theo tinh nghịch bảo chồng: “Hiện giờ có một người sung sướng. Người đó đương đi ngoài mưa gió, quên cả mưa ướt, gió lạnh...”

B. Loan và sự tiến triển tâm lý của nàng

Đoạn Tuyệt là truyện đời Loan. Thái độ Loan đã rứt khoát quyết liệt với cái cũ, ở ngay chương đầu. Khi cùng Thảo nhắc đến chuyện cô Minh Nguyệt vì gặp mẹ chồng ác mà tự tử. Loan phát biểu ý kiến của nàng về nếp sống tự do:

“Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Minh sống, muốn sống thì sao không thể một mình mình sống được, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường.” (tr.4)

Một chỗ khác, ý nghĩ thiết tha của nàng về một nếp sống tự lập:

Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi của bạn nghĩ thầm:

- Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một đời nương dựa vào người khác để quanh năm phải kình địch với những sự cổ hủ mà học thức của mình bắt mình ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh, hợp với quan niệm mới của mình. (Tr.8).

Nghĩ thì thế, đến khi vào thực tế chính Loan cũng gặp hoàn cảnh y hệt cô Minh Nguyệt, mà nào Loan có thoát ly được?

Thoạt nàng đành chịu để cha mẹ mình ép gả cho Thân:

- Vâng, con nhận rằng con mới quá, nhưng con đã đi học, không thể không cư xử theo sự học của con được. Bây giờ thì tùy quyền thầy mẹ.

- Dầu sao thầy mẹ cũng chớ nên phiền muộn. Rồi con sẽ nghĩ lại và con sẽ trình thầy mẹ biết ý con nhất định về việc đó ra sao. (tr. 27).

Loan đã nhượng bộ cha mẹ vì chữ hiếu.

Khi về nhà chồng, nàng gắng yêu chồng mà không được vì Thân đần độn quá. Tuy nhiên thái độ của nàng cũng rất mực phải chăng, không có chi là lăng loàn. Loan đề nghị với Thân, nên xin bà Phán cho ra ở riêng. Thân không bằng lòng. Loan ghê tởm cho cái đời làm vợ giả dối của nàng, cho cái bổn phận nàng là cái máy đẻ, nhưng rồi cũng đành cam chịu. Theo Tây học, nhiễm đức tính thẳng thắn, Loan có thể cam chịu mẹ chồng mắng chửi vào mặt mình nếu bà cho đấy là lỗi, chứ nàng không chịu được những lời bóng gió, mát mẻ, xa xôi. Nàng đã thưa lại với bà Phán bằng một giọng chân thành:

- Thưa mẹ, mẹ đã cho con về làm con, làm dâu, thì xin mẹ coi con như một người trong nhà, hay thì mẹ khen, có lỗi thì mẹ mắng. Con xin nhận lỗi và nhận những lời mẹ mắng con, dạy con. Bởi vì con biết đó không phải là những day dắt làm con đau khổ vô ích mà là những lời của một người mẹ vì yêu mà mắng (tr.77).

Lời nói của Loan dễ thương như vậy mà nào bà Phán có hiểu. Bà vân cho là Loan hay lý sự và và vân mát mẻ vân mỉa mai bảo Loan:

- Tôi đâu dám mắng cô, mà ai mắng nổi cô ở nhà này, cô cứ dạy quá lời. Giỗ tết nhà tôi, cô không thèm biết đến thì thôi ai bắt. Tôi chỉ nói để cô biết từ rầy cô có đi đâu thì cô cho tôi hay, kẻo ở nhà này có kẻ ra người vào, lỡ mất mát cái gì thì một mất mười ngờ, người ta nói ra nói vào thêm khó khăn ra. (tr.78).

Như vậy là bà Phán nghi Loan khuân của về nhà bố mẹ đẻ. Khi Loan nói là biên mấy chữ để lại, thì đây là lời Bích - cô em chồng chứng tỏ hết cái nhỏ nhen của cảnh chị dâu em chồng:

- Biên chữ thì ai xem được, nhà tôi có ai đỗ bằng nọ bằng kia như chị đâu mà bảo xem nổi.

Rồi quay mặt đi, nói một mình, nhưng có ý để Loan nghe rõ:

- Hơi một tí là đem chữ ra khoe. (tr.78)

Ây cảnh Loan bị hành hạ ở nhà chồng là vậy, nàng vân cắn răng chịu đựng. Rồi cầm bằng như đời mình bỏ đi, nàng nghĩ đến gây dựng tương lai cho đứa con trong bụng.

Sự chịu đựng của Loan thực đáng khen và đúng như lời luật sư sau này cãi cho nàng:

“Buộc cho Thị Loan cái tội quấy rối gia đình ư? Chính Thị Loan lại là người tha thiết muốn được yên sống trong gia đình. (tr. 169).

Cương quyết, dứt khoát trong ý tưởng, nhưng lại biết hy sinh, nhân nại khi vào hoàn cảnh, sự tiến triển của tâm lý Loan rất uyển chuyển và rất “người” ở chỗ đó.

Minh Nhật là tờ báo vẫn binh vực phái mới thì không còn ai quấy rối nàng được nữa. Sự thắng của Loan đẹp ở chỗ thẳng thắn đích đáng và hoàn toàn tự lập.

C. Mối tình lãng mạn của Loan, Dũng

Hình ảnh Dũng đã biến thành một ám ảnh đối với Loan từ đầu đến cuối truyện, ở ngay cuối chương đầu Loan đã thú thực tình yêu đó với Thảo:

Vậy chỗ chị em, em không giấu diếm, chị hẳn biết cái tình của em đối với anh Dũng. (tr.10)

Hai lần Loan đến nhà Dũng trước ngày quyết định lấy Thân.

Trong phòng cô dâu đêm tân hôn “Loan nhắm mắt lại, rùng mình nghĩ đến rằng đó là nơi chôn cái đời thơ ngây trong sạch của nàng” (tr.28).

Sự thực Loan có thiện chí muốn được yên thân vui với cuộc đời mới để quên mối tình với Dũng, mối tình không còn lý do tồn tại nữa.

“Loan cho việc đối đãi với mẹ chồng không phải là việc khó khăn. Việc cần thiết là làm thế nào yêu được Thân. Vì nàng có yêu Thân thì đời nàng từ nay mới có nghĩa lý.” (tr.60).

Khi Thân đặt tay lên vai Loan, hình ảnh Dũng lại hiện rõ rệt trong trí tưởng tượng của Loan (phản ứng khởi đầu). Đến khi Loan thấy Thân giải một miếng vải trắng lên chiếu “... nàng hiểu và cảm thấy tất cả cái mọi rợ trong cử chỉ của Thân lúc đó. Nàng mỉm cười khinh bỉ nghĩ thầm:

- Chỉ có sự trinh tiết của tâm hồn là đáng quý thôi.” (tr. 61)

Rồi suốt trong mấy tháng chung sống, Loan muốn yêu mà không yêu được. Thân tầm thường đần độn, cổ hủ quá thành thử cuộc hôn phối giữa Loan và Thân chỉ là mối tình của Loan với Dũng thêm phần xót xa. Trong cuộc đời làm vợ bất đắc chí của Loan, hình ảnh Dũng luôn luôn xuất hiện như một niềm an ủi.

“Chỉ có sự trinh tiết của tâm hồn là đáng quý thôi”, ý nghĩ thầm trên đây của Loan trong đêm tân hôn, Loan đã biểu diễn thành lời nói thực với Thảo, khi nàng còn trên giường bệnh sau lần đẻ khó khăn và vẫn đinh ninh rằng mình khó qua khỏi được:

- “Một người đàn bà như em mà lúc chết đến nơi không mảy may thương chồng, thương con! Chị tính như thế có đau lòng không... Vì Thân nào có phải là chồng em, đối với mọi người, em là vợ Thân. nhưng đối riêng với em, với chị, thì trước sau em chỉ là vợ Dũng, người vợ trong tinh thần của Dũng.” (tr. 104).

Nằm bên chồng, Loan nhớ đến Dũng, khi ôm con, Loan nhớ đến Dũng. Con chết, nhân một chuyến đi chơi, bất ngờ gặp Dũng giữa đường rừng. Dũng xin đi nhờ xe (của bà Huyện Tịch) về Việt Trì buộc thuốc, Loan những “thầm mong cho chiếc xe kia đâm vào thân cây hay hốc đá và tan tành ra như cám để nàng được hưởng một cái chết mạnh mẽ bên cạnh người nàng vẫn yêu mà lúc này nàng càng thấy yêu.” (tr. 109)

D. Luận đề Đoạn Tuyệt

Trước hết chúng tôi hãy ghi nhận đây ý kiến của ông Phạm Thế Ngũ về Đoạn Tuyệt, tiểu thuyết luận đề:

“Tiểu thuyết luận đề là tiếng dùng để dịch thành ngữ Pháp Roman à thèse. Luận đề đây là chỉ cái chủ trương, cái quan niệm có hệ thống của một tác giả về một vấn đề trọng đại của tư tưởng và liên quan đến xã hội nhân sinh. Nhà văn viết ra một câu truyện với chủ ý trình bày những nhân vật, dẫn dắt các tình tiết để đi đến một kết cục, tất cả nhằm bênh vực cái quan niệm riêng của mình. Thật ra thì tác phẩm nào chẳng mang tư kiến của tác giả và có rất nhiều tiểu thuyết phản ảnh những quan niệm của tác giả, tuy nhiên vẫn không được coi là tiểu thuyết luận đề. Người ta nhận ra tiểu thuyết luận đề ở chỗ tác giả đã rõ rệt chủ ý bênh vực một quan niệm để chống lại một quan niệm khác và rõ rệt uốn nắn câu chuyện, khuôn đúc nhân vật để phục vụ cho chủ ý của mình...

Đoạn Tuyệt được coi là tiểu thuyết luận đề vì Nhất Linh trong tác phẩm ấy đã chủ ý rõ rệt bênh vực quan niệm sống mới của cá nhân, chống lại quan niệm sống cũ của gia đình và rõ rệt khuôn đúc các nhân vật, uốn nắn câu chuyện để cho cuối cùng chủ trương của ông đắc thắng, người đọc có cảm tình với cá nhân và đứng vào phe mới. Ông đã đưa một nàng Loan bỏ hạnh phúc cá nhân, hy sinh bước vào gia đình cũ, để lần lượt chứng kiến và làm nạn nhân cho tất cả những cái cổ hủ lạc hậu ngu muội, tức cười hay thê thảm có thể thấy trong tục lệ và tâm lý của giai đình cũ; Rồi đến bước cùng, nàng mắc tội oan giết chồng phải vào khám và ra tòa. Kết cuộc nàng được tòa thấu nỗi oan và tha bổng, Loan đắc thắng trước pháp luật, đắc thắng ở hạnh phúc cá nhân (Dũng trở về với nàng), lại đắc thắng trong cảm tình của độc giả thông cảm nàng, chia sẻ những nỗi khổ và tán thành quan niệm của nàng, tức là gián tiếp bênh vực cho luận đề của tác giả".

Vấn đề thời đại

Vậy ở Đoạn Tuyệt, tác giả nêu lên một vấn đề cấp thiết của thời đại: Vấn đề xung đột mới cũ. Ngay đến tác phẩm, tác giả có lời đề tặng như sau:

“Tặng KHÁI HƯNG tác giả ‘Nửa Chừng Xuân’, nhà văn cùng một quan niệm với tôi về xã hội hiện thời. Tặng các thanh niên nam nữ đã từng chịu những nỗi khắt khe của cuộc xung đột mới cũ.”

Nội dung cuộc xung đột mới cũ đó chúng ta đã cảm thấy ngay khi đọc mấy trang đầu. Nào tin cô Minh Nguyệt tự tử vì mẹ chồng ác; nào lời nói của Loan: “Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở...”, nào lời nói của Dũng: ''Chuyện gia đình bao giờ cũng rắc rối; nào tự do kết hôn, nam nữ bình quyền, mẹ chồng nàng dâu, bao nhiêu thứ lôi thôi.”

Hãy lần dở Đoạn Tuyệt từ đầu đến cuối, chúng ta sẽ gặp những cái dở của xã hội cũ:

- Gia đình đàn áp cá nhân - Đại gia đình - mà đại diện là người gia trưởng - có toàn quyền đàn áp cá nhân, dư luận xã hội bao giờ cũng về phe gia trưởng. Dũng bị ông Tuần từ chàng giải thích hành động đó của cha.

“Thầy mẹ tôi dẫu đăng báo hay nói khắp nước Nam rằng không nhận tôi là con, tôi cũng vẫn là con, vì đã đẻ tức là con rồi, không nhận cũng vô lý như khi mới đẻ lại bảo rằng không đẻ. Vậy từ con chỉ là không chia của cho con nữa.

Tôi thiết gì của ấy. Tôi vẫn sẵn lòng không lấy. Hay nếu từ là để không muốn thấy mặt tôi nữa thì tôi vẫn sẵn lòng đi kia mà. Vậy từ chỉ có một sự ích lợi: là báo thù con vì ở xã hội ta, một người bị cha mẹ từ là một người bỏ đi, một người khốn nạn, đủ hết các tính xấu”. (tr. 16).

Con trai thì thế, về phía con gái như Loan, trong việc cưới xin chẳng hạn, thì cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy. Đây là lời Loan tự hỏi vào ngày Thân đem đồ lễ đến ăn hỏi:

“Sao nhà trai đến hỏi mà thầy mẹ lại không bảo mình đến nửa câu. Thế thì mình có hay không có ở nhà này, mình lấy chồng hay ai lấy chồng?” (tr. 23)

Sự uy hiếp của đại gia đình mạnh mẽ đến nỗi đứa con của Loan đẻ ra cũng không là con riêng của nàng:

“Loan chắc từ nay không có cách gì cho nàng thoát ra được, không những chỉ một mình nàng, đến ngay đứa con đẻ ra mà nàng cũng thấy nó xa nàng lắm. Nó không là con riêng của nàng nữa mà là của chung gia đình nhà chồng, mới ra đời đã thấy người ta lôi kéo đi, lôi về cái đời cũ, nàng biết trước rằng không sao ngăn ngừa được. (tr. 98-99)

Đời Loan bị nhục nhằn tù hãm là thế mà mỉa mai thay nàng không dám sử dụng biện pháp ly dị chồng vì:

“Chắc em không nói chị cũng đoán ra. Mẹ em không đời nào hiểu được cái khổ, nhất là cái khổ về tinh thần của em. Mẹ em không thể tưởng tượng em có thể bỏ chồng được! Nếu em bỏ chồng thì lại làm mẹ em đau lòng hơn là trước kia em không nghe lời mẹ em.” (Lời Loan nói với Thảo tr. 123)

Vì hy sinh cho mẹ, Loan phải lấy Thân, rồi qua bao nhục nhằn đau khổ, tới ngày kia Loan mắc tiếng oan giết chồng, bà Hai (mẹ Loan) vẫn chưa hiểu thấu thảm cảnh của con, bà khóc tay đấm vào ngực than vãn:

“Nó làm khổ tôi. Nó làm dơ diếu cả nhà tôi. Hai bác tính thôi hiếm hoi có mỗi một đứa con, cũng tưởng gây dựng cho nó nên người, tử tế, có ngờ đâu bây giờ tôi hóa ra mẹ một đứa con giết chồng. Nhục nhã chưa?” (tr. 153)

Trong gia đình mẹ đẻ với sự thương xót của tình máu mủ mà Loan còn bị đàn áp là thế, huống chi về nhà chồng nơi khác máu tanh lòng, nơi câu nói cửa miệng là “mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng”.

Người duy nhất có thể trực tiếp bênh vực Loan là Thân thì Thân chỉ là một người đàn ông ngu đần, không lý tưởng, không hiểu nổi những băn khoăn thắc mắc của vợ, luôn luôn sống như một vị thành niên dưới uy quyền của mẹ là bà Phán Lợi.

Vì vậy cuộc đời làm dâu của Loan, đơn phương độc mã, gặp biết bao cảnh đau lòng:

- Mẹ chồng nàng dâu xô xát - Bà Phán Lợi luôn luôn muốn tỏ uy quyền chuyên chế của mình khiến Loan phải ngạt thở, bà luôn luôn gây xô xát để được dịp dầy vò Loan.

- Chị dâu em chồng - Bích, cô em chồng, vô học, đanh đá, không bỏ lỡ một dịp nào để hoặc trực tiếp gây chuyện với Loan, hoặc “bỏ mắm bỏ muối” cho câu chuyện thêm lầm lẫn về phía Loan để dễ bề xúi bẩy mẹ và anh mà gây thêm sóng gió.

- Họ hàng nhà chồng - Họ hàng nhà chồng cũng tự thấy có quyền hành hạ Loan. Loan vô tình vắng nhà hôm có giỗ. Bà Huyện Tịch, một người cô của Thân tìm cách “dội dầu vào đám lửa”.

Bà Tịch cười hỏi bà Phán:

- “Thế nào cô trắng răng đã về rồi đấy ư?

Đấy tôi đã can chị, chị không nghe, cứ đi rước những thứ ấy về. Rước những hạng tân thời ấy về để nó làm bại hoại gia phong nhà mình. Nó học giỏi mặc nó chứ, nhà mình là nhà có phép tắc nề nếp.

Rồi quay sang nói với Thân:

Thế nào là dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về. Cũng tại anh cả, quen chiều vợ, để mặc nó làm gì thì làm, bây giờ thì nó đã quen thân, mất nết, chậm quá rồi... Hỏng” (tr. 79).

Bên lề cuộc đời Loan là hình bóng một vài phụ nữ khác đã đi bước trước cùng cảnh ngộ Loan:

Cô Minh Nguyệt tự tử vì mẹ chồng ác.

Cô Lệ Hồng cũng tự tử vì cảnh làm dâu.

Cô cả Đạm bị cha mẹ ép gả cho con một ông Chánh tổng giầu có ở quê nhà từ năm mười sáu tuổi. Khi về nhà chồng mấy lần bị mẹ chồng đánh chửi thậm tệ. Thoạt cô cả Đạm còn phản kháng về với bố mẹ đẻ, nhưng bố mẹ đẻ cũng đuổi cô về nhà chồng. Sau cùng cô cả Đạm đành chịu vào khuô vào phép nhẫn nhục như đau khổ ngấm ngầm. Rồi hầu hạ bà mẹ chồng ốm ho lao. Mẹ chồng chết, cô cả Đạm bị lây rồi cũng chờ chết.

Bên cạnh tấn thảm kịch mẹ chồng nàng dâu, còn những hủ tục khác của xã hội cũ như:

- Trọng nam khinh nữ: Bà Phán chỉ biết quý cháu trai, còn việc mẹ nó - Loan - thập tử nhất sinh trên giường bệnh bà coi nhẹ.

- Nạn đa thê: Khi Loan tuyệt đường sinh đẻ, Thân vụng trộm với Tuất, có mang rồi lấy Tuất làm lẽ. Khi sinh ra được thằng bé con trai, Tuất bèn tấp tểnh lộng quyền với Loan.

Ông Phạm Thế Ngũ có viết: “Việc cưới Tuất cho Thân là vừa để công nhận một sự hoang dâm, vừa để thay thế cho Loan đã hết đường sinh đẻ. Nhìn Tuất, Loan tủi cho cái phận đàn bà nói chung bị người ta mua về, hì hục lạy người ta để nhận làm cái máy đẻ, làm con sen hầu hạ không công. Chế độ đa thê không thể có với quan niệm ái tình thanh cao và sự tôn trọng nhân phẩm người đàn bà.[7]

- Những chuyện mê tính dị đoan: Bà Phán tin ở sự bán khoán, tin ở tàn nhang nước thải, chứ không tin ở thuốc Tây. về việc Loan ốm, bà Phán nói:

“- Tôi sợ thuốc Tây lắm. Vài ngày nữa khỏe mợ về nhà uống thuốc ta hơn. Để chốc nữa tôi đi lễ cầu cho mợ khỏi... Mai, lúc thay áo cho con, mợ nhớ đưa cho tôi cái áo để tôi đem ra chùa làm lễ bán khoán cho nó.” (tr.98)

Khi con nàng ốm, bà Phán đem giao nó cho một thầy bùa. Đứa bé ngày một gầy gò, Loan sinh nghi, đi hỏi chị em, mới biết phép chữa của bọn thầy bùa là cho uống tàn hương nước thải và có khi lại dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma ám ảnh, nghĩa là đánh người ốm.

Thảm kịch tranh chấp giữa mới và cũ, sau rốt đưa đến

mối hàm oan giết chồng và đôi bên (Loan đại diện phái mới, bà Phán Lợi phái cũ) cùng ra trước tòa công lý, cũng là tòa án dư luận của thời đại. Qua lời buộc tội của ông Chưởng Lý, lời biện hộ của trạng sư, chúng ta thấy rõ thái độ của tác giả giữa hai quan niệm mới và cũ.

Ông Chưởng Lý kết tội:

“Thị Loan vì thông minh nên sinh ra kiêu hãnh không coi ai ra gì cả. Khinh mẹ chồng, khinh chồng, khinh bố chồng. Người nào thị cũng cho là vô học thức. Các ngài hẳn hiểu rõ cái hại đọc tiểu thuyết của những bọn thanh niên biết tiếng Pháp: một luồng gió lãng mạn cuối mùa thổi qua đã để lại biết bao tai hại.

Vì kiêu căng, vì lãng mạn lại vì so sánh những cảnh thần tiên thấy trong tiểu thuyết với các sự thực tầm thường trước mắt, nên Thị Loan tìm cách thoát ly.

Cho là Thị Loan muốn thoát ly nữa, nhưng thiếu gì cách. Thị không nghĩ thế. Thị nỡ giết chồng trong một lúc giận dữ...” (tr.162).

Ông xin Tòa trị tội thật nặng để bảo vệ nền tảng của xã hội là gia đình.

Trạng sư lần tìm nguyên nhân của thảm kịch gia đình đó:

“- Chính bà mẹ chồng đã giết cháu bà mà không biết. Bà lại còn đổ cho Thị Loan cái tội giết con! Đến nay, bà đổ cho Thị Loan cái tội giết chồng, nhưng bà có biết đâu, con bà chết là lỗi ở bà, lỗi ở cái luân lý trái mùa và quá ư nghiêm ngặt kia. Người có tội chính là bà mẹ chồng Thị Loan và cái luân lý cổ hủ kia.

Nhưng nếu vượt lên trên và nghĩa rằng, không kể đến cá nhân nữa, thì bao nhiêu những việc xảy ra không phải lỗi ở người nào cả mà là lỗi ở sự xung đột hiện thời đương khốc liệt của hai cái mới cũ” (tr.167).

Ông kết tội quan niệm “mua nàng dâu” cũ dã man chẳng khác gì chế độ nô lệ:

“Giữ lấy gia đình! Nhưng xin đừng lầm gia đình với giữ lại nô lệ. Cái chế độ nô lệ bỏ từ lâu, mỗi lần ta nghĩ đến không khỏi rùng mình ghê sợ! Ấy thế mà có ai ngờ đâu còn cái chế độ khốn nạn ấy trong gia đình An Nam.

Chắc các ngài sẽ sửng sốt cho lời tôi nói là lạ. Nhưng thử hỏi: bị người ta bỏ tiền ra mua về và bị coi như thuộc quyền sở hữu của người ta, như thế không là nộ lệ thì là gì nữa.” (tr. 168)

Phần cuối bài cãi, trạng sư dường như dời hẳn mảnh đất lý trí của nhà luật học mà sang hẳn miếng đất tình cảm, lời cãi thật thống thiết: “Thị Loan chỉ có một tội là tội cắp sách đi học để rèn tập tâm trí thành một người mới, rồi về chung sống với những người cũ, Thị Loan chỉ có mỗi một tội đó. Nhưng tội ấy, Thị Loan đã chuộc lại bằng bao nhiêu năm đau khổ.

“Tha cho Thị Loan tức là các ngài làm một việc công bằng, tức là tha cho một người đã bị buộc tội oan, tha cho một người đau khổ đã bị phí cả một đời thanh xuân và đã đem thân hy sinh cho cái xã hội mới cũ khắt khe này”. (tr.169)

Đó là luận đề mới cũ xung đột, luận đề chính của Đoạn Tuyệt xảy ra cho Loan là nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết.

Thiết tưởng chúng ta cũng không nên quên một luận đề phụ ở một nhân vật phụ, ấy là thái độ chính trị của Dũng mà cũng là của tác giả. Luận đề phụ này hoàn toàn xuất hiện ở phần hai chương bốn của câu chuyện.

Một buổi chiều về cuối năm, Dũng dừng chân ít ngày ở đồn điền một người bạn thân tên là Độ. Bằng những lời văn giản dị nhưng rất gợi cảm, tác giả thuật lại tình cảm, ý nghĩ rồi lời đàm thoại của Dũng:

“Tiếng người gọi nhau ở dưới đồng đưa lên khiến Dũng nghĩ đến cái đời của dân quê, cái đời lạnh lẽo, vô vị kéo dài đã mấy ngàn năm. Đã mấy ngàn năm, họ sống như bám lấy mảnh đất già cỗi, xưa thế nào giờ vẫn thế, vui ít, khổ nhiều, bao giờ cũng thảm đạm như buổi chiều đông này, không hề khao khát một cảnh đời sáng sủa hơn, mong ước một ngày mai tốt đẹp hơn ngày hôm nay.

Chiều hôm ấy Dũng cảm như thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân.” (tr..87)

“Dũng vẫn thấy mình là một người dân và cảm thấy cái thú man mác được hòa với đám dân không tên không tuổi, sống cái đời của họ sống, mong ước như họ mong ước, khác nào một cây cỏ lẫn vào trong muôn nghìn cây cỏ ngoài nội. Nhưng trong cái thú hòa hợp ấy có lẫn chút rạo rực, náo nức: vì chưa được thỏa nguyện về hiện tình của dân quê nên còn khao khát mà sự khao khát không diễn được nên lời ấy, nó bắt Dũng tin ở sự thay đổi, tin ở công việc Dũng làm trong bấy lâu và có lẽ còn làm mãi mãi, chưa biết bao giờ nghỉ.

Độ nhìn Dũng thương hại cho bạn bấy lâu sống cuộc đời gian nan, vất vả, phiêu bạt khắp bốn phương trời. Chàng gạt tàn thuốc lá thở dài, nói vẩn vơ một câu như để mong an ủi bạn:

- Sống không nghĩ ngợi như bọn dân kia thế mà lại sướng.

Dũng đáp:

- Tôi không nghĩ như anh, vì tôi tin ở sự tiến bộ. Ta có thể làm cho họ hơn lên được. Có lẽ họ đã quen với cái khổ lắm rồi, nên họ không biết khổ nữa, hay họ có biết cũng không tỏ ra được... Ta phải diễn ra cho họ và những sự ta mong ước cho họ, ta phải làm cho họ mong ước như ta. Tôi vẫn hằng mong ước dân quê đỡ phải chịu hà hiếp, ức bách. Ta phải tin rằng sự ao ước ấy có thể thành sự thực và làm cho dân quê cũng mong một cách thiết tha như ta”. (tr.88)

Vậy nói một cách tổng quát Luận đề chính của Đoạn Tuyệt là mới cũ xung đột, trong đó Nhất Linh kịch liệt đả kích quan niệm hôn nhân lỗi thời cũ, cùng những hủ tục khác và ông đòi giải phóng cá nhân khỏi xiềng xích cả gia đình. Cá nhân phải được tự do tự lập.

Luận đề phụ là thái độ của tác giả (qua nhân vật Dũng) về vấn đề cải thiện dân sinh. Tác giả tuy có theo nguyên tắc “Dân vi quý” của Mạnh Tử nhưng có thái độ tích cực hơn ở điểm đòi giáo hóa cho người dân biết ham muốn đời sống mới. Lòng ham muốn đó chính là động cơ thúc đẩy cuộc cách mạng dân sinh.

Phê bình Đoạn Tuyệt

I. Kết cấu và động tác câu chuyện

A. Nhận xét tổng quát

Khởi đầu hãy xin đơn cử ra đây những dòng nhận xét ngắn gọn và xác đáng của ông Phạm Thế Ngũ, sau đó xin có ý kiến bình luận thêm.

Câu chuyện kết cấu khả giản dị. Chủ ý tác giả là trình bày cuộc xung đột giữa mới và cũ, giữa cá nhân và gia đình. Phần một là sự trạng xui nên nạn nhân phải bước vào hoàn cảnh xung đột. Phần hai là tất cả tình tiết của xung đột và phần ba là cuộc xung đột chấm dứt đưa đến mới thắng cũ, cá nhân đoạn tuyệt với gia đình. Mặt khác thì lại còn là một câu chuyện tình, có ý vị lãng mạn nữa. Phần một là mối tình của Dũng và Loan. Họ chia ly để phần hai Loan bước vào con đường bất hạnh và phần ba nàng ra khỏi cơn ác mộng trở về với Dũng. Thành ra một câu chuyện hóa hai. Ta có cảm tưởng như nếu chỉ trình bày một bức tranh xung đột xã hội thì thiếu hấp dẫn, nên tác giả đã đem mối tình của Dũng mà dàn lên trên cho có thi vị lãng mạn, rồi bằng sự quay về của Dũng mà tăng thêm phần vẻ vang và sung sướng cho sực đắc thắng của Loan.

Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy cách kết cấu câu chuyện khá chặt chẽ và động tác khi khoan, khi mau, rất uyển chuyển, khiến câu chuyện giữ được vẻ hấp dẫn đặc biệt. Câu chuyện kết thúc bỏ lửng nhưng vẫn hé cho độc giả thấy cuộc đời toại nguyện của Loan được xum họp với Dũng sau này. Đúng như nhận xét của ông Phạm Thế Ngũ, lối giải kết bỏ lửng đó chính là đặc điểm của nghệ thuật mới vượt ra ngoài sáo xưa.

B. Một vài tình tiết không hợp lý

1. Một nét tâm lý của Loan

Ở ngay chương I phần một, tác giả đã cho chúng ta thấy cảnh Loan, Dũng gặp nhau với những cử chỉ ngôn ngữ tế nhị, chứng tỏ tình yêu kín đáo giữa hai người. Nếu chúng ta lại nhớ đến Đôi Bạn chỉ để tả mối tình kín đáo của Loan Dũng. Sang đến chương II của Đoạn Tuyệt, Loan đích thân đến thăm Dũng ở căn gác trọ tồi tàn của chàng. Dũng lúc đó đương sắp va-li để sửa soạn đi, Loan đã lò mò nhìn ra một cái ảnh nửa người của nàng chụp hai ba năm trước:

“Nàng lấy làm lạ vì nàng không hề tặng Dũng bức ảnh nào. Cảm động nàng nhìn bức ảnh của nàng mà Dũng có lẽ vì yêu nàng đã lấy trộm và lúc đi lại nhớ đem theo đi... Nàng thấy trong lòng man mác, sung sướng...” (tr. 14).

Vậy thì mối tình đó có, Loan Dũng và cả độc giả nữa, tưởng không còn ai nghi ngờ được nữa. Ây thế mà sau vài câu chuyện, Loan lại hờn giận nghĩ như sau:

“... Dũng nói luôn mấy câu nữa, nhưng nàng không để ý đến. Nàng đã biết được điều nàng muốn biết: là Dũng không yêu nàng, trước sau chỉ coi nàng như một người bạn.” (tr. 18).

Cả chương II, Nhất Linh tả tâm trạng thắc mắc của Loan về tình yêu của Dũng, điểm mà lẽ ra không ai còn nghi ngờ nữa, nhất là - tôi nhắc lại - khi chúng ta liên tưởng đến Đôi Bạn (Điều này dưới đây khi bàn đến Đôi Bạn tôi còn nhắc tới). Cho đến khi đọc hết chương II này, người ta có cảm tưởng như chứng kiến Loan đến gõ một cái cửa bỏ ngỏ rồi lại quay về mà than phiền rằng cửa vẫn đóng.

2. Loan sinh con trai và bị mổ

Chương V phần hai, Loan sinh con trai nhưng suýt nguy đến tính mạng vì đẻ khó, phải mổ và hết đường sinh đẻ. Cả một sự kiện quan trọng như vậy, tác giả chỉ thuật lại sơ sài:

Cô đỡ nói:

- Bà ấy sốt, lúc đẻ khó khăn lắm, phải mổ. Nhưng bây giờ đã khỏi. (tr. 96)

Từ lúc mổ đến lúc khỏi sao nhẹ nhàng thế? Và lẽ nào Loan đẻ khó phải mổ mà Thân không hề biết? Lỏng lẻo ở chỗ đó.

3. Loan hấp hối

Sang chương VI, Loan hấp hối, viết thơ gọi Thảo đến giường bệnh căn dặn trả dùm tiền thuốc và tiền buồng, nhờ bạn nói dùm với Dũng là đến phút cuối cùng, nàng cũng không quên Dũng. Sang chương VII, chúng ta đã thấy Loan đi chơi đền Mẫu với bà Huyện Tịch và suốt mấy giờ nàng được thỏa thích chạy chơi hết các đồi gần đền Mẫu.

Đã đành việc khỏi bệnh bất ngờ đó đã được sửa soạn trước ở chương VI:

Thảo đoán là vì có chuyện bực tức gì khác chứ không phải là vì bệnh trạng nguy kịch mà Loan thốt ra những câu chán nản ấy. Thảo xem ra Loan cũng không ốm nặng mấy, tuy bệnh kéo dài đã gần một tháng...” (tr. 102).

Tuy nhiên ta thấy vẫn chưa đủ và chương VI này cũng lỏng lẻo như chương V trên.

4. Loan đi chơi đền Mẫu với bà Huyện Tịch

Bà Huyện Tịch là một người cô của Thân, xưa nay Loan vẫn ghét bà ta nhất vì bà hay súi bà Phán Lợi. Mới ngày nào bà Tịch cười hỏi Bà Phán:

“Thế nào, cô trắng răng đã về rồi đấy ư?

Rồi lại nói:

Đấy tôi đã can chị, chị không nghe, cứ đi rước những thứ ấy về. Rước những hạng tân thời ấy về để nó làm bại hoại gia phong nhà mình. Nó học giỏi mặc nó chứ, nhà mình là nhà có phép tắc nề nếp.

Rồi quay sang nói với Thân:

Thế nào là dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về. Cũng tại anh cả, quen chiều vợ, để mặc nó làm gì thì làm, bây giờ thì nó đã quen thân, mất nết, chậm quá rồi... Hỏng” (Chương II, phần hai, tr. 79).

Ây thế mà đến chương VII, Loan đã nghiễm nhiên được bà Tịch mời đi thăm đền Mẫu trên ô tô của bà y như chỗ thân tình, vẫn quý hóa nhau từ xưa đến giờ.

Đã đành có nhiều trường hợp trước ác cảm, sau cảm tình, nhưng sự biến chuyển tâm lý đó, đòi hỏi sự giải thích. Sự giải thích đã hoàn toàn không có ở đây. (Việc đi chơi xa này của Loan cần để có sự bất ngờ gặp Dũng bị thương và xe hỏng ở giữa đường rừng).

5. Các chị em nhà chồng có dám nói mỉa Loan?

Chương XII phần hai, nhà chồng có giỗ:

“Loan ngồi riêng ra một nơi, cúi đầu yên lặng, không dự vào câu chuyện của chị em họ. Nàng biết trước rằng hễ có dịp gặp nhau là họ nói cạnh nói khóe nhau và đem những chuyện tư chuyện riêng ra nói cho hả dạ. Ngoài những chuyện ấy ra, họ cũng không biết chuyện gì, cũng như sống ở trên đời ngoài những cỗ bàn bếp nước họ cũng không còn chuyện khác nữa.

Gớm, chị trưởng hôm nay sao mà nghiêm trang thế?

Loan phải vội ngửng lên mỉm cười vì nàng biết là họ bắt đầu muốn sinh sự. Một cô nữa vừa mỉm cười, vừa nói tiếp:

- Nghiêm trang không đúng. Phải nói chuyện khinh khỉnh. Người ta là nữ văn sĩ kia mà, ai thèm nói chuyện với bọn quê mùa như các chị". (tr.140)

Chúng ta đã biết Loan là một cô gái thông minh có học, bướng bỉnh, lý sự lại khôn ngoan ở chỗ bướng bỉnh lý sự trong khuôn phép, trong lẽ phải (tỉ như lời nàng thưa lại với mẹ chồng (tr. 77). Chính bà Phán Lợi tuy ghét nàng mà vẫn phải gờm nàng. Bích là cô em chồng đành hanh, tuy có nhiều lần hỗn xược với nàng nhưng nàng khinh không thèm chấp. Loan như vậy liệu các chị em nhà chồng có dám nói mỉa nàng như trên không và Loan cố chịu mỉm cười im lặng không? Tôi tin là không! Vì vậy những nét tâm lý trên đây mất phần thống nhất.

6. Loan và Thân dọn nhà lên Hà Nội

Chương I, phần ba.

Loan thấy Thân nằm bên cạnh, chốc chốc lại vật mình thở dài. Nàng biết Thân tức bực lắm, vì Thân chỉ đợi nàng tắt đèn đi ngủ là xuống nhà dưới với Tuất, vì từ hôm dọn nhà lên Hà Nội để chữa lại nhà ở dưới Ấp, Tuất về quê vắng, hôm nay vừa mới lên. (tr.144)

Trong chương này có vụ ngộ sát. Tác giả muốn vụ ngộ sát đó xẩy ra tại địa phận Hà Nội chăng, nên mới có vài lời giải thích sơ sài là dọn nhà lên Hà Nội để chữa lại nhà ở dưới Âp. Cho tới chương này độc giả mới đột nhiên được biết bà Phán Lợi vẫn có nhà trên Hà Nội. Nhà đó hẳn không nhà cho thuê bởi một lẽ rất giản dị là Thân và Loan dọn lên ở ngay khi nhà dưới Âp chữa lại. Như vậy khi cả nhà bà Phán Lợi ở dưới Âp thì nhà đó bỏ hoang? (Căn cứ vào các tình tiết trong truyện, độc giả nào cũng phải nhận rằng cả nhà bà Phán Lợi đều ở dưới Âp). Thành thử độc giả có cảm tưởng viết đến đâu thấy cần thêm chi tiết nào, tác giả tới lúc đó mới nhét thêm vài lời giải thích vào đó.

7. Sự tình cờ đẫm máu

Sau cùng trong phần nhận xét về kết cấu và động tác này chúng ta cũng nên nhắc đến sự tình cờ đẫm máu ở chương I, phần ba.

Trương Tửu chê Đoạn Tuyệt là đã phải nhờ ở một sự tình cờ và một nhà văn khác đã chê lối giải quyết ấy là đẫm máu.

Hai ý kiến đó đều không phải là không sáng suốt. Kể ra khi đọc xong cuốn truyện, gấp sách lại ta cũng phải đặt câu hỏi: “Ngộ không xảy ra sự tình cờ đẫm máu thì cuộc đời Loan sẽ ra sao, nàng sẽ hành động cách nào để chuyển bại thành thắng cho quan niệm mới.”

Sở dĩ độc giả khi vừa đọc tới chương đó không kịp đặt câu hỏi, vì động tác chương này dồn dập, tình thế căng thẳng dần cho đến lúc tai nạn xẩy đến, lời văn thuật chuyện rất hấp dẫn. Chính phần nghệ thuật đã cứu vãn cho sự sơ hở của phần nội dung trong chương này.

II. Nhận xét về sự tiến triển tâm lý của các nhân vật

1. Loan

Tôi đã trình bày ở chương trên đây là sự tiến triển của tâm lý Loan rất uyển chuyển và hợp lý.

Ông Lê Hữu Mục viết trong cuốn Khảo Luận về Đoạn Tuyệt là “...Ông Nhất Linh đã thiên vị khi ông cho Loan ‘muốn yêu mà không thể được’, tuồng như ông cho rằng lời ấy không phải là ở Loan, nhưng là ở Thân với nét mặt và đời sống quá tầm thường của chàng. Ông có biết đâu lúc nào tâm hồn Loan cũng chứa đầy hình ảnh của Dũng thì còn yêu ai được nữa.” [14]

Không ai chối cãi tâm hồn Loan chứa đầy hình ảnh của Dũng, và sang thời mới, trai gái đã tương đối được tự do nhiều thì việc người con gái về nhà chồng mang theo trong lòng một vài vương vấn nào không có chi lạ. Tôi vẫn nghĩ rằng Thân có thừa ưu thế để xóa hình ảnh Dũng trong tâm hồn Loan, nếu Thân không quá đần độn, tầm thường như vậy. Sự tan vỡ kia Thân hoàn toàn không chịu trách nhiệm.

Phê bình tâm lý Loan, ông Phạm Thế Ngũ viết:

“Người đàn bà ở thời nào cũng vậy, như chúng ta nghĩ, bản tính dễ quen, dễ hòa đồng, dễ uốn nắn, lại thường lấy sự thành thật, sự mềm yếu mà dễ gây thiện cảm với chung quanh. Ở đây ta thấy một mẫu phụ nữ ít có: không thẹn thùng, không e dè sợ sệt, chủ quan, cứng cỏi, kiêu hãnh, lý sự, mới đến cùng. Nhất là về sau, khi đã thoát khỏi gia đình Thân, trở về nhà, bán nhà cửa, dẹp bỏ bàn thờ tổ tiên, một mình lặn lội vào xóm nghèo, mở lớp dạy học, rồi lại giải tán lớp học, vào làm báo, hàng ngày đi bộ trên một cây số để đến nơi làm việc: Loan trở nên một phụ nữ phi thường, một nữ siêu nhân. Tâm lý Loan vì thế có chỗ thiếu sự thực linh hoạt”.[15]

Nhận xét của ông Phạm Thế Ngũ thật xác đáng, nhất là việc dẹp bàn thờ tổ tiên, tôi sẽ đề cập ở phần bình luận đề. Ở đây có lẽ chúng ta phải nghĩ: Đoạn Tuyệt là một tiểu thuyết luận đề, Loan chính là một phụ nữ lý tưởng thời đó mà tác giả nêu ra để chuyển bại thành thắng cho phái mới. Sau khi Đoạn Tuyệt ra đời, dư luận có xôn xao, rồi rốt cuộc quan niệm cũ phải tỏ vẻ kiêng nể và có thái độ hiểu biết hơn với quan niệm mới, điều đó là công lớn của Nhất Linh bù vào cái tội quá khích của ông qua nhân vật Loan.

2. Dũng

Thoạt xuất hiện một cách êm ả, bình thường, nhưng về sau chàng trở thành một nhân vật huyền bí, ẩn hiện bất ngờ. Chính hành tung bí mật kèm theo mối tình u uẩn của chàng với Loan đã làm độc giả có cảm tình nồng nhiệt với nhân vật này. Dũng trong Đoạn Tuyệt có phong độ một Phạm Thái tung hoành với chí lớn nhưng vẫn mang trong lòng hình ảnh của Trương Quỳnh Như.

3. Các nhân vật phụ khác

- Lâm, Thảo, đôi bạn tốt của Loan-Dũng, luôn luôn biết thương bạn, hiểu thấu những thắc mắc của bạn và hết sức an ủi giúp đỡ bạn khi cần.

- Thân, một anh chồng tầm thường, ngu hèn từ nét mặt, cử chỉ đến ngôn ngữ.

- Bà Phán Lợi, người mẹ chồng cay độc, khi thì mát mẻ, khi thì hung hãn nhưng tất cả những lời nói cùng hành động khác nhau đó đều vụ mục đích hành hạ Loan.

- Bích, cô em chồng vô học, đanh đá v.v...

Mỗi nhân vật phụ đều có cá tính riêng và giữ được cá tính đó từ đầu đến cuối.

III. Nhận xét về luận đề Đoạn Tuyệt

Luận đề mới cũ xung đột! Ở Đoạn Tuyệt, Nhất Linh dụng tâm quy tụ mọi tật xấu của xã hội cũ: nhưng quan niệm lỗi thời về hôn nhân, cưỡng ép trong việc gả bán, hạ thấp nhân cách của người đàn bà, nạn đa thê, cùng những hủ tục khác như mê tín dị đoan.

Tuy nhiên, ở Đoạn Tuyệt có những điểm quá trớn.

1. Đối với mẹ chồng

Hãy nghe Loan đối đáp với mẹ chồng:

- Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi.

- Tao có quyền, mày chửi lại xem nào?

Loan quay lại:

- Tôi không quen chửi, chửi người khác tức bẩn mồm mình.

Ở Tòa ra, Loan xin lỗi mẹ chồng bằng một giọng ngang hàng:

- “Tôi xin lỗi bà... còn như bà, nếu bà vẫn coi tôi như một kẻ thù, đó là quyền riêng của bà.”

Đọc nhưng đoạn như vậy chúng ta chẳng khỏi cảm thấy bùi ngùi chua xót. Bùi ngùi chua xót cho sự va chạm đau thương giữa Mới và Cũ. Bùi ngùi chua xót cho giá trị đạo đức cố hữu của dân tộc bỗng chốc bị phá hủy vùi dập. Đạo đức truyền thống của dân tộc là đạo hiếu, là kính lão đắc thọ. Bậc làm cha mẹ hầu hết để lại những gương hy sinh đáng quý. Còn việc mẹ chồng nàng dâu thường xảy ra bất hòa cũng là lẽ dễ hiểu chung cho cả Đông lần Tây (các bà mẹ thường cảm thấy tình mẫu tử bị xâm phạm, chia sẻ).

2. Theo mới đến cùng

Theo Nhất Linh, tất cả những gì của xã hội cũ đều hủ bại, bởi vậy Nhất Linh đã để Loan đòi theo mới đến cùng. Sự thực có cái mới nào mà hoàn toàn ly khai hẳn cái cũ? Hiện tại luôn luôn bắt nguồn ở dĩ vãng để tiến triển vào tương lai. Mặc dầu cố tình thóa mạ cái cũ, mà vô tình đôi chỗ Nhất Linh vẫn để thoát ra những cái đẹp cố hữu của nếp sống cũ:

- Tình bằng hữu đáng quý của Lâm, Thảo há chẳng phản ánh tâm hồn trung hậu của nếp sống cũ?

Hãy nghe lời đối thoại giữa Loan với con sen:

- Thưa cô, miễn ở với cô có đủ cơm ăn là con xin ở mãi. Tiền công cô cho mấy tháng nay, con chỉ ăn quà và tiêu nhảm.

- Thế còn chồng con chị?

- Thưa cô, con chưa có cháu nào. Còn chồng con nói đi làm thợ mộc cũng đủ tiêu, con không cần phải lo.

Rồi con sen cười để che cảm động:

- Ở với cô chẳng bao giờ sợ đói. Thế là đủ. Mà dẫu có đói đi nữa thì hai cô cháu cùng đói. Xin cô đừng ngại. (tr. 195).

Đó há chẳng là nghĩa tớ thầy vô cùng đáng quý của nếp sống cũ?

3. Cá nhân quá trớn

Chỉ cần đơn cử đoạn văn sau này ở đầu chương X, phần ba:

“Loan mở cửa bước vào nhà rồi uể oải đặt mấy cái gói giấy lên bàn. Nàng vừa ở phố về, mua mấy thức lặt vặt để dùng trong ba ngày Tết vì, sáng ngày con sen đã xin phép nàng về quê. Đưa mắt nhìn gian nhà vắng vẻ, tự nhiên Loan thấy buồn bã lạ thường. Trong lúc năm hết Tết đến, Loan còn cảm rõ nỗi cô độc của nàng, một thân một mình sống trơ trọi; gian nhà này mỗi khi về nàng thấy ấm cúng bao nhiêu thì chiều hôm nay có vẻ lạnh lẽo bấy nhiêu.”(tr. 205).

Sự thực cảnh lạnh lẽo này đâu chỉ vì thiếu có con sen? Đó chính là cảm giác cô độc của một cá nhân, không còn cha mẹ, không còn họ hàng thân thích. Niềm cô độc đó lại càng rõ rệt, chua xót giữa một nếp tình cảm truyền thống: năm hết Tết đến, ai nấy ao ước được đoàn tụ trong không khí ấm cúng của gia đình. Tới đây liệu Loan có dám thực tình ca ngợi tự do cá nhân như một cái gì siêu việt tuyệt vời? Tới đây liệu Loan có thấy hối nếu nàng nhớ lại quan niệm quá khích của nàng khi xưa:

“Nó có đời của nó, nhớn lên nó phải hoàn toàn sống cái đời của nó. Theo lệ cũ, thì con mình cả đời chỉ quanh quẩn lấy mình thôi, quanh quẩn với những bổn phận trong gia đình. Khi bố mẹ còn trẻ thì bố mẹ bắt con theo ý mình, đến khi bố mẹ già, nếu bố mẹ không lo liệu lấy thân thì tất nhiên con nó phải bận mưu sự sống cho bố mẹ. Tôi muốn nó có lòng kính yêu tôi mà không bao giờ phải bận vì tôi.” (tr. 84).

Khi còn bé, cha mẹ dạy dỗ mình, khi đã trưởng thành mãi mãi cha mẹ là cố vấn cho mình. Và khi cha mẹ đã về già, bổn phận cao quý của kẻ làm con là phải nuôi nấng, săn sóc lo lắng đến sức khỏe của các người.

4. Quá trớn trong quan niệm đả phá việc thờ cúng

Sau khi được tha trắng án, Loan trở về sống với cha mẹ. Ít lâu sau bà Hai cũng bị bệnh mà mất. Loan bán nhà, bỏ bàn thờ. Lời Loan nói với bà dì:

- Lư hương với cây nến cháu đã bán đi rồi, đấy chỉ là cái bàn không, cháu để lại cho chủ mới.

Cháu thì cháu chỉ biết thờ ở trong lòng. Cần gì phải thờ, cần gì phải người thừa tự. (tr. 185)

Đồng ý với quan niệm trọng nam khinh nữ phải bỏ, không cần lập người thừa tự, nhưng đâu có phải vì thế mà bỏ hẳn việc thờ cúng tổ tiên? Ông Phạm Thế Ngũ phê bình: ’’Còn như chủ trương chỉ thờ tổ tiên ở trong lòng như lời Loan nói thì hoặc là nguy biện hoặc là lý tưởng cao xa quá. Sự thờ cúng nào mà chẳng cần đến một tối thiểu hình thức lễ nghi. Không có hình thức bên ngoài thì rồi đối tượng bên trong cũng không còn nữa.”

IV. Văn Chương Đoạn Tuyệt

Lời văn trong sáng, nhận xét tế nhị, gợi hình gợi cảm.

Cả chương V, phần một, Nhất Linh đã khéo gợi lại được cuộc gặp mặt với những rung động tâm tình tế nhị của những cặp tình nhân muôn thuở.

Những câu tả cảnh của Nhất Linh ít khi là tả cảnh thuần túy, thường có lẩn quất tâm tình:

Một buổi chiều về cuối năm, một buổi chiều êm như giấc mộng; mấy cây thông ở đầu hiên nhà đứng lặng yên đợi gió. (tr. 86)

Ngoài kia, ánh nắng vàng buổi chiều như tiếc ngày cuối cùng của một năm, còn lảng vảng trên các ngọn đồi, chòm cây, lướt thướt trên cánh đồng cỏ màu xanh già. Những thôn xóm rải rác dưới chân đồi hay bên bờ con sông trắng cong queo như đè nén dưới vẻ to tát của trời đất rộng rãi. Khói thổi cơm chiều của một vài nhà dân không còn có sức lên cao nữa, tỏa ra thành từng đám mầu lam ôm ấp lấy các mái tranh. (tr. 87)

Cảnh đêm giao thừa ở miền trung du, hòa với tình Dũng yêu Loan khi chàng tha thiết nhớ đến nàng, tất cả đã được Nhất Linh ghi thành những dòng vô cùng gợi cảm sau đây:

“Lờ mờ dưới ánh sao, giòng sông lẫn trong sương lạnh lẽo, mơ màng uốn khúc. Sau những chòm cây đen rải rác dưới chân đồi, đèn nến cúng giao thừa ở trong các nhà dân quê thấp thoáng ánh lửa vàng.

Dũng lắng tai cố nghe tiếng pháo ở những nơi xa xa rồi lại xa hơn đưa lại và tưởng tượng theo những tiếng pháo đó cứ mỗi lúc một đi xa mãi cho đến tận phía chân trời, nơi Loan ở.”(tr, 93)

Tổng kết về Đoạn Tuyệt

- Kết cấu khá chặt chẽ, động tác uyển chuyển. Tuy nhiên xét kỹ thấy có những chi tiết lỏng lẻo.

- Sự tiến triển tâm lý của các nhân vật (chính cũng như phụ) đều giữ được vẻ hợp lý.

- Luận đề Đoạn Tuyệt: đúng ở phần bài bác những hủ tục, nhưng quá khích ở một vài điểm khác.

- Văn chương Đoạn Tuyệt: trong sáng, gợi hình, gợi cảm.

Chú thích:

[11]. Chúng tôi theo cách chia thành từng thời kỳ có mạch lạc của ông Phạm Thế Ngũ tác giả “Bài Việt Văn Kỳ Thi Tú Tài” quyển III - Tài liệu theo ông Lê Hữu Mục tác giả “Thân Thế và Sự Nghiệp Nhất Linh”.

[12]. Chúng tôi biết danh từ “tình cảm” dùng ở đây hơi gượng ép, chỉ cốt để phân biệt với loại truyện ngắn tính các xã hội, để cập đến cảnh nghèo.

[13]. Tất cả những đoạn văn trích sau đây, đều căn cứ vào cuốn Đoạn Tuyệt do Phượng Giang xuất bản 1958.

[14]. Phạm Thế Ngũ - Bài Việt văn kỳ thi Tú Tài Quốc học Tùng Thư tr. 244- 245

[15]. Phạm Thế Ngữ - Bài Việt văn kỳ thi Tú Tài quyển III - trang 241 - Phạm Thế Ngũ -Quốc học Tùng Thư

[16]. Lê Hữu Mục - Khảo Luận về Đoạn Tuyệt - tr. 65 - Khai Trí xuất bản.

[7]. Phạm Thế Ngũ - Bài Việt văn kỳ thi Tú Tài - Quyển III - tr 243 - Quốc học Tùng thư.

[8]. Cả nửa bài “Giây phút tranh lòng” (cảm đề truyện Đoạn Tuyệt) của Thế Lữ là nói đến giây phút trên đây của Dũng:

Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,

Trong lúc gần xa pháo nổ ran,

Rũ áo phong sương trên gác trọ,

Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.

Ta thấy xuân nồng khắp mọi nơi,

Bên đường rộn rã tiếng đùa cười,

Động lòng nhớ bạn xuân năm nọ,

Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.

Lòng ta tha thiết đượm tình yêu,

Như cánh đồng xuân nhuốm nắng chiều,

Mắt lệ đắm trong miền cách biệt,

Phút giây chừng mỏi gối phiêu lưu.

Cát bụi tung trời - Đường vất vả,

Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân,

Tưởng người trong chốn xa xăm ấy,

Chẳng biết vui buồn đón gió xuân.